Bàng quang trực vị (thay thế nối với niệu đạo): Kết quả trên những trường hợp theo dõi trên 3 năm tại bệnh viện bình dân

KẾT LUẬN Bàng quang thay thế nối với niệu đạo (bàng quang trực vị) là một lựa chọn tốt và cần thiết cho những bệnh nhân khi phải cắt bỏ bàng quang. Phương pháp này giúp cho bệnh nhân có thể đi tiểu một cách tự nhiên, tránh mặc cảm tật nguyền và hội nhập đời sống xã hội sau mổ. Tuy là một phẫu thuật khá lớn nhưng tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được. Bàng quang tân tạo có những kết quả khá tốt từ tháng thứ 6 sau mổ. Để bàng quang có thể ổn định lâu dài theo thời gian, phải giữ thể tích nước tiểu tồn lưu ở mức thấp nhất. Tuy vậy, bàng quang trực vị chỉ có thể thay thế tốt bàng quang thiên nhiên về mặt chức năng chứa đựng. Về mặt chức năng tống xuất, bệnh nhân cần phải tập để vận động tốt cơ bụng nhằm hỗ trợ động tác đi tiểu. Bệnh nhân cũng cần phải được giải thích sự cần thiết theo dõi và phát hiện thể tích tồn lưu lớn, đồng thời khuyến cáo trước phương pháp tự thông cách quãng có thể được áp dụng để tránh hiện tượng dãn nở quá mức của bàng quang tân tạo.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàng quang trực vị (thay thế nối với niệu đạo): Kết quả trên những trường hợp theo dõi trên 3 năm tại bệnh viện bình dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 1 BÀNG QUANG TRỰC VỊ (THAY THẾ NỐI VỚI NIỆU ĐẠO): KẾT QUẢ TRÊN NHỮNG TRƯỜNG HỢP THEO DÕI TRÊN 3 NĂM TẠI BV BÌNH DÂN Đào Quang Oánh* và CS TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bàng quang trực vị cần được theo dõi trong thời gian dài hơn những kết quả đã được báo cáo trước đây Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của bàng quang tân tạo trong thời gian tối thiểu trên 3 năm sau mổ trên 2 mặt: chức năng và chất lượng sống Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Những trường hợp bàng quang trực vị bằng hồi tràng có thời gian theo dõi tối thiểu là trên 3 năm và làm đủ các xét nghiệm cần thiết theo tiêu chuẩn đặt ra Kết quả: 84 bệnh nhân. Tỷ lệ tốt cao nhất ở tháng thứ 6 hậu phẫu. Sau đó vì vấn đề tồn lưu nước tiểu nên có giảm đi chút ít trong thời gian sau. Kết luận: Bàng quang trực vị là một lựa chọn tốt giúp bệnh nhân có thể đi tiểu một cách tự nhiên sau mổ. Tuy nhiên cần theo dõi để phát hiện và khắc phục tình trạng thể tích nước tiểu tồn lưu lớn. ABSTRACT ORTHOTOPIC BLADDER RECONSTRUCTION: RESULTS OF MORE THAN 3 YEARS OF FOLLOW- UP Dao Quang Oanh, et. al. * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 244 – 250 Purpose: Evaluation of long term of orthotopic bladder reconstruction after radical cystectomy, at least 3 years of follow-up, in 2 points: function of the neobladder and quality of life of the patient Material – method: all cases that satisfy the criteria of follow up: more than 3 years of survey, performing all requiring tests, full cooperation to reply the questions about quality of life Results: 84 cases. Best ratio occurs at 6 th month of post operation. Aftermath, because of the post voiding volume so the outcome lightly diminishes Conclusion: orthotopic bladder substitution is the option that gives the postoperative patient a normal voiding situation. Nevertheless, long- term follow -up is needed to unveil and manage the large volume of post-voiding ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật tạo hình thay thế bàng quang bằng ruột hiện nay đã được thực hiện thường xuyên tại BV Bình Dân. Một số kết quả, trên những đoạn ruột khác nhau và bằng những kỹ thuật khác nhau, đã đuợc tập hợp và báo cáo trước đây(3,4). Tuy vậy, đa số những báo cáo này chỉ dựa trên những số liệu thu thập trong khoảng thời gian 6 tháng đến 1 năm sau mổ. Bàng quang thay thế gồm 2 nhóm: Bàng quang trực vị: bàng quang thay thế nối với niệu đạo, giúp bệnh nhân có thể đi tiểu một cách “tự nhiên” sau mổ. Bàng quang chuyển lưu ra da: có một van chuyển lưu có kiểm soát ngoài da. Bệnh nhân không phải đeo ống, mang bọc, nhưng được hướng dẫn phương pháp tự thông cách quãng nhiều lần trong ngày. * Khoa niệu B - Bệnh viện Bình Dân Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 2 Bàng quang thay thế là một cơ quan mới, do đó cần có thời gian để thích ứng với nhiệm vụ mới. Người bệnh cũng cần có thời gian để làm quen, nhận biết và điều khiển cơ quan mới. Kinh nghiệm trong hơn 10 năm cho chúng tôi nhận xét: sự thành công của phẫu thuật phụ thuộc rất nhiều vào việc theo dõi định kỳ sau mổ. Bàng quang thay thế cần ít nhất 6 tháng để ổn định. Có nhiều thay đổi trong 6 tháng đầu sau mổ, và vẫn còn tiếp tục trong thời gian sau với tốc độ chậm hơn. Do đó thời gian theo dõi vài năm là rất cần thiết để đánh giá lại bàng quang tân tạo. Để theo dõi những thay đổi trên bàng quang tân tạo và phát hiện sớm các biến chứng nếu có, chúng tôi có áp dụng lịch tái khám định kỳ cho tất cả bệnh nhân sau mổ. Thực tế cho thấy những bệnh nhân nào giữ mối liên hệ chặt chẽ với BS phẫu thuật thường có được kết quả khả quan hơn. MỤC TIÊU Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật và tính bền vững theo thời gian: những thay đổi quan trọng cần chú ý và cách điều chỉnh, khắc phục. Sự đánh giá thực hiện trên 2 mặt chính: -Khả năng bàng quang tân tạo có thể đảm nhiệm một phần chức năng của bàng quang bình thường về mặt thể tích chứa đựng, kiểm soát chủ động, bảo vệ đường niệu trên -Đem lại cho bệnh nhân một cuộc sống có chất lượng tốt hơn, nhất là khi so sánh với các phương pháp chuyển lưu không kiểm soát như đem 2 niệu quản ra da. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Những trường hợp bàng quang trực vị bằng hồi tràng do chính tác giả thực hiện. Thời gian theo dõi tối thiểu là trên 3 năm, chấp nhận làm đủ các xét nghiệm cần thiết khi yêu cầu, hợp tác và trả lời rõ ràng những câu hỏi liên quan đến chất lượng sống sau mổ. Các xét nghiệm thực hiện Ngoài các xét nghiệm thường quy, các xét nghiệm sau đây được làm trước mổ, sau mổ và được lập lại nhiều lần trong các kỳ tái khám: -Xét nghiệm sinh hóa chức năng thận, nước và điện giải -Niệu ký nội tĩnh mạch (UIV) và âm vang ký (siêu âm) để biết hình ảnh thận, bàng quang và bàng quang tân tạo -Soi bàng quang để xác định tình trạng niệu đạo, cổ bàng quang và bàng quang -Xạ ký (X Quang) bàng quang tân tạo bằng thuốc cản quang để đánh giá hình dạng bàng quang, thể tích nước tiểu tồn lưu, tìm hiện tượng ngược dòng lên niệu quản -Áp lực đồ bàng quang đánh giá chức năng của bàng quang tân tạo dựa trên: thể tích, áp lực, độ mạnh của vòi nước tiểu, thể tích tồn lưu... Đặc biệt sau mổ khảo sát kỹ Chú ý đến chỗ cắm 2 niệu quản, chỗ nối bàng quang tân tạo vào niệu đạo, những đặc điểm của bàng quang mới như: dung tích, sức co bóp, chức năng đi tiểu, tình trạng nước tiểu tồn lưu Theo dõi sự thay đổi của bàng quang mới theo thời gian: bàng quang tân tạo có to dần ra không? hiện tượng nước tiểu tồn lưu diễn tiến thế nào? ảnh hưởng lâu dài đến thận? Riêng về áp lực đồ bàng quang, nhận xét thêm về Áp lực bàng quang tối đa: cần phân biệt áp lực của tự thân bàng quang tân tạo tương ứng với dung tích tối đa và không rặn tiểu, và áp lực lúc rặn tiểu chủ động (có thêm áp lực của cơ hoành và các cơ thành bụng). Quan sát và đánh giá dòng tiểu. Đo thể tích nước tiểu tồn lưu. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 3 Tiêu chuẩn đánh giá Chức năng bàng quang Bàng quang có 2 chức năng: chứa đựng và tống xuất nước tiểu. Đây là chức năng chính của bàng quang, có thể đánh giá qua phép đo áp lực đồ bàng quang và qua quan sát vòi nước tiểu khi bệnh nhân đi tiểu: độ mạnh của vòi nước tiểu, đi tiểu làm một đợt hay nhiều đợt trong một lần đi tiểu và có phải rặn nhiều không? Chức năng chứa đựng của bàng quang dựa trên dung tích tối đa và thời gian giữa 2 lần đi tiểu. Khả năng kiểm soát nước tiểu dựa vào dấu hiệu són tiểu: thời điểm (ngày, đêm) và số lần trong ngày. Đây là yếu tố mang tính chất xã hội và có giá trị quan trọng đối với bệnh nhân. Thể tích tồn lưu Tiêu chuẩn đánh giá Tốt Trung bình Xấu 1/ Dung tích > 300 ml 150-300 ml <150 ml 2/ Thời gian giữa 2 lần đi tiểu > 2giờ 1-2 giờ < 1 giờ 3/ Thể tích tồn lưu 100 ml 4/ Vòi nước tiểu >20 ml/giây 5-20 ml/giây < 5ml/giây 5/ Khả năng kiểm soát hoàn toàn ban ngày, thỉnh thoảng không được ban đêm ban ngày có lúc không được, ban đêm không được không được cả ngày lẫn đêm Chức năng bảo vệ đường niệu trên Thận là một trong những cơ quan sinh tồn của cơ thể. Bảo vệ thận cũng là một mục đích quan trọng giúp cải thiện dự hậu cho người bệnh. Sự đánh giá dựa vào: -Các kết quả xét nghiệm sinh hoá -Hình ảnh của 2 thận và niệu quản qua UIV và qua siêu âm. -Có hiện tượng ngược dòng lên niệu quản không? -So sánh với tình trạng của thận-niệu quản trước mổ: vì có một số đơn vị thận-niệu quản đã có dãn nở trước. Tốt: nếu giảm độ chướng nước; trung bình: nếu giữ nguyên độ chướng nước; xấu: nếu chướng nước thêm. Tiêu chuẩn tốt trung bình Xấu 1/ UIV bài tiết tốt bài tiết tốt bài tiết kém 2/ Ngược dòng không có chỉ có với thể tích lớn và áp lực cao thường xuyên 3/ Siêu âm không chướng nước hoặc có cải thiện độ chướng nước chướng nước nhẹ, độ I hoặc độ chướng nước ổn định, không tăng chướng nước độ II, III hoặc tăng thêm Sự hài lòng của bệnh nhân Tiêu chuẩn này mang tính chủ quan, khác 2 tiêu chuẩn trên có tính khách quan hơn. Bệnh nhân được hỏi 2 câu: Câu 1: ông có hài lòng với kết quả phẫu thuật không? chọn một trong 4 câu trả lời: hài lòng, tạm được, không hài lòng, rất buồn. Câu 2: so sánh với lúc bình thường, khi còn trẻ và chưa bị bệnh, ông đánh giá sự đi tiểu bây giờ được bao nhiêu phần trăm? Tiêu chuẩn tốt trung bình xấu Câu 1 hài lòng tạm được không hài lòng rất buồn Câu 2 80% trở lên 50 - 80% dưới 50% KẾT QUẢ Có 84 bệnh nhân, tất cả là phái nam Trường hợp đầu tiên thực hiện tháng 3/1993 Trường hợp cuối thực hiện tháng 11/2004 1 bệnh nhân tử vong 83 trường hợp được theo dõi tối thiểu 3 năm và ghi nhận Tuổi trung bình = 57,43 ± 12,98 tuổi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 4 Thời gian mổ trung bình = 5g 52 phút ± 34 phút Biểu đồ phân phối theo tuổi Biểu đồ phân phối theo thời gian mổ Tai biến – biến chứng Tử vong 1 trường hợp vì viêm phúc mạc hậu phẫu vì dò ruột. Bệnh nhân được mổ lại 2 lần, lần sau cắt bỏ bàng quang tân tạo và đem 2 niệu quản ra da nhưng không phục hồi được sau mổ. Tai biến trong lúc mổ 1 trường hợp rách trực tràng trong thì cắt bỏ bàng quang. Trường hợp này được xử trí bằng mở đại tràng sigma ra da. Ống tiêu hóa được khâu phục hồi lại 3 tháng sau, khi bàng quang tân tạo đã tương đối ổn định. Biến chứng phải mổ lại 3 trường hợp (3/84 = 3,57%). Một bệnh nhân do penrose dẫn lưu khoang chậu trái sau phúc mạc hoạt động không tốt, gây tụ dịch. Bệnh nhân sốt, đau, có phản ứng phúc mạc và được mổ lại thám sát vào ngày hậu phẫu 9. Khoang sau phúc mạc trái được rửa sạch bằng bétadine pha loãng và dẫn lưu bằng 2 penrose lớn đặt qua 1 đường rạch bên thành bụng. Sau đó diễn tiến ổn định, các thông được rút dần nhưng bệnh nhân bị biến chứng hẹp niệu đạo do đặt thông kéo dài. Bệnh nhân này có thời gian nằm viện lâu nhất (36 ngày). Hai bệnh nhân còn lại sau khi cắt chỉ ngoài da thì thành bụng bị hở, phải khâu lại. Biến chứng gần Liệt ruột kéo dài 10 trường hợp (11,9%) phải đặt thông mũi- dạ dày quá 5 ngày. Xuất huyết tiêu hoá 1 trường hợp xuất huyết do loét dạ dày đã được xử trí bằng nội soi chích thuốc cầm máu. Dò dỉ nước tiểu 5 trường hợp (5,95%) dò dỉ nước tiểu qua dẫn lưu kéo dài, trên 10 ngày mới rút được hết các dẫn lưu 2 bên hố chậu. 1 trường hợp dò dỉ trên mu tại vị trí đặt thông bàng quang cũ, mặc dù đi tiểu khá tốt. Bệnh nhân này được hướng dẫn tự đặt thông niệu đạo để lấy hết nước tiểu tồn lưu sau mỗi lần đi tiểu. Khoảng 1 tháng sau, khi bệnh nhân tái khám thì nơi dò dỉ đã lành hẳn. Biến chứng xa 1 trường hợp (1/84 = 1,19%) tiểu không kiểm soát ngày và đêm, trên cơ địa đái tháo đường. Những cố gắng điều trị nội khoa không hiệu quả, sau cùng phải chuyển qua tạo hình van chuyển lưu ra da. 3 trường hợp (3/84 = 3,57%) hẹp niệu đạo trước do đặt thông. Một bệnh nhân được xử trí bằng nong niệu đạo định kỳ, hai bệnh nhân còn lại được xẻ rộng niệu đạo qua nội soi. Sau 4-6 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 5 tháng, cả 3 bệnh nhân đi tiểu khá dễ và vòi nước tiểu chấp nhận được 9 trường hợp (10,71%) hẹp cổ bàng quang tân tạo (chỗ nối bàng quang vào niệu đạo) được cắt rộng chỗ hẹp qua nội soi 2-3 tháng sau. Đánh giá hiệu quả theo thời gian Chức năng bàng quang 3 tháng số bệnh nhân (%) 6 tháng số bệnh nhân (%) Trên 6 tháng số bệnh nhân (%) tốt 48 (57,83) 71 (85,54) 68 (81,93) Trung bình 33 (39,76) 11 (13,25) 14 (16,87) xấu 2 (2,41) 1 (1,20) 1 (1,20) Tiêu chuẩn để đánh giá là 5 yếu tố: dung tích, thời gian giữa 2 lần đi tiểu, thể tích tồn lưu, vòi nước tiểu, khả năng kiểm soát. Có sự cải thiện rõ theo thời gian. Tỷ lệ quanh 6 tháng là khả quan nhất, tỷ lệ tốt là 85,54%. Sau 6 tháng, bàng quang tân tạo có khuynh hướng dãn rộng và thể tích tồn lưu có khuynh hướng tăng lên, ảnh hưởng đến tiêu chí đánh giá. Tỷ lệ tốt giảm còn 81,93%. Chỉ có 1 trường hợp (1,20%) được đánh giá là xấu: tiểu không kiểm soát cả ngày lẫn đêm trên bệnh nhân đái tháo đường. Chức năng bảo vệ đường niệu trên 83 bệnh nhân = 166 đơn vị thận – niệu quản 3 tháng: số đvị thận- nquản (%) 6 tháng: số đvị thận- nquản (%) Trên 6 tháng: số đvị thận- nquản(%) tốt 65 (39,16) 117 (70,48) 133 (80,12) trung bình 91 (54,82) 41 (24,69) 25 (15,06) xấu 10 (6,02) 8 (4,82) 8 (4,82) Có sự cải thiện dần theo thời gian, số trường hợp được đánh giá là trung bình (3 tháng sau mổ) thay đổi về hướng tốt (6 tháng và trên 6 tháng sau mổ). Nguyên nhân có thể là do sự thay đổi của bàng quang tân tạo, bớt những cơn co thắt và áp lực thấp hơn trong kỳ chứa đựng, nhờ vậy ít ảnh hưởng trên khúc nối niệu quản - bàng quang. Sau hơn nửa năm, tỷ lệ tốt (thận bài tiết tốt, không ứ nước hoặc có cải thiện độ ứ nước, niệu quản mềm mại) là 80,12% và trung bình (thận bài tiết tốt, còn ứ nước nhẹ, niệu quản còn dãn nở) là 15,06%. Tỷ lệ này thường ổn định từ sau 6 tháng, nếu tồn lưu nước tiểu ít và bàng quang không dãn lớn. Sự hài lòng của bệnh nhân Với câu hỏi 1: sự hài lòng của bệnh nhân sau mổ 1 - 3 tháng: số bệnh nhân (%) 3 - 6 tháng: số bệnh nhân (%) 6 tháng- 1năm: số bệnh nhân (%) 1-3 năm: số bệnh nhân (%) tốt 57 (68,67) 61 (73,49) 77 (92,77) 72 (86,75) trung bình 19 (22,89) 17 (20,48) 3 (3,61) 10 (12,05) xấu 7 (8,43) 5 (6,02) 3 (3,61) 1 (1,20) Với câu hỏi 2: so sánh động tác đi tiểu trước và sau mổ 1 - 3 tháng: số bệnh nhân (%) 3 - 6 tháng: số bệnh nhân (%) 6 tháng- 1năm: số bệnh nhân (%) 1-3 năm: số bệnh nhân (%) tốt 47 (56,63) 60 (72,29) 68 (81,93) 59 (71,08) trung bình 26 (31,33) 15 (18,07) 12 (14,46) 21 (25,30) xấu 10 (12,05) 8 (9,61) 3 (3,61) 3 (3,61) Bệnh nhân tự đánh giá kết quả đạt được sau mổ. Theo thời gian tỷ lệ bệnh nhân hài lòng với cuộc mổ tăng lên, từ khoảng 50% khi mới rút thông, tăng dần đến trên 60% lúc 3 tháng sau mổ. Tỷ lệ lên cao nhất trong thời gian 6 tháng – 1 năm sau mổ, với khoảng 90% hài lòng sau đó hạ xuống chút ít vì có một số bệnh nhân phải tự thông kết hợp với những lúc đi tiểu qua niệu đạo (để tránh hiện tượng dãn nở của bàng quang). BÀN LUẬN Có sự thay đổi rõ của bàng quang tân tạo theo thời gian Ở giai đoạn sớm ngay sau rút thông, bàng quang tân tạo bị kích thích bởi rất nhiều yếu tố: quá trình viêm hậu phẫu, sự cọ sát của ống thông, nhiễm trùng niệu ngược dòng, sự ứ đọng nhiều dịch ruột dẫn đến sự gia tăng co bóp của thành bàng quang... Kết quả là dung tích còn nhỏ và áp lực còn cao. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 6 3 tháng sau dung tích bàng quang tân tạo tăng và áp lực giảm dần. Sau 6 tháng, thể tích bàng quang tân tạo ổn định dần, thay đổi chậm lại. Khuynh hướng chung là những cơn co bóp tự phát giảm dần. Phần lớn các trường hợp đạt được kết quả tốt về khả năng chứa đựng và tống xuất nước tiểu. Trên 1 năm trở đi, đa số là ổn định, ít thay đổi. Vấn đề quan trọng nhất là cần theo dõi lượng nước tiểu tồn lưu, vì đây là nguyên nhân cơ bản sẽ gây dãn nở dần bàng quang. Tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được Nếu so sánh với một số tác giả như Melchior(5), Wenderoth(9), Stein(7), Studer(8), Skinner(6) là những tác giả cũng sử dụng hồi tràng để tạo hình thay thế bàng quang thì chúng tôi có tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được. Những công bố của các tác giả trên cho thấy tỷ lệ tử vong là 1 – 1,6%, tỷ lệ biến chứng sớm là 7,5 – 42%, tỷ lệ biến chứng muộn là 2,4 – 17,2%. Thể tích tồn lưu nước tiểu cần được đánh giá và theo dõi kỹ Hầu hết các kết quả đều cho thấy có sự dãn nở dần dần của bàng quang tân tạo. Sự dãn nở này được giải thích bằng định luật Laplace mà trong giai đoạn đầu được xem như là một đáp ứng tốt (vì làm tăng thể tích, giảm áp suất nhờ đó sẽ tăng tỷ lệ kiểm soát nước tiểu, tránh tiểu són) và thường sẽ ổn định sau nửa năm trở đi. Tuy vậy vẫn có những báo cáo về nhiều bàng quang thể tích rất lớn. Điều này đã được giải thích do một lượng thể tích tồn lưu nước tiểu tăng dần rồi trở nên quá lớn. Nếu thể tích tồn lưu ổn định từ 50 ml trở xuống thì bàng quang tân tạo ổn định rất lâu. Nếu thể tích tồn lưu trên 100 ml thì phải tìm ra nguyên nhân để phòng tránh. Các nguyên nhân có thể là: (1) thoát vị thành bụng sau cuộc đại phẫu (vì tuổi cao, thể trạng kém, suy dinh dưỡng...) đưa đến sức rặn kém. (2) hiện tượng ngược dòng nhiều lên niệu quản. (3) hẹp chỗ nối niệu đạo vào bàng quang. Hẹp chỗ nối niệu đạo vào bàng quang tân tạo là nguyên nhân thường gặp nhất. Chúng tôi gặp biến chứng này với tỷ lệ 10,71% (9TH). Cách giải quyết cũng khá đơn giản, có thể dễ dàng xẻ rộng chỗ hẹp qua nội soi. Chú ý vị trí xẻ là ở nửa trên của vòng tròn nhìn qua thị kính: 12 giờ nếu chỉ cần xẻ tại một vị trí, hoặc 10 giờ và 2 giờ nếu cần xẻ tại hai vị trí. Không nên xẻ quá rộng ngay ở thì đầu để tránh hiện tượng tiểu són. Nếu cần thiết sẽ xẻ thêm lần nữa, qua việc theo dõi mức độ cải thiện của động tác đi tiểu và thay đổi thể tích nước tiểu tồn lưu. Dù có tìm và giải quyết những nguyên nhân gây tiểu khó, có thể vẫn còn một số ít bệnh nhân chưa tự tiểu được ngay, kể cả sự hỗ trợ bằng áp dụng thủ thuật Vasalva. Vì vậy tất cả phải được báo trước về khả năng tự thông tiểu khi cần thiết. Nguyên tắc “tự thông tiểu sạch và cách quãng” phải được giải thích và hướng dẫn cho mọi bệnh nhân tạo hình bàng quang bằng ruột, mở rộng lẫn thay thế. Thực tế cho thấy, đối với bàng quang trực vị, “tự thông tiểu sạch và cách quãng” là phương pháp tốt để giải quyết vấn đề tồn lưu nước tiểu. Cần theo dõi thường xuyên thể tích nước tiểu tồn lưu. Có thể đánh giá thể tích này bằng siêu âm hay bằng thông tiểu sau khi đi tiểu. Cách thức sau chính xác và đơn giản hơn. Để phát hiện sớm tình trạng này, nên thông mỗi tháng ít nhất một lần để đánh giá lượng nước tiểu tồn lưu. KẾT LUẬN Bàng quang thay thế nối với niệu đạo (bàng quang trực vị) là một lựa chọn tốt và cần thiết cho những bệnh nhân khi phải cắt bỏ bàng quang. Phương pháp này giúp cho bệnh nhân có thể đi tiểu một cách tự nhiên, tránh mặc cảm tật nguyền và hội nhập đời sống xã hội sau mổ. Tuy là một phẫu thuật khá lớn nhưng tỷ lệ tai biến – biến chứng chấp nhận được. Bàng quang tân tạo có những kết quả khá tốt từ tháng thứ 6 sau mổ. Để bàng quang có thể ổn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 7 định lâu dài theo thời gian, phải giữ thể tích nước tiểu tồn lưu ở mức thấp nhất. Tuy vậy, bàng quang trực vị chỉ có thể thay thế tốt bàng quang thiên nhiên về mặt chức năng chứa đựng. Về mặt chức năng tống xuất, bệnh nhân cần phải tập để vận động tốt cơ bụng nhằm hỗ trợ động tác đi tiểu. Bệnh nhân cũng cần phải được giải thích sự cần thiết theo dõi và phát hiện thể tích tồn lưu lớn, đồng thời khuyến cáo trước phương pháp tự thông cách quãng có thể được áp dụng để tránh hiện tượng dãn nở quá mức của bàng quang tân tạo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barre PH, Herve J M, Botto H, Camey M (1996), “ Update on the Camey II procedure”, World J Urol (14), pp 27-28 2. Degeeter P, Melchior H (1991), “Orthotopic bladder replacement using detubularized ileum “, Bladder Reconstruction and Continent Urinary Diversion - 2nd edit. - Chicago - Mosby Year Book Inc., pp 374-382 3. Đào quang Oánh, Vũ văn Ty, Nguyễn tuấn Vinh, Nguyễn văn Ân (2004), “Phẫu thuật không chuyển lưu trong niệu khoa”, Y Học TP Hồ Chí Minh (8), (1), tr 289 – 295 4. Đào quang Oánh, Vũ văn Ty, Nguyễn tuấn Vinh, Nguyễn văn Ân (2005), “Tạo hình bàng quang nằng ruột”, Tạp chí Y Học VN (313), tr 755 – 763 5. Melchior H, Spehr C, Knop-Wageman I, Persson M C, Juernermann K P (1988), “Continent ileal bladder for urinary tract reconstruction after cystectomy: survey of 44 patients”, J.Uro. (139), pp 714-718 6. Skinner D G, Boyd S D, Lieskovsky G, Bennet C, Hopwood B (1991), “Lower urinary tract reconstruction following cystectomy: experience and results in 126 patients using the Kock ileal reservoir with bilateral ureteroileal urethrostomy”, J.Uro. (146), pp 756-760 7. Stein J P, Dunn M D, Quek M L, Miranda G, Skinner D G (2004), ”The orthotopic T pouch ileal neobladder: experiences with 209 patients”, J.Uro (172), pp 584 – 587 8. Studer U E, Danuser H, Merz V W, Springer J P, Zing E J (1995), “Experience in 100 patients with an ileal low pressure bladder substitute combined with an afferent tubular isoperistaltic segment”, J.Uro. (154), pp 49-56 9. Wenderoth U K, Bachor R, Egghart G, Frohnenberg D, Miller K, Hautmann R E (1990), “The ileal neobladder: experience and results of more than 100 consecutive cases”, J.Uro. (143), pp 492-497 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 8 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân 9

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbang_quang_truc_vi_thay_the_noi_voi_nieu_dao_ket_qua_tren_nh.pdf
Tài liệu liên quan