Đề tài Các giải pháp xúc tiến và khuếch trương nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào Khu Công Nghiệp Song Khê-Nội Hoàng tỉnh Bắc Giang

Chiến lược xúc tiến hỗn hợp hỗn hợp rất quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chiến lược marketing nào. Nó giúp cho hoạt động Marketing hoàn thiện, có hệ thống và hiệu quả. Giúp cho việc thu hút vốn đầu tư hiệu quả hơn vì ta có nhiều cơ hội chọn lựa các nhà đầu tư hơn. Nhờ có hoạt động này mà các nhà đầu tư có được thông tin chi tiết chính xác và đầy đủ về các chính sách đầu tư cung như các cơ hội đầu tư. Thúc đẩy mạnh tiến trình hoàn thiện các dự án xây dựng các khu công nghiệp do nhà nước đề ra.

doc54 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp xúc tiến và khuếch trương nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư vào Khu Công Nghiệp Song Khê-Nội Hoàng tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lộ bằng vốn vay ADB gồm 6 tuyến thuộc Tỉnh lộ 284, Tỉnh lộ 293, Tỉnh lộ 285 có tổng số vốn đầu tư 89,5 tỷ đồng.... Về lĩnh vực thủy lợi, tổng vốn đầu tư của dự án năm 2006 dự kiến tăng gấp 3 lần so với năm 2005, bao gồm : hệ thống thủy lợi Cầu Sơn-Cấm Sơn, hệ thống thủy lợi nam Yên Dũng, hệ thống thủy lợi Hồ Suối Mỡ (Lục Nam), chùm hồ Hàm Rồng (Lục Ngạn). Về công nghiệp,đến nay khu công nghiệp Quang Châu đã tiến hành bồi thường giải phóng mặt bằng đợt 1 được 100 ha. Hiện tại khu công nghiệp này vẫn tiếp tục tiến hành san lấp và giải phóng mặt bằng. Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã giải phóng xong 32 ha trong khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng ( Yên Dũng), hiện đang quy hoạch xây dựng cảng đồng sơn ( Yên Dũng ) với diện tích khoảng 20 ha và sẽ triển khai đầu tư. Đối với cụm công nghiệp ôtô Rồng Vàng, năm 2006 tổng công ty công nghiệp ôtô Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư khoảng 100 tỷ đồng đẻ xây dựng thêm nhà máy sản xuất ôtô Bắc Hà, Nhà máy dập thùng xe tải, Nhà máy kính an toàn ôtô và sẽ phấn đấu tới năm 2007 lấp đầy diện tích khu công nghiệp này. Hiện nay Bắc Giang có trên 800 DN dân doanh, trung bình cứ 2 ngày có một doanh nghiệp được thành lập (năm 2005). Trong đó tập trung nhiều nhất ở thành phố Bắc Giang. Trong năm 2006 này, với sự có mặt của chi nhánh ngân hàng cổ phần VPB mới khai trương tại Bắc Giang; Cục Hải quan Lạng Sơn đã thành lập chi cục hải quan Bắc Giang đặt tai khu công nghiệp Đình Trám sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa, góp phần tăng thu ngân sách cho tỉnh. Đó là tín hiệu khả quan về môi trường đầu tư. Ngoài ra, trong năm 2006, với sự có mặt của chi nhánh ngân hàng cổ phần VPB( thuộc ngân hàng cổ phần ngoài quốc doanh Việt Nam) mới khai trương tại thành phố Bắc Giang; cục hải quan Lạng Sơn đã thành lập chi cục hải quan Bắc Giang đặt tại khu công nghiệp Đình Trám, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong tỉnh xuất khẩu hàng hoá, góp phần tăng thu ngân sách cho Tỉnh. Đó là những tín hiệu khả quan về môi trường đầu tư kinh doanh ở Bắc Giang. 2. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư. Các nguồn vốn đầu tư bao gồm :Vốn trong nước, vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp và có thể là vốn đầu tư nước ngoài 100% hoặc liên doanh nước ngoài. Việc thu hút vốn không cần phải giới hạn là trong nước hay nước ngoài miễn là phù hợp với chính sách phát triển của UBND tỉnh và nhà nước đề ra. Cơ cấu vốn đầu tư vào các nghành cần phải có sự cân đối và có sự điều chỉnh của các chính sách đầu tư tránh tình trạng mất cân đối. Thu hút vốn đầu tư một cách không có định hướng, ồ ạt không có sự kiểm tra kiểm soát chặt chẽ. 3. Hiệu quả của các nguồn vốn đầu tư. Từ năm 2001 đến nay tỉnh Bắc Giang đã thu hút được 200 dự án đầu tư, với số vốn đăng kí gần 10 gnàn tỷ đồng.trong đó có 29 DN có vốn nước ngoài với tổng số vốn lên tới 44.3 triệu USD. Riêng trong năm 2005 tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước đạt 2.695 tỷ đồng,bằng 103,7% kế hoạch, tăng 15% so với năm 2004. Trong đó thu hút thêm 7 dự án nước ngoài. Kế hoạch vốn đầu tư cơ bản từ ngân sách nhà nước năm 2006 tăng 19,8% so với năm 2005. Về việc tiếp nhận dự án đầu tư cơ bản cũng có những tín hiệu khả quan, đó là tổng vốn đầu tư cho nghành giao thông năm 2006 có thể tăng gấp 2 lần so với năm 2005. Nhờ có vốn đầu tư nên trong thời gian qua đã thực hiện dự án giao thông 3 gồm 4 tuyến : Phương Đông -Bến Trăm( huyện Yên Thế),Cung Kiệm -Yên Tập-Minh PHượng( huyện Yên Dũng),Thị trấn Thắng -Bến Gầm( huyện Hiệp Hòa)Quốc lộ 31-Đống Bộp( huyện Việt Yên) với tổng số vốn đầu tư khoảng 26 tỷ đồng. Dự án nâng cấp Tỉnh lộ bằng vốn vay ADB gồm 6 tuyến thuộc Tỉnh lộ 284, Tỉnh lộ 293, Tỉnh lộ 285 có tổng số vốn đầu tư 89,5 tỷ đồng.... Phần hai Thực trạng các biện pháp xúc tiến khuếch trương để thu hút vốn đầu tư của sở I. đặc điểm thị trường thu hút vốn đầu tư của sở. 1. Đặc điểm các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài có quy mô rất lớn, nguồn vốn mạnh. Trình độ khoa học kỹ thuật cao, có nhiều phương pháp sản xuất mới, kỹ thuật ứng dụng hiện đại, khả năng quản lý điều hành tốt. Nếu tận dụng triệt để điều này ta có thể nâng cao được trình độ khoa học công nghệ thông qua các hoạt động chuyển giao công nghệ...Có như vậy ta mới rút ngắn được thời gian CNH - HĐH đất nước. Họ có một khả năng kinh doanh tốt, khả năng đầu tư và phát triển những nghành nghề mới chưa có hoặc kém phát triển ở Việt Nam. Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều về tác phong trong công việc, cách xử lý các tình huống xảy ra trong sản xuất và kinh doanh. Điều này rất qúy báu và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Đó cũng là một trong những nguyên nhân là cho nền kinh tế nước ta từ trước tới nay kém phát triển. Điều mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi đầu tư vào Việt Nam là hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu, các chính sách thủ tục hành chính rườm rà chưa thông thoáng, nhanh gọn làm chậm quá trình đầu tư. Ngoài ra, tình trạng tham nhũng quan liêu còn nhiều cũng là một vấn đề mà các nhà đầu tư lo ngại khi tham gia đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên họ có khó khăn là không am hiểu thị trường Việt Nam. Mất nhiều thời gian để tìm hiểu nghiên cứu các phong tục tập quán cũng như thói quen, nhu cầu... 2. Đặc điểm các nhà đầu tư trong nước. Nhà đầu tư trong nước nguồn vốn nhỏ dẫn tới quy mô sản xuất hẹp, do đó không tạo được lợi thế về quy mô. Mặt khác nó cũng tạo ra chi phí sản xuất lớn làm cho giá thành sản phẩm tăng, vì thế nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường yếu. Ngoài ra, những nhà đầu tư trong nước có trình độ quản lý chưa cao, phương thức sản xuất, khoa học công nghệ để sản xuất sản phẩm còn yếu kém, làm thất thoát nhiều nguồn lực của doanh nghiệp, và do đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới giá thành sản phẩm tăng, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được những yêu cầu của người tiêu dùng, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hoạt động sản xuất mang tính chuyên nghiệp thấp, sự chuyên môn hoá của các doanh nghiệp chưa cao làm cho năng suất lao động thấp. Tuy nhiên, lợi thế của các doanh nghiệp Việt Nam là họ có khả năng hiểu rõ nền văn hoá Việt Nam, những đặc điểm hành vi và nhu cầu của người Việt Nam. Cho nên họ có khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất. II. Thực trạng sử dụng các công cụ xúc tiến khuyếch trương trong thu hút vốn của Sở 1. Mô hình sử dụng các công cụ xúc tiến, khuyếch trương của Sở. Hiện tại, Sở mới chỉ sử dụng công cụ PR ( tổ chức hội nghị ) trong hệ thống các công cụ khuyếch trương. Các nhà đầu tư Hội nghị (PR) Sở Xử lý thông tin Thông tin Biện pháp Mô hình sử dụng công cụ PR trong hoạt động thu hút vốn đầu tư của Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Bắc Giang. 2. Thực trạng sử dụng các công cụ xúc tiến khuếch trương trong việc thu hút vốn đầu tư của Sở. a. Cơ cấu các công cụ xúc tiến được sử dụng. Sở chưa có một mô hình xúc tiến khuếch trương cụ thể. Chưa nắm bắt một cách sâu sắc về kiến thức, tầm quan trọng của Marketing cũng như nhóm các công cụ xúc tiến khuếch trương trong hoạt động thu hút vốn đầu tư. Trong quá trình thu hút vốn đầu tư sở chỉ mới sử dụng công cụ PR bằng cách tổ chức các hội nghị gặp mặt các nhà đầu tư trong và ngoài nước diễn ra ở TP.HCM và Hà Nội trong năm 2003, 2004 vừa qua.Trong hội nghị vấn đề đặt ra là phải tìm được tiếng nói chung giữa chính quyền địa phương và các nhà đầu tư. Qua đối thoại các nhà đầu tư trình bày những nguyện vọng của mình, các thắc mắc xung quanh việc thực hiện các thủ tục đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư…. Các công cụ khác như : Quảng cáo, Marketing trực tiếp, Bán hàng cá nhân trực tiếp,Xúc tiến bán, chưa được sử dụng. Vấn đề đặt ra ta phải có chương trình giới thiệu cho cấp lãnh đạo Sở sơ qua về các công cụ trong nhóm biện pháp xúc tiến khuếch trương như sau : + Quảng cáo: Quảng cáo là một hình thức truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao. Nó yêu cầu sản phẩm phải có tính hợp pháp và được chấp nhận rộng rãi. Quảng cáo là một phương tiện có tính thuyết phục,tạo cơ hội cho người nhận tin so sánh thông tin với các đối thủ cạnh tranh làm tăng thêm sức thuyết phục đối với khách hàng mục tiêu ở đây là các nhà đầu tư. Ngôn ngữ sử dụng trong hoạt động quảng cáo hết sức phong phú, đa dạng, phương tiện quảng cáo phổ cập và tiện lợi, quảng cáo mở ra khả năng giới thiệu về các cơ hội đầu tư coa lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư, cung như thế lực của các nhà đầu tư một cách trực diện. Quảng cáo không phải là sự giao tiếp đoói thoại giữa các các doanh nghiệp và khách hàng. Quảng cáo chỉ là hình thức thông tin một chiều : Truyền tin về các điều kiện mà doanh nghiệp được ưu đãi khi đầu tư, các lợi thế kinh tế đạt được... mà thôi. Quảng cáo có thể tạo được hình ảnh về sản phẩm, dịch vụ và định vị nó trong tâm trí của các nhà đầu tư.tuy vậy nhưng quảng cáo giúp cho việc thúc đẩy thu hút vốn nhanh chóng, đồng thời thu hút các nhà đầu tư phân tán về không gian và chi phí mỗi lần tiếp xúc. + Xúc tiến bán: Là một hoạt động truyền thông trong đó sử dụng nhiều phương tiện tác động trực tiếp, tạo lợi ích vật chất bổ sung cho khách hàng như phiếu mua hàng, các cuộc thi, xổ số, trò vui có thưởng,....Chúng thu hút sự chú ý và thường xuyên cung cấp thông tin để dẫn khách hàng tới việc sử dụng sản phẩm.Chúng khuyến khích việc mua hàng nhờ đưa ra nhưng lợi ích phụ thêm do mua hàng hóa của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng các biện pháp xúc tiến bán để có được phản ứng của người mua nhanh hơn.Tuy nhiên,tác dung của xúc tiến bán chỉ trong thời kỳ ngắn hạn, không phát huy tác dụng trong thời kỳ dài hạnvà không sử dụng dẽ dẫn tới phản tác dụng. + PR: Có sức hấp đãn đối tượng nhận tindo nguồn tin và các thông tin trung thực hơn quảng cáo.Tuyên truyền có thể tới được đông đảo khách hàng mục tiêu tiềm năng mà họ né tránhcác hoạt động truyền thông khác.Cũng giống như quảng cáo tuyên truyền giới thiệu hàng hóa có hiệu quả rất trực diện. + Bán hàng cá nhân: Là một công cụ đem lại hiệu quả cao nhất trong giai đoạn hình thành sự ưa thích và niềm tin của khách hàng và giai đoạn quyết định mua trong giai đoạn quyết định mua. Bán hàng cá nhân đòi hỏi có sư giao tiếp qua lại giưa hai hay nhiều người. Hai bên giao tiếp có thể nghiên cứu trực tiếp được nhu cầu và đặc điểm của nhau,đồng thời có sư linh hoạt trong giao tiếp cho phù hợp. b. Yếu tố quyết định cơ cấu xúc tiến. Yếu tố quyết định cơ cấu xúc tiến của Sở là do bản chất của thu hút vốn đầu tư là một loại sản phẩm dịch vụ, không thể sử dụng các công cụ xúc tiến khuếch trương như các sản phẩm cụ thể. ở đây, nó mang đặc điểm của các chính sách phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, xã hội của nhà nước. Nó phụ thuộc phần lớn vào các chính sách phát triển kinh tế xã hội của UBND tỉnh, nhà nước. Tất cả hoạt động thu hút vốn đầu tư phải nằm trong khuôn khổ, chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà nước. Hoạt động xúc tiến khuếch trương không được đi ngược lại với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bất cứ một hoạt động nào muốn tiến hành thì đều phải có ngân sách hoạt động. Ngân sách để sử dụng các công cụ xúc tiến khuếch trương của Sở cũng phụ thuộc vào sự phân bổ ngân sách có giới hạn của nhà nước. Bên cạnh đó đối tượng nhận tin ở đây là các nhà đầu tư. Cách tiếp xúc và tìm hiểu thông tin củ họ sẽ quyết định phần lớn việc sử dụng các công cụ. Ta hoàn toàn không thể dùng cá công cụ mà các nhà đầu tư không có khả năng tiếp xúc thông tin và các công cụ không có sư chọn lọc đối tượng nhận tin. Bởi vì điều này dẫn đến những việc làm của chúng ta là hoàn toàn vô nghĩa, không đem lại hiệu quả như mong muốn. Một yếu tố có ảnh hưởng tới cơ cấu xúc tiến là chính bản thân nội tại của các phương tiện thực hiện. Mỗi phương tiện đều có ưu nhược điểm khả năng và giới hạn riệng chi phối mạnh mẽ tới cơ cấu sử dụng các công cụ xúc tiến. c. Thực trạng việc thiết lập và triển khai thực hiện các công cụ xúc tiến. Nhìn chung các hoạt động thu hút vốn đầu tư của sở mới chỉ căn cứ và dựa vào các chính sách của nhà nước và của UBND Tỉnh mới có dấu hiệu sự hiện diện của các biện pháp Xúc Tiến Khuếch Trương của Marketing là hoạt động PR. UBND tỉnh đã có các biện pháp đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cải tiến các thủ tục đầu tư theo cơ chế "Một cửa tại chỗ". Bên cạnh đó tất cả các hoạt động của sở chưa ứng dụng những thành tựu của Marketing. Các thành viên trong Sở vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng, vai trò của hoạt động Marketing trong hoạt động thu hút vốn đầu tư. Khi ứng dụng hoạt động Marketing một cách bài bản và có kế hoạch ta dễ dàng tìm được các nhà đầu tư có chất lượng và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả cao. Qua hoạt động Marketing mọi nhà đầu tư đều có thể nắm bắt được các chính sách chế độ ưu đãi khi đầu tư, từ đó có thể tạo ra được sự cạnh tranh nhờ vậy Sở sẽ có nhiều sự lựa chọn các nhà đầu tư hơn. Điều này dẫn tới chất lượng và hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn. Dự án đầu tư chưa thực sự được coi như một hàng hóa. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động thu hút vốn đầu tư cần phải tiến hành xúc tiến khuếch trương chúng như những hàng hóa thông thường khác. Xúc tiến khuếch trương là một trong bốn công cụ quan trọng của Marketing –Mix. Chúng ta có thể sử dụng công cụ này để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh đã đề ra. Bản chất của hoạt động này là truyền đạt các thông tin, chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư để các nhà đầu tư thấy được những thuận lợi, khó khăn và tiềm năng kinh tế khi tham gia đầu tư. iii. Đánh giá thành công và hạn chế của việc sử dụng các công cụ trong việc thu hút vốn đầu tư của sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh bắc giang. 1.Các thành tựu đạt được khi sử dụng các công cụ. Tuy mới chỉ sử dụng có công cụ PR vào trong quá trình thu hút vốn đầu tư nhưng sở đã đạt được một số thành công rất tốt. Cụ thể trong năm 2003 tổ chức hội thảo gặp mặt các nhà đầu tư tại TP.HCM, năm 2004 ở Hà Nội. Thời gian qua ngày càng có nhiều các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào thị trường Bắc Giang. Từ năm 2001 đến nay tỉnh Bắc Giang đã thu hút được 200 dự án đầu tư, với số vốn đăng kí gần 10 ngàn tỷ đồng. Trong đó có 29 DN có vốn nước ngoài với tổng số vốn lên tới 44.3 triệu USD. Riêng trong năm 2005 tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 2.695 tỷ đồng, bằng 103,7% kế hoạch, tăng 15% so với năm 2004. Trong đó thu hút thêm 7 dự án nước ngoài. Kế hoạch vốn đầu tư cơ bản từ ngân sách nhà nước năm 2006 tăng 19,8% so với năm 2005. Về việc tiếp nhận dự án đầu tư cơ bản cũng có những tín hiệu khả quan, đó là tổng vốn đầu tư cho nghành giao thông năm 2006 có thể tăng gấp 2 lần so với năm 2005. Do có vốn đầu tư nên trong thời gian qua đã thực hiện dự án giao thông 3 gồm 4 tuyến : Phương Đông -Bến Trăm( huyện Yên Thế), Cung Kiệm -Yên Tập-Minh PHượng( huyện Yên Dũng), Thị trấn Thắng -Bến Gầm( huyện Hiệp Hòa) Quốc lộ 31-Đống Bộp( huyện Việt Yên) với tổng số vốn đầu tư khoảng 26 tỷ đồng. Dự án nâng cấp Tỉnh lộ bằng vốn vay ADB gồm 6 tuyến thuộc Tỉnh lộ 284, Tỉnh lộ 293, Tỉnh lộ 285 có tổng số vốn đầu tư 89,5 tỷ đồng.... 2. Những khó khăn gặp phải khi sử dung các công cụ. Khó khăn lớn nhất là chính bản thân Sở chưa thấy được vai trò và tác dụng to lớn của Marketing trong việc thu hút vốn đầu tư. Đây là một rào cản lớn trong việc tiến hành sử dụng các biện pháp nhằm thu hút vốn. Để thay đổi sự nhận thức này không phải chỉ là một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Không có sự đồng ý của các cấp lãnh đạo của tỉnh thì không thể có ngân sách để thực hiện. Bởi vì việc sử dụng các công cụ này đòi hỏi nguồn ngân sách không nhỏ, nên đây là một trở ngại rất lớn. Không chỉ dừng lại ở đó khi không có sự nhất chí, thống nhất thì việc sử dụng các công cụ rất khó khăn. Ví dụ trong hoạt động PR để thu hút vốn đầu tư rất cần phải có các quan chức và lãnh đạo tỉnh tham dự để đối thoại với các nhà đầu tư, để nghe các nguyện vọng mong muốn cũng như các đòi hỏi khi tham gia đầu tư vào Bắc Giang. Mặt khác với sự có mặt của họ sẽ làm cho chương trình PR tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư. Phần ba Giải pháp hoàn thiện hoạt động xúc tiến khuếch trương nhằm thu hút vốn đầu tư của sở kế hoạch và đầu tư bắc giang i. triển vọng thị trường các nhà đầu tư ở việt nam. Thị trường Việt Nam vẫn còn là một thị trường yếu so với thế giới. Trong năm 2005 GDP tăng 8.4% và là mớc tăng cao nhất trong 9 năm qua. Sự phát triển này được tập hợp từ sự phát triển của nhiều yếu tố. Trong đó sản xuất công nghiệp tăng 17%, khu vực công nghiệp quốc doanh tăng gần 25%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng gần 20% và doanh nghiệp nhà nước tăng 9%. Từ năm 2000 GDP tăng trung bình 7.4% là một trong tốp những nước có sự tăng trưởng lớn nhất Châu á. Các chuyên gia kinh tế thế giới nhận định rằng trong 10 năm tới kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng vượt cả Thái Lan là một nền kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam á. Theo dự kiến trong 5 năm tới nước ta cần 140 tỷ USD cho đầu tư phát triển Xã Hội trong đó 35% là dựa vào vốn nước ngoài. Trong chiến lược phát triển kinh tế đặt ra là phải đạt được thu nhập bình quân 1000 USD trên một đầu người (2010) và GDP tăng từ 7.5%-8% trên năm. Nước ta là một nước nông nghiệp phát triển chậm nên việc thu hút vốn đầu tư để đẩy nhanh, mạnh phát triển kinh tế là đúng đắn. Thấy được tầm quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vừa qua chính phủ đã không ngừng đổi mới các chính sách cũng như thủ tục đầu tư nhằm tránh rườm rà trong khâu thủ tục hành chính cấp giấy phép đầu tư và các chính sách ưu đãi đầu tư. Thời gian qua chính phủ ta đã tổ chức nhiều các hội nghị hội thảo đối thoại với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tại phiên bế mạc hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam do chính phủ Việt Nam và Ngân Hàng Thế Giới chủ tọa. Chính phủ ta nhấn mạnh tầm quan trọng phát triển các ngành kinh tế cơ bản và các nhà tài trợ cam kết sẽ tài trợ cho việt nam 3.7 tỷ USD (7/12/05). Không chỉ vậy chính phủ có tổ chức nhiều hội nghị khác như vào tháng 3/2006 vừa qua tại Hà Nội chính phủ đã tổ chức gặp mặt với các nhà đầu tư hội nghị đã có 3000 người tham gia (đông gấp đôi so với dự kiến).Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đã để ý đến nhiều thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó vừa qua Bộ kế hoạch và đầu tư đã cử phái đoàn sang Nhật Bản để vận động nhàm thu hút vốn đầu tư. Muốn thu hút một cách mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư chính phủ đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều mà khiến các nhà đầu tư nước ngoài còn do dự là cơ sở hạ tầng của chúng ta còn thấp kém, cùng với các thủ tục hành chính chưa thông thoáng. Phần trăm dân số sử dụng các dịch vụ ngân hàng hay các dịch vụ liên quan tới tài chính cón quá thấp chưa tới 5% (theo Merrill chuyên gia kinh tế nhận xét). Nước ta có hai thành phố lớn nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh nhưng hai thành phố hiện đại này vẫn giữ thứ hạng rất thấp về đặc điểm sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Qua khảo sát thì TP. Hồ Chí Minh đứng thứ 105 còn Hà nội chỉ đứng thứ 112 trong tổng số 127 hạng. Bên cạnh đó thủ đô Pnompenh của Campuchia chỉ đứng sau 1 bậc so với Hà Nội điều này chứng tỏ sự hấp dẫn môi trường đầu tư ở Việt Nam còn rất thấp. ii.hoàn thiện giải pháp xúc tiến, khuyếch trương nhằm thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp song khê - nội hoàng của sở. 1.Hoạch định chương trình tổ chức hoạt động xúc tiến hỗn hợp có hiệu quả. a. Xác định đối tượng nhận tin. Xác định đối tượng nhận tin nó sẽ quyết định hàng loạt những vấn đề có liên quan như : Công cụ và phương tiện nào được sử dụng? việc xây dựng ngân sách ra sao. Việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc ta nói gì, nói như thế nào, nói với ai và ở đâu. Những quyết định này quyết định trực tiếp sự thành công hay thất bại của hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Do vậy việc xác định công chúng nhận tin cần phải hết sức thận trọng và chính xác. Đối tượng nhận tin đa dạng và có sự khác nhau về trình độ, quy mô, mục tiêu kinh doanh và khả năng tài chính khác nhau...Vì vậy cần phải phân loại các nhà đầu tư có những tiêu chí giống nhau hay tương đối giống nhau để có biện pháp tác động phù hợp. Ta có thể sử dụng cá tiêu chí để phân loại khách hàng mục tiêu mà ở đây là các nhà đầu tư như sau : Tiêu thức địa lý, quy mô và nghành nghề kinh doanh. Ta có thể phân thành nhà đầu tư trong nước, nước ngoài, theo nghành nghề kinh doanh như nhà đầu tư công nghiệp và tiêu dùng, thực phẩm ... Đối với các nhà đầu tư nước ngoài vấn đề mà họ e ngại nhất là hệ thống cơ sở hạ tầng, các thủ tục hành chính...Ta có thể cam kết với họ sẽ năng cấp và không ngừng cải thiện cơ sở hạ tầng và các thủ tục hành chính sao cho gọn nhẹ, áp dụng cơ chế “một cửa” tránh gây phiền hà, mà điều này đang được chính phủ tiến hành nhanh chóng. Muốn xác định được các nhà đầu tư một cách chọn lọc phù hợp với chính sách phát triển của Tỉnh đề ra thì một cuộc nghiên cứu về tâm lý hành vi các nhà đầu tư là rất cần thiết. Đây là vấn đề mấu chốt cơ bản nhất để tìm kiếm được thông tin về thị trường và xác nắm bắt được những đặc điểm cơ bản nhất, chung nhất về các nhà đầu tư. Nghiên cứu thị trường cần phải có kế hoạch và chương trình cụ thể. Sở có thể tự tiến hành nghiên cứu theo bảng câu hỏi và sử dụng các công cụ phân tích để kiểm tra lại mô hình hoặc có thể thuê ngoài. Từ đó có thể xem xét có thể mở rộng thị trường các nhà đầu tư, phát triển mục tiêu, chiến lược phát triển và hình thành mục tiêu Marketing một cách hệ thống. Đây là nguồn thông tin rất hữu ích, là thông tin sơ cấp đóng vai trò quan trọng trong hoạt động Marketing của Sở. Tránh nghiên cứu thị trường theo cảm tính điều này có thể dẫn đến những quyết định sai lầm. Từ nghiên cứu hành vi của các nhà đầu tư ta mới có thể đưa ra những quyết định liên quan tới xúc tiến hỗn hợp một cách hiệu quả và tiết kiệm. Nếu ta thuê các công ty hay tổ chức nghiên cứu thị trường bên ngoài có những ưu điểm sau: thông tin thu thập được có độ tin cao hơn, chính xác, kỹ thuật phân tích của họ có chuyên môn cao do đã có kinh nghiệm trong những cuộc nghiên cứu trước, tránh được những sai lầm trong thu thập số liệu,thông tin cập nhật, tiết kiệm được thời gian. Mặt khác các đối thủ cạnh tranh (các tỉnh lân cận) cũng không lường được hết các khả năng nên có thể thu thập được thông tin mang tính bất ngờ và cho độ chính xác cao hơn. Tuy nhiên thuê ngoài cũng có nhược điểm, chi phí thuê ngoài cao hơn nhiều so với tự tiến hành. Chi phí cho một cuộc điều tra ở thị trường hàng tiêu dùng khoảng 150 triệu cho mẫu khoảng 1500 mẫu điều tra. Các thông tin thu thập được từ nghiên cứu này giúp ích rất lớn trong quá trình xây dựng kế hoạch truyền thông. Nếu không thuê ngoài các thông tin thu được có thể mắc phải các lỗi chủ quan mà mặt khác các nhân viên thực hiện nghiên cứu không có nghiệp vụ về marketing nên trong quá trình điều tra có thể bỏ xót thông tin, thu thập thừa thông tin hoặc sai lệch về thông tin mặc dù chi phí cho nghiên cứu Marketing có thể thấp nhưng hiệu quả thu được lại không cao. Xác định đối tượng nhận tin có liên quan đến việc phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu. Việc phân đoạn thị trường được thực hiện tốt sẽ giúp lựa chọn được đoạn thị trường hợp lý và một tập hợp các nhà đầu tư có hiệu quả sử dụng vốn cao. Mặt khác ta có các chính sách và biện pháp Marketing cũng như phương tiện sử dụng sao cho phù hợp với từng nhóm nhà đầu tư khác nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài có những đặc điểm về tâm lý và hành vi khác với các nhà đầu tư trong nước. Điều họ băn khoăn là mội trường đầu tư : cơ sở hạ tầng, các thủ tục hành chính khi tiến hành đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư, triển vọng phát triển của sản phẩm...Mặt khác các nhà đầu tư trong nước quan tâm chủ yếu đến các chính sách ưu đãi đầu tư (thuế,mặt bằng...). Do có sự khác nhau nên phương tiện để tiếp xúc thông tin của các nhà đầu tư cũng khác nhau. Vì vậy cần có các phương tiện truyền thông phù hợp.Các nhà đầu tư nước ngoài thường nắm bắt thông tin qua các hội nghị, các cuộc đối thoại của các đoàn ngoại giao...các nhà đầu tư trong nước thì thường tiếp xúc thông tin qua các phương tiện báo chí truyền hình và phương tiện thông tin công cộng : báo đầu tư, báo Bắc Giang, kênh VTV1, VTV3....Xác định đối tượng nhận tin là công việc cần phải được thực hiện trước tiên trong hoạt động truyền thông. + Đối với quảng cáo: Công chúng nhận tin là tất cả những ai đã, đang và sẽ có ý định đầu tư . Đây là công cụ rất khó chọn lọc được đối tượng nhận tin vì khi sử dụng công cụ này ta phải dùng đến các phương tiện thông tin đại chúng có độ phủ rộng như truyền hình, báo chí, tạp chí chuyên nghành, băng rôn.... Mặt khác quảng cáo chỉ cung cấp thông tin một chiều, ta không nhận được thông tin phản hồi trực tiếp từ các nhà đầu tư. Ví dụ như có sự sai lệch trong chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư chẳng hạn, khi mà các thông tin này không được phản hồi để có các phản ứng kịp thời thì dễ gây ra các hậu quả xấu. Có thể là niềm tin của các nhà đầu tư đối với tỉnh nhà giảm sút. Điều này tạo ra các ấn tượng xấu và họ truyền tin cho nhau để tạo ra các làn sóng phản đối, dẫn tới việc hàng loạt nhà đầu tư cùng rút lui. Chính vì vậy cần phải hết sức chú ý, coi trọng nội dung và thông điệp quảng cáo. + Đối với kích thích tiêu thụ và bán hàng trực tiếp. Trong nhóm công cụ này đối tượng nhận tin cần được xác định rộng hơn hơn. Đối với kích thích tiêu thụ( kích thích đầu tư ) ta không chỉ tập trung vào các trung gian mà còn phải kích thích trực tiếp vào các nhà đầu tư. Tức cần phải đa dạng hoá và cần phải áp dụng đồng thời cả hai chiến lược kéo và đẩy. +Đối với Marketing trực tiếp: Đối tượng nhận tin là những đối tượng có quyền lực, có phạm vi ảnh hưởng rộng.Việc xác định đúng đối tượng nhận tin giúp ta có được biện pháp tác động đúng, tạo hiệu quả cho hoạt động truyền thông cũng như hoạt động thu hút vốn đầu tư của sở. Tránh hiện tượng bỏ sót các nhà đầu tư có tiềm năng, tránh nhầm lẫn gây tốn kém chi phí.Marketing trực tiếp là hình thức tiếp cận trực tiếp với nhà đầu tư nên chi phí rất tốn kém và mất nhiều thời gian của cả hai bên và có thể có tác dụng ngược lại. Từ bước này người quản trị Marketing sẽ quyết định công cụ và phương tiện để thực hiện chương trình xúc tiến và khuyếch trương. b, Xác định phản ứng của đối tượng nhận tin. Xác định phản ứng đáp lại là điều cần thiết, không thể thiếu và đã có rất nhiều doanh nghiệp đã thực hiện và nhận được những kết quả rất tốt.Có như vậy ta mới có thể biết được là mình đã làm được gì và cần phải là những gì ở bước tiếp theo. Tuy nhiên hiện nay vấn đề này ở Sở vẫn chưa được quan tâm một cách thích đáng.Nhiều trường hợp khi mà biết sự việc rồi thí có thể quá chậm không thể sửa sai hay có các phản ứng phù hợp. Vì vậy để khắc phục những phản ứng bất lợi và khai thác được những phản ứng có lợi phục vụ cho quá trình thu hút vốn cần phải xác định được những phản ứng đáp lại của các nhà đầu tư. Từ những thông tin phản hồi đó ta đưa ra các biện pháp khắc phục, chỉnh sửa lại những thông tin dẫn tới những sự hiểu lầm.Ta khắc phục những yếu kém trong việc thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn chẳng hạn. Nắm bắt được những quan điểm, nhu cầu nguyện vọng của các nhà đầu tư để đáp ứng kịp thời tránh tình trạng các nhà đầu tư bỏ đi. Vì vậy khi sử dụng các công cụ và phương tiện thực hiện xúc tiến khuyếch trương ta nên sử dụng các phương tiện dễ nhận các thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư. Chúng ta có thể sử dụng một trong hai phương pháp sau để xác định các phản ứng của nhà đầu tư : + Phương pháp suy luận : Dựa vào kinh nghiệm và khả năng phán đoán của nhà quản trị để xác định phản ứng của các nhà đầu tư từ những ý kiến và thông tin phản hồi của họ.Điều này được dựa trên những kinh nghiệm thực tế mà nhà quản trị đã trải qua.Biện pháp này dễ mắc phải các lỗi chủ quan của nhà quản trị. + Dùng bảng câu hỏi để nghiên cứu hành vi : Ta có thể thiết kế bảng câu hỏi. Thông qua những câu hỏi được thiết lập một cách chi tiết chính xác xoay quanh vấn đề chính sách mà Sở đưa ra, các mong muốn của nhà đầu tư về môi trường như thế nào,họ nghĩ thế nào về các chính sách ưu đãi, các thủ tục hành chính cấp giấy phép đầu tư... giúp ta có thể điều tra và xác định phản ứng của các nhà đầu tư. Đây là phương pháp hiện nay được rất nhiều doanh nghiệp sử dụng và đã đem lại hiệu quả tốt. Việc xác định đúng phản ứng đáp lại nó cho phép Sở có chiều hướng tác động đúng vào các nhà đầu tư , góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông và tạo kết quả tốt. c, Thiết kế thông điệp. Hoạt động xúc tiến hỗn hợp cần phải có một thông điệp thống nhất về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức và kết cấu giữa các phương tiện được sử dụng.Các phương tiện sử dụng phải tuân theo chiến lược đồng nhất hóa thống nhất hóa ( CI ). Thông điệp phải nêu rõ được các chế độ ưu đãi, các cơ hội mà nhà đầu tư được hưởng, truyền tải được sự chân tình thiết tha mời gợi các nhà đầu tư, cho họ thấy được đay là một cơ hội đầu tư hấp dẫn mang lại nhiều lợi nhuận nếu bỏ qua thí rất khó có thể tìm lại được.thông điệp đó có thể là: "Đầu tư vào Bắc Giang là đầu tư cho tương lai, sự nghiệp kinh doanh của chính bạn". Một thông điệp truyền thông có hiệu quả phải truyền tải được các ý tưởng, tình cảm, sự thiện chí mờo gọi đầu tư. Thông điệp đó phải hết sức ngắn gọn, xúc tích dễ nhớ và dễ hiểu. Khi thiết kế thông điệp cho các công cụ ta cần chú ý một số các nội dung sau : + Nội dung thông điệp : Nội dung thông điệp phải ngắn gọn, xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ nghe và đặc biệt nhấn mạnh đến những lợi ích mà các nhà đầu tư được hưởng. Nội dung thông điệp phải bao hàm yếu tố lợi ích kinh tế, tính cộng đồng và xã hội. + Cấu trúc thông điệp : Người chịu trách nhiệm thiết kế thông cần phải sắp xếp các yếu tố ra sao để hợp logic, tăng sức hấp dẫn, dẫn dắt và làm chủ được tâm lý của các nhà đầu tư.Thông điệp đưa ra phải có tính hấp dẫn gây được sự tò mò để là cho những đối tượng có ý định đaauf tư phải muốn nghe và theo dõivà tìm hiểu chương trình xúc tiến hỗn hợp đó. + Hình thức thông điệp : Hình thức là cái bề ngoài của thông điệp. Dù là yếu tố phụ so với các yếu tố trên, nhưng nếu hình thức được thực hiện không tốt nó sẽ triệt tiêu sự lôi cuốn thị giác, thính giác và những ham muốn về tiếp xúc với thông điệp truyền thông. Đối tượng nhận tin thông qua hình thức thông điệp có thể đưa ra quyết định la có tìm hiểu tiếp các thông tin còn lại hay dừng lại không tiếp nhận thông tin nữa. Đó là một điều mà không bất kỳ người thực hiện chương trình nào mong muốn xảy ra. Vì vậy hình thức của thông điệp cần phải được thể hiện theo một cách nào đó để tạo được sự lôi cuốn, ấn tượng ngay ban đầu khi đối tượng nhìn thấy, nghe thấy và tiếp xúc với thông điệp. Tức phải có sự hài hoà giữa lời thoại và hình ảnh minh hoạ, biểu tượng logo và sự phối hợp sử dụng màu sắc. Chúng ta nên sử dụng các màu có tác dụng mạnh tới các cơ quan cảm giác :màu đỏ, vàng, ...Tuỳ vào từng phương tiện sẽ chọn trong việc truyền tải thông điệp khác nhau, trình bày hình thức cho phù hợp, tránh máy móc dập khuôn. Những vấn đề quan trọng như nội dung phải do bộ phận chuyên môn về Marketing trong công ty thiết kế nếu không có khả năng thì có thể thuê các hoạ sỹ để thu được chất lượng cao hơn. d, Lựa chọn công cụ thực hiện. Mỗi phương tiện dành cho hoạt động xúc tiến có ưu điểm và nhược điểm riêng. Vì vậy ta cần phải xem xét mình muốn làm gì và đạt được gì khi lựa chọn phương tiện thực hiện. Công cụ quảng cáo : Công cụ này mang tính đại chúng rất cao, sự lựa chọn khán giả thấp, nhưng có phạm vi hoạt động tương đối rộng, mức độ tác động sâu, cường độ tác động mạnh mẽ và tạo ra rào cản có hiệu quả. Hiện nay nó là phương tiện được nhiều doanh nghiệp sử dụng nhằm thông tin quảng bá thương hiệu sản phẩm và công ty mình. Đặc biệt là hình thức quảng cáo trên ti vi, sách báo, đài, tạp chí... Khi sử dụng phương tiện này để hạn chế tính đại chúng và nâng cao khả năng chọn lọc đối tượng tác động ta nên sử dụng các phương tiện như : Tạp chí chuyên nghành,báo nghành... Sử dụng phương tiện này cho phép tiết kiệm được rất nhiều chi phí và hiệu quả tương đối cao do chi phí của nó khá rẻ so với các công cụ khác. Do sự ồ ạt của quảng cáo hiện nay đã dẫn đến hiện tượng tràn ứ quảng cáo. Chính vì vậy yêu cầu đặt ra đối với Sở là phải xây dựng một chương trình quảng cáo khác biệt, tránh dập khuôn để tránh sự nhàm trán khi tiếp xúc với chương trình quảng cáo của công ty. Công cụ Marketing trực tiếp. Nhà đầu tư ngày càng có xu hướng bảo mật cao. Để tránh tiết lộ thông tin có nhân cho các nhà đầu tư, thì đây là hình thức khai thác thông tin tốt nhất. Tuy nhiên ngân sách dành cho hoạt động này cao. Nên Sở cần phải có sự phân bổ ngân sách hợp lý để đảm bảo cho cường độ tác động của công cụ này các nhà đầu tư được thường xuyên hơn và mang lại hiệu quả kinh doanh. Ta nên sử dụng phương tiện là thư trực tiếp, điện thoại trực tiếp để mà khai thác tìm hiểu nhưng nét cơ bản ban đầu của các nhà đầu tư. Bán hàng trực tiếp (trực tiếp tiếp xúc với nhà đầu tư). Bán hàng trực tiếp là công cụ phát huy tốt đem lại hiệu quả thu hút vốn cao. Cần củng cố và nâng cao kỹ năng bán hàng (tư vấn đầu tư dự án) cho các nhân viên của mình. Nếu thấy cần thiết phải mời các chuyên gia có kinh nghiệm hoặc giáo viên ở các trường đại học về đào tạo ngắn hạn để nâng cao khả năng bán hàng trực tiếp cho nhân viên của Sở. Công cụ quan hệ công chúng và tuyên truyền. Đây là công cụ mà Sở cần khai thác triệt để và sâu rộng trong quá trình truyền thông. Công cụ này góp phần rất lớn trong việc tạo ra bầu không khí và có tác dụng truyền bá thông tin,các đặc điểm và các ưu đãi đầu tư đối với các dự án rất tốt. Ngoài những thông tin thu thập được từ phương tiện truyền thông mà Sở sử dụng, các doanh nghiệp còn tham khảo thông tin từ nhiề nguồn thông tin khác như các chiónh sách phát triển chung của đất nước của địa bàn nơi thực hiện đầu tư... Do vậy quan hệ công chúng là chất xúc tác rất tốt để gia tăng các mối quan hệ truyền thông cũng như mở ra các quan hệ mới. Vừa qua Sở có tổ chức một số các hội nghị gặp gỡ các nhà đầu tư,tiến hành đối thoại và trao đổi,giới thiêu với họ các cơ hợi đầu tư cũng như các chính sách ưu đãi. Các cuộc họp này cần phải được tiến hành nhiều hơn và có hệ thống tổ chức chặt chẽ hơn. Trong hội nghị ta nên mời các quan chức trong tỉnh và các ban nghành liên quan tham gia gặp mặt với các nhà đầu tư. Nội dung cuộc gặp phải được soạn thảo trước. Hội nghị phải đề cập tới các chính sách ưu đãi mà nhà đầu tư được hưởng. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đại phương, chiến lược phát triển kinh tế,cơ sở hạ tầng trong giai đoạn tới. Vì điều mà các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại nhất là cơ sở hạ tầng còn,yếu kém. Qua các cuộc hội nghị ta có thể thu thập những ý kến đóng góp qúy báu của các nhà đàu tư. Ghi nhận và giải thích những vấn đề vướng mắc mà các nhà đầu tư gặp phải. Qua đó cũng làm cho nhà đầu tư vàchính quyền hiểu rõ nhau hơn và tìm được tiếng nói chung. Ngân sách cho hội thảo ta có thể kêu gọi các nhà đàu tư đã hoạt động trên địa bàn tỉnh vì đay cũng là một cơ hội để quảng bá sản phẩm hết sứ hữu hiệu nên việc tài trợ không là vấn đề khó khăn. Đây là công cụ có sự chọn lọc đối tượng nhận tin rất cao, thu thập thông tin phản hồi nhanh. Những phương tiện hữu hiệu cho công cụ này là hội thảo, tài trợ chương trình giải trí xã hội nào đó. Vì vậy Sở nên đầu tư cho việc tiến hành thực hiện công cụ này trong hoạt động xúc tiến hỗn hợp. e, Tổ chức thực hiện và hiệu chỉnh chương trình hoạt động xúc tiến hỗn hợp. + Quyết định phạm vi, tần suất và cường độ tác động. Mỗi phương tiện đều có phạm vi hoạt động riêng. Nó đặt ra vấn đề là nhà quản trị Marketing cần phải quyết định phạm vi muốn bao phủ để tiến tới lựa chọn phương tiện cho phù hợp tránh sự trùng lặp gây lãng phí về chi phí. Khi quyết định song vấn đề về phạm vi bao phủ của hoạt động xúc tiến. Người làm kế hoạch phải xác định được tần xuất thực hiện. Đây là vấn đề rất khó, nó phụ thuộc vào mục tiêu, chi phí và đặc điểm tâm lý của các nhà đầu tư tiềm năng. Việc xác định tần suất và cường độ tác động phải phù hợp với mục tiêu cần đạt tới. Nếu sử dụng tần suất và cường độ tác động cao chưa chắc đã đạt được mục tiêu mong muốn, trái lại còn gây phản ứng ngược và làm lãng phí chi phí. Quyết định này gắn liền với việc lựa chọn phương tiện thực hiện. Vì vậy đòi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận trước khi đưa ra quyết định. + Hiệu chỉnh chương trình hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Đây là công đoạn cuối cùng của một chương trình hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Một công việc vô cùng quan trọng, nó cho phép nhà quản trị đánh giá được hiệu quả thực tế để có những hiệu chỉnh cho giai đoạn sau. Vì vậy rất cần thiết phải tiến hành đánh gía và hiệu chỉnh, nội dung nào còn hạn chế hoặc lược bỏ những phần không quan trọng trong quá trình thực hiện để hoạt động truyền trông đạt hiệu quả mong muốn. Việc hiệu chỉnh cần phải tuần tự theo những bước nhất định sau: Bước 1 : Xác định nội dung cần điều chỉnh : ở bước này nhà quản trị Marketing cần phải xác định mình muốn hiệu chỉnh nội dung nào trong hệ thống xúc tiến hỗn hợp. Bước 2 : Đưa ra các tiêu chuẩn để điều chỉnh : Bước này cần phải đưa ra được các tiêu chuẩn để làm căn cứ hiệu chỉnh. Ta có thể căn cứ vào mục tiêu đã đề ra. Bước 3 : Đánh giá kết quả xem chương trình đã là được gì còn những giới hạn nào cần phải điều chỉnh. Bước 4 : So sánh kết quả đạt được với mục tiêu đề ra : Bước này để biết được mức độ đạt được của chương trình xúc tiến hỗn hợp Bước 5 : Xác định nguyên nhân làm ảnh hưởng tới kết quả và khó khăn hạn chế còn tồn tại : xác định sai đối tượng nhận tin, chọn sai phương tiện và công cụ truyền tải chẳng hạn. Bước 6 : Thực hiện hiệu chỉnh các nguyên nhân và các sai lầm mác phải một cách triệt để, hoàn thiện. Việc thực hiện hiệu chỉnh qua các bước trên sẽ góp phần quan trọng giúp đạt tới mục tiêu mà ta đề ra cho hoạt động xúc tiến hỗn hợp. 2. Quản lý quá trình thực hiện hoạt động xúc tiến hỗn hợp. a. Xây dựng ngân sách cho hoạt động của từng công cụ. Ngân sách cho từng công cụ được dựa trên tổng ngân sách dành cho hoạt động truyền thông. Nhà quản trị cần phải căn cứ vào tính chất, mức độ bức thiết của từng công cụ, trong từng giai đoạn mà có kế hoạch phân bổ ngân sách cho từng công cụ một cách hợp lý. Việc xác định ngân sách này cũng phải được xem xét những ngân sách đã phân bổ năm trước để làm nguồn tham khảo và những mục tiêu mà công ty cần đạt tới trong năm tới. b. Quản lý ngân sách hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Để tránh những chi phí lãng phí không cần thiết cả về tiền bạc và thời gian...cần phải có cách thức quản lý ngân sách một cách chặt chẽ và khoa học. Đây là giá quảng cáo trên phương tiện truyền hình ở một số kênh truyền hình phổ thông : Ví dụ quảng cáo với thời lượng 30 giây của VTV3 vào giờ cao điểm từ 19h45-21h là 36.000.000 đồng. Bên cạnh đó vẫn trên kênh VTV3 buổi từ thứ 2 đến thứ 6 từ 6h -8h chỉ có giá 5.000.000 đồng cho 30 giây quảng cáo. Nhưng vào thời điểm cao điểm như vậy trên đài truyền hình Hà Nội là 22.000.000 đồng cho 30 giây quảng cáo. Sở có thể tham khảo việc quản lý của mình theo một trong các cách thức sau: Quản lý ngân sách đã được phân bổ cho từng công cụ, từng phương tiện thực hiện và quản lý thật chặt chẽ các nguồn thu. Để thực hiện quản lý ngân sách tốt Sở cần phải theo dõi những biến động, diễn biến của thị trường, của đối thủ cạnh tranh hay chính là các chính sách ưu đãi đầu tư của các địa phương lân cận và những thay đổi thuộc yếu tố vĩ mô để có kế hoạch điều chỉnh ngân sách sao cho hợp lý. Việc quản lý ngân sách của từng công cụ có thể phân bổ cho các phương tiện hoạt dộng là công việc rất quan trọng nó đảm bảo thực hiện thành công hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Vì vậy có thể nói rằng công việc này giữ một vai trò quan trọng góp phần tạo nên sự thành công cuả một hệ thống xúc tiến hỗn hợp. Để việc quản lý ngân sách được tốt cần có biện pháp để đào tạo cán bộ quản lý có đủ năng lực làm công việc này. Mặt khác để tạo sự thuận tiện trong điều hành công việc và sự phối hợp của các phòng ban nên nối mạng các máy tính ở các phòng ban với nhau để tạo điều kiện thuận lợi trong liên hệ cũng như trong hệ thống quản lý. c. Quản lý cơ cấu các công cụ thực hiện. Cần phải có sự quản lý chặt chẽ cơ cấu của các công cụ xúc tiến hỗn hợp để kế hoạch xúc tiến hỗn hợp được thực hiện tốt và đạt kết quả như mong muốn. Thực chất quản lý cơ cấu các công cụ của hệ thống xúc tiến hỗn hợp cũng đồng nghĩa với việc quản lý ngân sách được phân bổ cho nó. Để cho công việc quản lý cơ cấu các công cụ xúc tiến hỗn hợp được triển khai tốt. Cần phải cử một người có năng lực và trình độ đứng ra chịu trách nhiệm quản lý vấn đề này. Người này phải có sự liên hệ chặt chẽ với bộ phận quản lý ngân sách. Bởi vì tất cả mọi cố gắng hay dự định đều là vô nghĩa khi không có tài chính để thực hiện. Việc thực hiện quản lý cơ cấu công cụ xúc tiến hỗn hợp không phải đơn thuần dựa vào kế hoạch mà còn phải tính toán đến sự tác động ở ngoài thị trường ảnh hưởng tới cơ cấu các công cụ thực hiện. Các ảnh hưởng đó có thể làm tăng hay giảm ngân sách phân bổ cho từng công cụ thực hiện và từ đó có thể dẫn đến cơ cấu cũng thay đổi. Nói tóm lại công tác quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động thu hút vốn đầu tư của Sở. Nó có ảnh hưởng mang tính quyết định không chỉ đến nhiệm vụ của hệ thống xúc tiến hỗn hợp mà còn ảnh hưởng cả đến kết quả hoạt động chung của Sở. Chính vì vậy việc quản lý phải hết sức linh hoạt, không nên cứng nhắc, máy móc và dập khuôn. Người làm công tác quản lý phải thường xuyên cập nhật thông tin để kịp thời thay đổi khi cần thiết. 3. Hoạt động thống nhất hoá ,đồng nhất hoá (Corporate-Identity viết tắt là CI) Để nâng cao hiệu quả cho quá trình truyền thông thì nội dung của thông điệp là không thể thiếu và nội dung của thông điệp có ý nghĩa to lớn trong việc tiếp nhận thông tin. Do vậy cần đưa ra hoạt động này nhằm mục đích hỗ trợ thêm cho quá trình hoàn thiện chính sách xúc tiến của Sở. Việc đưa ra chiến lược này là phù hợp với tình hình kinh tế và nhận thức của giới kinh doanh về thương hiệu, nhãn hiệu. Các doanh nghiệp có thể thấy được sự chuyên nghiệp và có thể gửi niềm tin. Vấn đề về thương hiệu được các doanh nghiệp quan tâm trong cuối những năm 90 của thế kỷ 20. Những bài học về thương hiệu của Vinataba, Trung Nguyên và gần đây nhất là cá basa đã buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn nữa. Chiến lược CI là một chiến lược mới chưa được áp dụng nhiều ở Việt Nam nhưng trên thế giới đã được áp dụng từ rất lâu và rất nhiều công ty đã thành công, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia. CI có vai trò rất lớn trong truyền thông, vì vậy nếu muốn hoàn thiện chính sách xúc tiến hỗn hợp không thể bỏ qua chiến lược này. Chiến lược CI là một chiến lược góp phần nâng cao hiệu quả quá trình truyền thông Hạt nhân của CI là logo do vậy khi sử dụng các công cụ cũng như các phương tiện truyền tải phải có sự thóng nhất không được phép sai lệch, hay sử dụng nhiều logo trên nhiêu phương tiện công cụ là khác nhau. iii.các giải pháp hỗ trợ việc sử dụng các công cụ xúc tiến, khuyếch trương nhằm thu hút vốn đầu tư hiệu quả. 1. Cơ chế quản lý của tỉnh và nhà nước. Để thu hút vốn đầu tư và đẩy nhanh, mạnh phát triển kinh tế -xã hội được nhà nước và UBND Tỉnh Bắc Giang tiến hành rất khẩn trương. Qua các kỳ Đại Hội Quốc Hội không ngừng soạn thảo các luật đầu tư mới. Luật đầu tư mới này cho phép các nhà đầu tư tiến hành một cách nhanh chóng các thủ tục hành chính đầu tư. Cơ chế "một cửa" được áp dụng và đem lại kết quả khả quan.Bên cạnh đó UBND Tỉnh Bắc Giang cũng đưa ra quyết định 34, 52 để thu hút đầu tư. Càng ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam với những cam kết tài trợ hậu hĩnh. Cùng với việc thay đổi cơ chế và chính sách thì công tác nâng cấp và đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chú trọng.Đất nước ta ngày càng thay da đổi thịt với con đường huyết mạnh nối liền Bắc - Nam, đường quốc lộ mới nối liền Hà Nội - Lạng Sơn chạy qua các khgu công nghiệp Đình Trám, Song Khê -Nội Hoàng, Đồng Vàng, Quang Châu... đã ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết định đầu tư vào Bắc Giang. Phát huy lợi thế hành lang quốc lộ 1A mới. Tập trung xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng các khu, cụm công nghiệp. Làm tốt công tác giả phóng mặ bằng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Song Khê - Nội Hoàng tạo điều kiện cho các dự án đã đầu tư sớm triển khai hoặc đã xây dựng sớm đi vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời Tỉnh cũng khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư. Tiếp tục bổ xung, hoàn chỉnh các cơ chế chính sách của địa phương, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, hấp dẫn hơn. Tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trong cơ quan nhà nước để sửa đổi, bãi bỏ những thủ tục, quy định không cần thiết gây khó khăn, lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp. Nhằm tăng cường thu hút vận động các dự án công nghiệp quy mô lớn ở trong và ngoài nước đầu tư vào địa bàn. Cũng như giúp các dự án đang trong quá trình thực hiện đầu tư, đây nhanh tiến độ xây dựng sớm đi vào sản xuất, góp phần tăng sản lượng công nghiệp trên địa bàn. 2.Cơ sở hạ tầng. Việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh,nhằm tiếp tục thu hút đầu tư dặt ra cho các cấp ủy Đảng, chính quyền Bắc Giang cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền là chuyển biến nhận thức trong cán bộ nhân dân về phát triển công nghiệp, dịch vụ: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; quá trình công nghiệp gắn với đô thị hóa. Đặc biệt cần làm thay đổi nhận thức trong một bộ phận cấn bộ nhân dân về vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; để cùng cha xẻ, giúp đỡ doanh nghiệp trong tiến hành các thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng. Tránh tình trạng vì lợi ích cục bộ của địa phương,gia đình mà gây o ép cho các doanh nghiệp. Nhất là trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng. Các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn cần tiếp tục cải cách hành chính theo cơ chế "một cửa". Thực hiện rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục tiếp nhận đầu tư đối với các dự án mới,giảm bớt các bước trung gian. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu. Nâng cao năng lực trình độ, thái độ phục vụ của cán bộ công chức, từng bước là cho việc vận hành bộ máy hành chính nhà nước thông thoáng hơn, khẩn trương hơn để đảm bảo sự thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Tỉnh sẽ triển khai đồng bộ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay từ khi doanh nghiệp hoàn thiện thủ tục thuê đất. Cần rà soát và sớm ban hành một số quy định của tỉnh, phù hợp với Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp ban hành. Như quy định về suất đầu tư trên 1 ha đất gắn với thời hạn cho thuê đất ; quy định vị trí đất sinh lời để tham gia đấu giá. Cuối cùng là các nghành chức năng cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo nghề bao gồm cả dài han, trung hạn và ngắn hạn để giải quyết việc làm cho nông dân. Thực hiện ưu tiên con em nông dân có đất bị thu hồi, trên cơ sở thống kê nhu cầu đào tạo của người học và nhu cầu tuyển lao động của các chủ doanh nghiệp trong , khu cụm công nghiệp. Có như vậy mới đảm bảo được cuộc sống lâu bền cho nhân dân có đất bị thu hồi,giúp họ yên tâm, phấn khởi làm ăn. Và đó cũng là việc làm thiết thực để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Bắc Giang, góp phần đẩy nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư vào Tỉnh 3. Nguồn Nhân lực. Để nâng cao chuên môn và nghiệp vụ của cán bộ và công nhân viên Sở có các chương trình hỗ trợ đào tạo, đưa cán bộ đi học nâng cao.Tổ chức các lớp học tiếng anh miễn phí,các cuộc họp trao đổi về chuyên môn cần phải được tổ chức thường xuyên hơn. Ngoài ra cũng cần quan tâm tới chất lượng lao động của xã hội. Nằm trong tổng thể của đất nước, Bắc Giang có một nguồn nhân lực rồi rào. Trình độ học vấn của người dân ngày càng cao, do họ đã có ý thức được tầm quan trọng của nó. Chỉ có học mới giúp họ có cuộc sống tốt đẹp hơn, ổn định hơn. Đồng thời việc này cũng cung cấp cho xã hội nguồn lao động có chất lượng cao hợn. Có rất nhiều các trường học cơ sở đào tạo nghề được ra đời : trường đại học sư phạm Bắc Giang, trường cao Đẳng công nghiệp Bắc Giang...Tỷ lệ nghành nghề dịch vụ ngày càng tăng kéo theo đó là là tỷ lệ dân số hoạt động trong nông nghiệp giảm nhanh. Đây là tín hiệu đáng mừng, nó chứng tỏ một nền kinh tế công nghiệp đang hình thành. Việc đào tạo nghề cho con em các hộ gia đình có diện tích đất nằm trong phạm vi giải phóng mặt bằng cũng được chú trọng. Họ được cử đi học nghề với sự hỗ trợ kinh phí hoặc đào tạo dạy nghề để vào ngay các khu công nghiệp làm việc. Điều này đã làm cho công tác giải phóng mặt bằng diễn ra thuận lợi hơn. Người dân không phải lo công ăn việc là khi không có ruộng có đất. Đồng thời có các biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề lao động cho các khu, cụm công nghiệpvừa đáp ứng nhu cầu kinh doanh vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người lao động theo phương trâm giúp người lao động tìm đến các doanh nghiệp cần lao động. kết luận Chiến lược xúc tiến hỗn hợp hỗn hợp rất quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chiến lược marketing nào. Nó giúp cho hoạt động Marketing hoàn thiện, có hệ thống và hiệu quả. Giúp cho việc thu hút vốn đầu tư hiệu quả hơn vì ta có nhiều cơ hội chọn lựa các nhà đầu tư hơn. Nhờ có hoạt động này mà các nhà đầu tư có được thông tin chi tiết chính xác và đầy đủ về các chính sách đầu tư cung như các cơ hội đầu tư. Thúc đẩy mạnh tiến trình hoàn thiện các dự án xây dựng các khu công nghiệp do nhà nước đề ra. Có như vậy mới có thể nhanh chóng đưa trình độ khoa học kỹ thuật, nền công nghiệp cũng như kinh tế của Bắc Giang phát triển một cách nhanh chóng, bỏ qua được các bước phát triển trung gian rút ngắn được thời gian đầu tư và thu hồi vốn nhanh. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S Nguyễn Thanh Thủy đã giúp đỡ tận tình em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề. Tài liệu tham khảo 1. Marketing cơ bản - GS. TS Trần Minh Đạo. NXB Giáo dục năm 2002. 2. Quản trị marketing - PHILIP KOTLER. NXB Thống kê năm 2003. 4. Quản trị bán hàng 5. Marketing quốc tế 6. Marketing trong quản trị kinh doanh. Trương Đình Chiến - Tăng Văn Bền 7.Luận văn của K41, K42 và K43. 8. Tìm hiểu trên Internet vn express, tiếng Việt, trang website của UBND tỉnh Bắc Giang… mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0147.doc
Tài liệu liên quan