Một là, Nhà nước phải làm tốt vai trò
kiến tạo thị trường, sử dụng “bàn tay hữu
hình” để khắc phục những thất bại của thị
trường, tạo môi trường kinh doanh bình
đẳng cho các bên tham gia thị trường.
Điều đó có nghĩa là vai trò của Nhà nước
phải thực hiện tốt các chính sách an sinh
xã hội, tạo lập một hành lang pháp lý
công bằng, hiệu lực để thị trường hoạt
động hiệu quả. Ban hành và áp dụng một
hệ thống luật pháp thống nhất đối với các
chủ thể và thành phần kinh tế tham gia thị
trường, đảm bảo hiệu quả, minh bạch và
phù hợp với các cam kết hội nhập.
Hai là, cần thu hẹp khoảng cách
phân phối thu nhập giữa nhóm giàu
nhất và nghèo nhất ở Việt Nam bằng
việc sửa đổi chính sách thuế thu nhập
theo hướng giảm bớt sự đánh thuế vào
tiêu dùng và lao động, tăng đánh thuế
vào vốn, tài sản và thu nhập từ các
nguồn tài sản. Xây dựng cơ chế giám
sát, theo dõi, đánh giá chặt chẽ và minh
bạch hiệu quả của các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo.
Có biện pháp để những sự hỗ trợ này
đến được đúng địa chỉ và đối tượng cần
thụ hưởng chính sách. Có cơ chế giám
sát, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư
công, cũng như cải thiện chất lượng các
dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến
được với người nghèo.
Ba là, nên điều chỉnh chính sách xóa
đói giảm nghèo theo hướng giải quyết
trực tiếp nguyên nhân của đói nghèo,
trao cho các hộ gia đình nghèo “cần câu”
hơn là “con cá”. Chính sách xóa đói giảm
nghèo nên phối hợp thực hiện cùng với
chính sách đa dạng hóa sinh kế, đào tạo,
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
phổ biến kiến thức, cách thức sản xuất và
chuyển giao kỹ thuật,
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
44Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
BÀN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TS. Bùi Văn Can*. TS. Lý Hoàng Mai**
Tóm tắt: Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 30 năm. Tới năm 2018, Việt Nam đã được
69 quốc gia (chưa có Mỹ và EU) công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Vì vậy,
Việt Nam tiếp tục thực hiện song song hai nhiệm vụ: phát triển kinh tế theo mục tiêu
định hướng xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện các thể chế để thế giới công nhận là nước
có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Bài viết trình bày quan điểm về kinh tế thị trường,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và một số khuyến nghị cho Việt Nam.
Từ khóa: Kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh
tế Việt Nam.
Abstract: Vietnam has carried out economic reforms and realized a socialist-
oriented market economy for more than 30 years.Vietnam has been recognized by 69
countries (except for US and EU) as a market economy country since 2018. Therefore,
Vietnam continues to implement two paralleled tasks at a time: developing the socialist-
orientated market economy and perfecting institutions for being internationally
recognized as the country with a full market economy. The paper presents the
viewpoints on market economy, the socialist-oriented market economy and its current
situation in Vietnam and some suggested recommendations for Vietnam.
Keywords: Market economy, socialist-oriented market economy, Vietnam economy.
1. Kinh tế thị trường và kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a) Kinh tế thị trường
Khi phân tích sự hình thành nền kinh tế
hàng hóa-tiền, K.Marx đã đưa ra khái niệm
về nền kinh tế thị trường (KTTT) hiện đại
ngày nay dựa trên hai điều kiện: phân công
lao động xã hội và sở hữu tư nhân.
KTTT khởi đầu từ quá trình sản xuất
hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là một kiểu
tổ chức kinh tế mà sản phẩm được làm ra
để bán trên thị trường. Trong kinh tế hàng
hóa, toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối
và tiêu dùng đều thông qua hệ thống thị
trường, do thị trường quyết định.
Ngày nay, nền KTTT của các nước
công nghiệp phát triển (nhóm nước G7)
được xem là những nền kinh tế tiêu biểu,
hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng. Để
đạt được trình độ phát triển như ngày nay,
các nước này đã trải qua cả một thời kỳ
phát triển lâu dài.
Nếu xem xét tiến trình phát triển của
các hình thái kinh tế-xã hội, có thể thấy
trong nền kinh tế thế giới đã tồn tại một
số loại hình KTTT tiêu biểu sau:
- Kinh tế thị trường tự do: Ra đời trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
(tiêu biểu là Mỹ). Mô hình KTTT tự do đề
cao sở hữu tư nhân, tự do cá nhân, tự do
* Chủ nhiệm khoa Kinh tế Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
**Giảng viên khoa Kinh tế Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
45Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
kinh doanh, tự do cạnh tranh, đề cao vai trò
tự điều tiết bằng “bàn tay vô hình” của thị
trường đối với mọi hoạt động của nền kinh
tế. Trong mô hình này, nhà nước không
can thiệp quá nhiều vào nền kinh tế, chỉ tập
trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, bảo
vệ sở hữu tư nhân, các quyền tự do cá nhân,
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập các hành lang
pháp lý để thị trường vận hành.
- Kinh tế thị trường xã hội: Mô hình
KTTT này (tiêu biểu là CHLB Đức) thừa
nhận những yếu tố cơ bản, phổ biến, nền
tảng của KTTT, như cấu trúc đa sở hữu
với kinh tế tư nhân là nòng cốt, cơ chế
cạnh tranh, sự điều tiết của thị trường đối
với giá cả,... Tuy nhiên, mô hình này lại
coi trọng các mục tiêu xã hội, như công
bằng xã hội, phúc lợi xã hội,... Họ cho
rằng muốn giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, cần phải đẩy mạnh nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, phân phối thu nhập công
bằng và xây dựng hệ thống bảo hiểm xã
hội. Mô hình này đánh giá cao vai trò của
nhà nước trong việc dẫn dắt nền kinh tế,
không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng và hiệu
quả kinh tế, mà còn cả vì mục tiêu phát
triển và hiệu quả xã hội.
- Kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi:
Tương tự mô hình KTTT của CHLB Đức,
mô hình KTTT này (tiêu biểu là Thụy Điển)
dựa trên những nền tảng cơ bản chung của
KTTT, nhưng đồng thời mong muốn kết
hợp hài hoà giữa KTTT với bảo đảm phúc
lợi xã hội cho toàn dân thông qua vai trò
điều tiết, phân phối lại của nhà nước. Nhà
nước đánh thuế cao đối với thu nhập của
các đối tượng, nhất là đối với tài sản thừa
kế, và đánh thuế lũy tiến đối với các mức
thu nhập cao. Từ nguồn thu đó, nhà nước
thực hiện các chính sách phúc lợi về y tế,
giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cho
toàn dân, chính sách đối với người cao
tuổi, người khó khăn, trẻ em,...
Dù nền KTTT ở các quốc gia có thể
vận hành theo những mô hình nào thì đều
có chung những đặc trưng là: các chủ thể
kinh tế đa dạng, có quyền tự do kinh doanh
và có tính tự chủ cao trong hoạt động kinh
doanh; giá cả hàng hóa chịu sự chi phối của
thị trường; thị trường chịu sự chi phối của
các quy luật, như quy luật giá trị, quy luật
cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ,
Một đặc trưng quan trọng nữa là nền KTTT
là nền kinh mở, lợi nhuận là động lực thúc
đẩy thị trường phát triển và các chủ thể
tham gia thực hiện hành vi kinh doanh.
Ngày nay, nền KTTT đã phổ biến trên
toàn thế giới, trở thành giá trị chung của nhân
loại, là phương tiện hiệu quả trong khai thác
và phân bổ nguồn lực. Giá trị mà nó mang
lại cho đời sống vật chất cũng như tinh thần
của con người được thực tiễn khẳng định.
Bên cạnh đó, thị trường có thể gây ra một
số ảnh hưởng tiêu cực đối với phúc lợi xã
hội của một bộ phận dân cư hoặc một nhóm
ngành nghề nào đó, đòi hỏi vai trò của nhà
nước và xã hội cần phải được phát huy. Vì
thế, tùy thuộc vào điều kiện và tư duy phát
triển, mỗi nước sẽ lựa chọn cho mình một
mô hình KTTT phù hợp. Đối với Việt Nam,
đó là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa (KTTTĐHXHCN).
b) Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa
KTTTĐHXHCN là một kiểu tổ chức
kinh tế, vừa dựa trên những nguyên tắc và
quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc
và bản chất của CNXH. Đại hội XI (2011)
của Đảng CSVN khẳng định: “Nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những
quy luật của kinh tế thị trường, vừa được
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
46Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội” [1, tr. 34].
Nền KTTTĐHXHCN ở Việt Nam
có các yếu tố vừa đảm bảo định hướng
XHCN trong quan hệ sản xuất nhằm xây
dựng kiến trúc thượng tầng, chế độ chính
trị theo mô hình CNXH vừa đảm bảo yêu
cầu của một nền KTTT hiện đại và hội
nhập quốc tế. Đại hội XII của Đảng (2016)
chủ trương: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” [2, tr. 102].
Một điểm quan trọng nữa của nền
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam là nền kinh
tế vì con người, coi con người là trung tâm
của sự phát triển, lấy thành quả của sự phát
triển kinh tế để giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Thực hiện những chủ trương của
Đảng, hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế
Việt Nam đã có nhiều cải cách để phát
triển các thành phần kinh tế với các hình
thức sở hữu đan xen, cụ thể:
- Khu vực kinh tế nhà nước được tái
cấu trúc theo hướng giảm về quy mô, tăng
chất lượng và hiệu quả. Số lượng doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) giảm từ 12.000
(năm 1999) xuống còn khoảng 600 doanh
nghiệp năm 2018, chủ yếu là các doanh
nghiệp lớn, độc quyền nhà nước, tuy nhiên,
Nhà nước vẫn giữ khoảng 90% vốn điều lệ
[5]. Cải cách DNNN được xem như một
nhiệm vụ then chốt trong tiến trình đổi mới
nền kinh tế nước ta, là khâu đột phá nhằm
hoàn thiện hệ thống cộng cụ của Nhà nước
trong quản lý và phát triển KTTT.
- Khu vực kinh tế tư nhân được
khuyến khích và tạo hành lang pháp lý để
phát triển. Năm 2013 cả nước có 328.830
doanh nghiệp tư nhân (gồm công ty tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần tư nhân), nhưng sau bốn
năm, tức năm 2017, số doanh nghiệp tư
nhân đã tăng lên 561.064 [4].
Hình 1: Tăng trưởng GDP 2009 – 2018 (%)
Nguồn: VnEconomy, Toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam 2018 qua các con số, truy
cập 29/12 (
so-20181229165630823.htm).
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
47Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tăng nhanh. Nhà nước đã có nhiều
chính sách ưu đãi để thu hút khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI),
số lượng doanh nghiệp này năm 2017 là
14,6 nghìn, tăng 54,2% so với thời điểm
01/01/2012, bình quân hàng năm tăng
9,2% [6].
Trên 30 năm đổi mới kinh tế (1986-
2017), đặc biệt là giai đoạn trước khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 1997, tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
liên tục giữ ở mức cao hơn 7%/năm. Sau
năm 2008, do tác động của khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, GDP năm 2009 giảm
còn 5,32%, nhưng đến năm 2010 tăng
lên 6,78% và năm 2018 đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn: 7,08% (H.1).
Tăng trưởng kinh tế tạo ra những tiền
đề giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu định
hướng XHCN: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ một
nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên thành
một nước có thu nhập trung bình thấp
vào năm 2008. Theo Báo cáo của Ngân
hàng thế giới (WB), cho đến thời điểm
năm 2018, có tới 70% dân số Việt Nam
đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong
đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo
chuẩn thế giới. Tầng lớp này đang phát
triển nhanh chóng, tăng hơn 20% trong
giai đoạn 2010-2017. Từ năm 2014, trung
bình mỗi năm có 1,5 triệu người Việt Nam
gia nhập tầng lớp trung lưu toàn cầu.
Tình trạng đói nghèo ở Việt Nam, đặc
biệt là trong các dân tộc thiểu số, tiếp tục
giảm mạnh, tới 13% là mức giảm lớn nhất
trong thập niên vừa qua [7]. Với những
nỗ lực trong việc điều chỉnh các chính
sách, đặc biệt là chính sách xóa đói giảm
nghèo, chính sách an sinh xã hội, Việt
Nam đã đạt được những kết quả nhất định
trong việc thực hiện mục tiêu định hướng
XHCN theo điều 59 của Hiến pháp 2013:
“Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để
công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát
triển hệ thống an sinh xã hội”.
Tuy đạt được một số kết quả nhất
định trong việc thực hiện mục tiêu định
hướng XHCN, nhưng hiện nay nền
KTTTĐHXHCN của Việt Nam vẫn gặp
phải các nút thắt trong qua trình phát triển.
Thứ nhất, tốc độ phát triển giữa các
vùng vẫn có sự chênh lệch đáng kể và
hình thành nên những “túi nghèo” của
đất nước. Người nghèo, cận nghèo,
nhóm 40% nghèo nhất phân bổ trên cả
nước, nhưng vẫn chủ yếu tập trung ở khu
vực nông thôn, bao gồm 82% người cận
nghèo và 84% nhóm 40% nghèo nhất.
Có rất ít người nghèo sống tại các trung
tâm đô thị lớn, lần lượt chỉ là 2% người
nghèo, 4% người cận nghèo và 3% của
nhóm 40% nghèo nhất. Trong nhóm 40%
nghèo nhất, có tới 70% sinh sống tại bốn
khu vực: Đồng bằng sông Hồng, miền
núi Đông Bắc Bộ, Duyên hải miền Trung
và Đồng bằng sông Cửu Long (World
Bank 2016) [9].
Thứ hai, hệ số GINI (bất bình đẳng
thu nhập) của Việt Nam có xu hướng gia
tăng. Nếu như năm 1993 chỉ là 0.33, thì
đến năm 2016 đã tăng lên 0.44. Bên cạnh
đó, chênh lệch giữa nhóm 20% dân số
giàu nhất so với nhóm 20% dân số nghèo
nhất chỉ khoảng 4,4 lần, thì đến năm 2016
đã tăng lên 10 lần [3].
Thứ ba, cho đến nay Việt Nam vẫn
chưa được Mỹ và EU công nhận là nước
có nền KTTT đầy đủ.
3. Một số khuyến nghị
Từ việc phân tích thực trạng nền
KTTTĐHXHCN ở Việt Nam, có thể thấy
trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục
nỗ lực cải cách thể chế để gỡ bỏ ba nút
thắt của sự phát triển:
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
48Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 02/2019
Một là, Nhà nước phải làm tốt vai trò
kiến tạo thị trường, sử dụng “bàn tay hữu
hình” để khắc phục những thất bại của thị
trường, tạo môi trường kinh doanh bình
đẳng cho các bên tham gia thị trường.
Điều đó có nghĩa là vai trò của Nhà nước
phải thực hiện tốt các chính sách an sinh
xã hội, tạo lập một hành lang pháp lý
công bằng, hiệu lực để thị trường hoạt
động hiệu quả. Ban hành và áp dụng một
hệ thống luật pháp thống nhất đối với các
chủ thể và thành phần kinh tế tham gia thị
trường, đảm bảo hiệu quả, minh bạch và
phù hợp với các cam kết hội nhập.
Hai là, cần thu hẹp khoảng cách
phân phối thu nhập giữa nhóm giàu
nhất và nghèo nhất ở Việt Nam bằng
việc sửa đổi chính sách thuế thu nhập
theo hướng giảm bớt sự đánh thuế vào
tiêu dùng và lao động, tăng đánh thuế
vào vốn, tài sản và thu nhập từ các
nguồn tài sản. Xây dựng cơ chế giám
sát, theo dõi, đánh giá chặt chẽ và minh
bạch hiệu quả của các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo.
Có biện pháp để những sự hỗ trợ này
đến được đúng địa chỉ và đối tượng cần
thụ hưởng chính sách. Có cơ chế giám
sát, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư
công, cũng như cải thiện chất lượng các
dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến
được với người nghèo.
Ba là, nên điều chỉnh chính sách xóa
đói giảm nghèo theo hướng giải quyết
trực tiếp nguyên nhân của đói nghèo,
trao cho các hộ gia đình nghèo “cần câu”
hơn là “con cá”. Chính sách xóa đói giảm
nghèo nên phối hợp thực hiện cùng với
chính sách đa dạng hóa sinh kế, đào tạo,
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
phổ biến kiến thức, cách thức sản xuất và
chuyển giao kỹ thuật,
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016.
3. Bài toán tăng trưởng bao trùm và bất bình đẳng. Báo Tuổi trẻ Online, 2017. https://
tuoitre.vn/bai-toan-tang-truong-bao-trum-va-bat-binh-dang-201711071017237 24.htm.
4. Cả nước có 561.064 doanh nghiệp đang hoạt động. Thời báo Tài chính Việt
Nam online, 2018.
ca-nuoc-co-561064-doanh-nghiep-dang-hoat-dong-53582.aspx
5. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước: nhiều tồn tại cần xử lý sớm. Thời báo Tài
chính Việt Nam online, 2018.
11-21/doi-moi-doanh-nghiep-nha-nuoc-nhieu-ton-tai-can-xu-ly-som-64545.aspx.
6. Số lượng doanh nghiệp FDI tăng mạnh. Báo “Kinh tế & Đô thị”. Hà Nội, 2018,
7. Thiên Kim (2018). Tầng lớp trung lưu tăng và tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam
tiếp tụcgiảm, https://doanhnghiepvn.vn/tang-lop-trung-luu-tang-va-ty-le-doi-ngheo-
o-viet-nam-tiep-tuc-giam-d123489.html.
8. Toàn cảnh bức tranh kinh tế Việt Nam 2018 qua các con số. VnEconomy, 2018.
9. World Bank (2016). Báo cáo đánh giá quốc gia Việt Nam 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_ve_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghia_o.pdf