Triệu chứng về huyết học, đa số bệnh nhân
thiếu máu đại hồng cầu đều biểu hiện hồng cầu
to trên huyết đồ, tỉ lệ hồng cầu có kích thước
bình thường chỉ khoảng 11%(17). Bệnh nhân của
chúng tôi có kèm theo lao phổi nên có lẽ đó là
nguyên nhân làm cho MCV trong giới hạn bình
thường. Giảm ba dòng chiếm tỉ lệ cao (39%) ở
bệnh nhân thiếu máu đại hồng cầu(17) và cũng là
nguyên nhân đứng thứ hai trong các nguyên
nhân giảm ba dòng trên trẻ em sau suy tủy mắc
phải(18). Triệu chứng về huyết học ở bệnh nhân
chúng tôi có một giai đoạn hồi phục một phần
sau đó giảm lại, trùng hợp với lúc chúng tôi vô
tình bổ sung acid folic, điều này đã được báo
cáo trên y văn tuy nhiên sự cải thiện không
hoàn toàn cũng như không lâu dài(19). Điều trị
bằng B12 liều cao giúp cải thiện về huyết học
nhanh trên bệnh nhân tương tự các báo các
khác(7,10).
Khi nhập viện bệnh nhân có biểu hiện tán
huyết với vàng da, tăng bilirubin; triệu chứng
này đã được y văn ghi nhận(1,7). Nguyên nhân
còn chưa rõ, một số giả thuyết cho rằng có sự
kết hợp của tán huyết trong tủy do tạo máu
không hiệu quả(7), tán huyết nội mạch do tăng
homocystein và tán huyết ngoại mạch do giảm
tính đàn hồi của hồng cầu(20).
Chẩn đoán bệnh trễ trong trường hợp của
chúng tôi là do tính chất hiếm của bệnh, bệnh
nhân có kèm theo sốt kéo dài, triệu chứng tán
huyết, các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu,
cũng như sự hồi phục tạm thời các dòng tế bào
máu trong quá trình điều trị.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo 1 trường hợp thiếu máu đại hồng cầu ở trẻ nhũ nhi 2 tháng nuôi bằng sữa mẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 315
BÁO CÁO 1 TRƯỜNG HỢP THIẾU MÁU ĐẠI HỒNG CẦU
Ở TRẺ NHŨ NHI 2 THÁNG NUÔI BẰNG SỮA MẸ
Nguyễn Đình Văn*
TÓM TẮT
Một bệnh nhân 2 tháng tuổi được nuôi bằng sữa mẹ nhập viện vì ói, tiêu lỏng, và xanh xao. Các xét nghiệm
cho thấy bệnh nhân bị thiếu máu đại hồng cầu có giảm ba dòng tế bào và giảm nặng vitamin B12. Nguyên nhân
là do mẹ thiếu máu vitamin B12. Bệnh nhân phục hồi về lâm sàng và huyết học nhanh sau khi điều trị bằng
vitamin B12.
Từ khóa: Thiếu máu hồng cầu.
ABSTRACT
CASE REPORT 1 UNIVERSITY ANEMIA HEMOGLOBIN IN INFANTS BREASTFED 2 MONTHS
Nguyen Dinh Van * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 315 - 320
We report a case of 2 month old breast fed infant who presented with history of vomiting, diarrhea and pallor.
Investigations showed severe nutritional vitamin B12 deficiency with a megaloblastic pancytopenia. This
deficiency was due to maternal B12 deficiency. Treatment of infant with vitamin B12 resulted in rapid clinical
and hematological improvement.
Key word: Lack of red blood
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cơ thể người không tự tổng hợp được
vitamin B12 và nguồn cung cấp duy nhất là sản
phẩm từ động vật. Thiếu máu đại hồng cầu do
thiếu vitamin B12 rất hiếm gặp ở trẻ em.
Nguyên nhân có thể là do giảm cung cấp, giảm
hấp thu hoặc giảm sử dụng B12(1,2).
Hầu hết các trường hợp thiếu cung cấp
vitamin B12 ở trẻ em đều do mẹ thiếu, và
thường chỉ gặp ở những trẻ nhũ nhi bú mẹ hoàn
toàn(1). Trẻ nhũ nhi dự trữ rất ít vitamin B12 và
do đó có thể biểu hiện triệu chứng bệnh trong
vòng vài tháng. Điều này trái ngược với người
lớn lượng dự trữ dồi dào nên dù thiếu B12 trong
nhiều năm, nhưng không biểu hiện triệu
chứng(3).
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân 2 tháng tuổi sinh đủ tháng nhập
viện vào 18/3 với bệnh sử ọc sữa 3-4 lần/ngày,
tiêu phân lỏng và mẹ thấy bé xanh xao dần từ
sau sinh. Cân nặng lúc sinh 2, 7 kg, sau sinh bé
có bị vàng da và phải chiếu đèn trong 4 ngày.
Khám lâm sàng thấy bệnh nhân xanh xao,
vàng da nhẹ, tăng sắc tố ở bàn tay, chân, thở
nhanh, gan khoảng 2 cm dưới hạ sườn, lách
và hạch không sờ chạm. Xét nghiệm
hemoglobin 6,6 g/dL, hematocrit 18,3%, bạch
cầu 12,9 x 109/L (Neutrophil 7,2%, lymphocyte
83%, monocyte 2%, eosinophil 1,1%, basophil
1,4%), MCV 89 fL, tiểu cầu 99 x 109/L. Phết
máu ngoại biên cho thấy hồng cầu to nhỏ
không đều, đa dạng và không có bạch cầu
non máu ngoại vi. Sinh hóa ghi nhận tăng
bilirubin chủ yếu là gián tiếp (Bilirubin toàn
phần 47 mg/L, trực tiếp 5 mg/L), Ferritin 237
ng/mL (15-120), haptoglobin 4,6 mg/dL (30-
200), Coombs test trực tiếp âm tính. Bệnh
nhân được chẩn đoán viêm phổi - thiếu máu
tán huyết - giảm 2 dòng tế bào máu, giảm
bạch cầu hạt và được điều trị với kháng sinh
và truyền hồng cầu lắng.
*Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đình Văn ĐT: 0909.765.121 Email: Nguyendinhvan26@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 316
Diễn tiến điều trị (hình 1)
Hình 1: Quá trình điều trị
*Bạch cầu x 109/L Truyền máu **Hemoglobin g/dl Co giật ***Tiểu cầu x1010/L
a b
Hình 2: Phết máu ngoại biên cho thấy hồng cầu đa dạng, to nhỏ không đều (a), hypersegmented neutrophil (b)
Sau một tuần tình trạng viêm phổi ổn định,
bệnh nhân được ngưng kháng sinh, bổ sung
vitamin và acid folic (5 mg/ngày). Tình trạng
huyết học bệnh nhân cải thiện dần sau đó
(Hemoglobin 9, 0 g/dL, tiểu cầu 159 x 109/L, bạch
cầu 8 x 109/L trong đó neutrophil 2 x 109/L).
Ngày 12/4 bệnh nhân co giật toàn thân, sau
co giật bé tỉnh táo hoàn toàn, khám thần kinh
cho thấy bé chậm phát triển tâm thần vận động
ngoài ra không ghi nhận gì đặc biệt. Siêu âm
xuyên thóp, EEG, dịch não tủy không ghi nhận
bất thường. Bệnh nhân chẩn đoán bệnh lý não
cấp và được điều trị với thuốc chống động kinh
(deparkin, phenobarbital).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 317
g h
Hình 3: Tủy đồ: mật độ tủy giàu(a), megaloblast (b), hồng cầu hai nhân(c,d), nhân biến đổi dạng megaloblast(d),
bất thường nhân của bạch cầu non(e,g), hiện diện metamyelocyte và band neutrophil lớn(f,h)
B
D
E
G H
C
A
F
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 318
Ngày 21/4 bệnh nhân không còn co giật tuy
nhiên tình trạng viêm phổi tái lại, huyết học
giảm lại ba dòng tế bào máu (Hemoglobin 7,7
g/dL, tiểu cầu 87 x 109/L, bạch cầu 1,7 x 109/L
trong đó neutrophil 0,69 x109/L), do đó bệnh
nhân được làm tủy đồ. Kết quả tủy đồ cho thấy
mật độ tủy giàu, tăng sinh mạnh dòng hồng
cầu, hiện diện nhiều tế bào dạng megaloblast,
dòng bạch cầu có sự trưởng thành không đồng
đều giữa nhân và tế bào chất, một số có không
bào, có hiện diện metamyelocyte và band
neutrophil lớn (hình 3). Phết máu ngoại biên
hồng cầu đa dạng, to nhỏ không đều, hiện diện
nhiều bạch cầu đa nhân phân nhiều múi, với tỉ
lệ đa nhân trên 6 múi > 1% (hình 2).
Huyết đồ mẹ hemoglobin 11 g/dL, MCV 103
fL, tiểu cầu 275 x 109/L, bạch cầu 8,5 x 109/L, phết
máu ngoại vi cũng cho thấy nhiều đa nhân
nhiều phân múi. Định lượng B12 con và mẹ lần
lượt là 88 pg/mL và 165 pg/mL (211 - 911), acid
folic của con và mẹ lần lượt là 24 ng/mL và 9,7
ng/mL (> 5,38). Bệnh nhân được chẩn đoán thiếu
máu đại hồng cầu do thiếu B12, được điều trị
chích B12 liều 100 µg trong 3 ngày và 1000 µg
trong 7 ngày tiếp theo. Sau 7 ngày điều trị huyết
học bệnh nhân phục hồi về tiểu cầu và bạch cầu
với hemoglobin 9 g/dL, tiểu cầu 181 x 109/L,
bạch cầu 7, 8 x 109/L trong đó neutrophil 1, 8 x
109/L. Tuy nhiên sau đó bệnh nhân chẩn đoán
theo dõi lao phổi (viêm phổi kéo dài, hạch trung
thất) nên được chuyển bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch để chẩn đoán và điều trị đặc hiệu. Hiện
tại bệnh nhân đã 7 tháng tuổi, tăng sắc tố da
biến mất, phát triển về tâm thần - vận động bình
thường, bình thường hoàn toàn về huyết học và
đang được duy trì B12 (100 µg) mỗi tháng.
BÀN LUẬN
Thiếu máu đại hồng cầu ở trẻ nhũ nhi hiếm
gặp. Trẻ nhũ nhi thiếu B12 lần đầu tiên được
báo cáo vào năm 1962(4). Trong một báo cáo ở
Melbourne cho thấy chỉ có 19 trường hợp trong
25 năm(3). Lượng B12 cần thiết cho trẻ nhũ nhi là
0,06 - 0,10 µg/ngày và trẻ sơ sinh bình thường
dự trữ khoảng 20-25 µg(5). Do đó trẻ bình thường
có đủ lượng B12 cho sáu đến tám tháng mặc dù
không được cung cấp đủ hoặc kém hấp thu(5).
Ngược lại, lượng B12 dự trữ ở trẻ có mẹ thiếu
B12 chỉ khoảng 2-5 µg(5). Hơn nữa, B12 trong sữa
của những bà mẹ này cũng rất thấp(6). Tương tự
như trường hợp của chúng tôi, tác giả Zengin
cũng báo cáo 27 trường hợp trẻ nhũ nhi thiếu
B12 do thiếu cung cấp từ mẹ(7). Tuy nhiên tuổi
biểu hiện bệnh của bệnh nhân trong báo cáo của
chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của tác giả
(tuổi trung bình là 10,5 tháng).
Về lâm sàng bệnh nhân biểu có hiện ói(7),
tiêu lỏng(7), tăng sắc tố da(8,9), co giật(10), chậm
phát triển tâm thần vận động(7); những triệu
chứng này cũng tương đồng với các báo cáo
trên thế giới. Tăng sắc tố da ở bệnh nhân chủ
yếu biểu hiện ở tay chân, y văn đã có ghi nhận
triệu chứng này chỉ xuất hiện khoảng 18%(11). Cơ
chế gây ra triệu chứng này còn chưa rõ, một số
tác giả cho rằng là do sự tăng sinh
melanophages/melanin ở biểu mô(8,12), một số
khác lại ghi nhận tăng số lượng melanocyte(13).
Chẩn đoán phân biệt của tăng sắc tố da bao gồm
bệnh Addison, suy giáp, bệnh gan và bệnh ác
tính. Trong trường hợp của chúng tôi chưa loại
trừ được các nguyên nhân trên tuy nhiên sau
khi điều trị với B12 triệu chứng đã mất hoàn
toàn, điều này cũng được ghi nhận trong nhiều
nghiên cứu(8,12,13).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 319
Triệu chứng thần kinh trong thiếu B12 được
giải thích là do thoái hóa myelin dẫn đến tổn
thương sợi trục và tăng sinh tế bào hình sao ở hệ
thần kinh trung ương(14). Về cơ chế phân tử còn
chưa rõ. Tuy nhiên, tổn thương thần kinh
thường rầm rộ ở những bệnh nhân thiếu B12
hơn thiếu acid folic(15). Ở trẻ nhỏ, thiếu B12 được
ghi nhận là gây li bì, chậm phát triển tâm thần
và co giật; tương tự như bệnh nhân của chúng
tôi(7). Ngoài ra, trong quá trình điều trị chúng tôi
đã vô tình bổ sung acid folic, điều này cũng có
thể là nguyên nhân thúc đẩy triệu chứng thần
kinh tiến triển nhanh hơn(16). Tuy nhiên, những
nghiên cứu để chứng minh điều này sẽ không
thể thực hiện vì sẽ vi phạm y đức. Không như
triệu chứng thiếu máu, tổn thương thần kinh có
thể không phục hồi hoặc phục hồi chậm(10,14),
như bệnh nhân của chúng tôi phải mất 2 tháng
bé mới hồi phục về phát triển tâm thần, tuy
nhiên vẫn còn chậm trong phát triển vận động.
Triệu chứng về huyết học, đa số bệnh nhân
thiếu máu đại hồng cầu đều biểu hiện hồng cầu
to trên huyết đồ, tỉ lệ hồng cầu có kích thước
bình thường chỉ khoảng 11%(17). Bệnh nhân của
chúng tôi có kèm theo lao phổi nên có lẽ đó là
nguyên nhân làm cho MCV trong giới hạn bình
thường. Giảm ba dòng chiếm tỉ lệ cao (39%) ở
bệnh nhân thiếu máu đại hồng cầu(17) và cũng là
nguyên nhân đứng thứ hai trong các nguyên
nhân giảm ba dòng trên trẻ em sau suy tủy mắc
phải(18). Triệu chứng về huyết học ở bệnh nhân
chúng tôi có một giai đoạn hồi phục một phần
sau đó giảm lại, trùng hợp với lúc chúng tôi vô
tình bổ sung acid folic, điều này đã được báo
cáo trên y văn tuy nhiên sự cải thiện không
hoàn toàn cũng như không lâu dài(19). Điều trị
bằng B12 liều cao giúp cải thiện về huyết học
nhanh trên bệnh nhân tương tự các báo các
khác(7,10).
Khi nhập viện bệnh nhân có biểu hiện tán
huyết với vàng da, tăng bilirubin; triệu chứng
này đã được y văn ghi nhận(1,7). Nguyên nhân
còn chưa rõ, một số giả thuyết cho rằng có sự
kết hợp của tán huyết trong tủy do tạo máu
không hiệu quả(7), tán huyết nội mạch do tăng
homocystein và tán huyết ngoại mạch do giảm
tính đàn hồi của hồng cầu(20).
Chẩn đoán bệnh trễ trong trường hợp của
chúng tôi là do tính chất hiếm của bệnh, bệnh
nhân có kèm theo sốt kéo dài, triệu chứng tán
huyết, các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu,
cũng như sự hồi phục tạm thời các dòng tế bào
máu trong quá trình điều trị.
KẾT LUẬN
Thiếu B12 là một bệnh hiếm gặp ở trẻ nhũ
nhi, triệu chứng lâm sàng mơ hồ, việc điều trị
chậm trễ có thể để lại di chứng trên sự phát triển
tâm thần vận động, do đó chẩn đoán bệnh cần
phải nghĩ tới trên những trẻ giảm ba dòng tế bào
máu, có hay không có tăng MCV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Altay C, et al. (1995), Familial selective vitamin B12
malabsorption (Imerslund-Grasbeck syndrome) in a pool of
Turkish patients, Pediatr Hematol Oncol, 12(1): 19-28.
2. Ballas SK, et al. (1976), Reduced erythrocytic deformability in
megaloblastic anemia, Am J Clin Pathol, 66(6): 953-7.
3. Carmel R. (2009), Megaloblastic Anemias: Disorders of Impaired
DNA Synthesis. Wintrobe’s Clinical Hematology 12th Edition,
ed. J.F. John P. Greer, George M. Rodgers, Frixos Paraskevas,
Bertil Glader, Daniel A. Arber, Philadelphia. Lippincott Williams
& wilkins.
4. Daphna KD. (2008), Effect of vitamin B12 deficiency on
neurodevelopment in infants: current knowledge and possible
mechanisms, Nutrition Reviews, 66(5): 250-255.
5. Jadhav M et al. (1962), Vitamin B12 deficiency in Indian infants.
A clinical syndrome, Lancet, 2(7262): 903-7.
6. Khanduri U and Sharma A (2007), Megaloblastic anaemia:
prevalence and causative factors, Natl Med J India, 20(4): 172-5.
7. Maktouf C, et al. (2006), Megaloblastic anemia in North Africa,
Haematologica, 91(7): 990-1.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 320
8. Memon S., Shaikh S, and Nizamani MA (2008), Etiological
spectrum of pancytopenia based on bone marrow examination
in children, J Coll Physicians Surg Pak, 18(3): 163-7.
9. Mori K, Ando I, and Kukita A (2001), Generalised
hyperpigmentation of the skin due to vitamin B12 deficiency, J
Dermatol, 28: 282-5.
10. Niiyama S and Mukai H (2007), Reversible cutaneous
hyperpigmentation and nails with white hair due to vitamin B12
deficiency, Eur J Dermatol, 17(6): 551-2.
11. Noppakun N and Swasdikul D (1986), Reversible
hyperpigmentation of skin and nails with white hair due to
vitamin B12 deficiency, Arch Dermatol, 122(8): 896-9.
12. Ross JF, Belding H, and Paegel BL (1948), The development and
progression of subacute combined degeneration of the spinal
cord in patients with pernicious anemia treated with synthetic
pteroylglutamic (folic) acid, Blood, 3(1): 68-90.
13. Schwartz SO, Kaplan SR, and Armstrong BE (1950), The long-
term evaluation of folic acid in the treatment of pernicious
anemia, J Lab Clin Med, 35(6): 894-8.
14. Sherley-Dale AC, et al., Pigmentary changes in pernicious
anaemia: an important but under-recognized phenomenon, Clin
Exp Dermatol, 36(1): 93-5.
15. Specker BL, et al. (1990), Vitamin B-12: low milk concentrations
are related to low serum concentrations in vegetarian women
and to methylmalonic aciduria in their infants, Am J Clin Nutr,
52(6): 1073-6.
16. Tomoda H, et al. (1988), Central vs peripheral nerve conduction.
Before and after treatment of subacute combined degeneration,
Arch Neurol, 45(5): 526-9.
17. Turner RJ, Scott-Jupp R, and Kohler JA (1999), Infantile
megaloblastosis secondary to acquired vitamin B12 deficiency,
Pediatr Hematol Oncol, 16(1): 79-81.
18. Ventura P et al. (2004), A role for homocysteine increase in
haemolysis of megaloblastic anaemias due to vitamin B (12) and
folate deficiency: results from an in vitro experience, Biochim
Biophys Acta, 1739(1): 33-42.
19. Weir DG andScott JM (1995), The biochemical basis of the
neuropathy in cobalamin deficiency, Baillieres Clin Haematol,
8(3): 479-97.
20. Zengin E, Sarper N, and Caki Kilic S (2009), Clinical
manifestations of infants with nutritional vitamin B deficiency
due to maternal dietary deficiency, Acta Paediatr, 98(1): 98-102.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_1_truong_hop_thieu_mau_dai_hong_cau_o_tre_nhu_nhi_2.pdf