Tóm tắt 1
Lời cảm ơn 5
Mục lục 6
Danh sách các bảng . 7
Danh sách các hình 8
Danh sách các hộp . 8
Các từ viết tắt 9
Chương 1 Mục đích và bối cảnh địa bàn nghiên cứu . 10
1.1 Xuất xứ và mục đích . 10
1.2 Bối cảnh địa bàn nghiên cứu 11
1.2.1 Bắc Ninh 13
1.2.2 Hưng Yên 17
Chương 2 Phương pháp luận . 23
2.1 Nghiên cứu và công tác nghiên cứu thực địa . 23
2.2 Lựa chọn các tỉnh, huyện và xã 25
2.3 Phỏng vấn bán cấu trúc và nghiên cứu trường hợp điển hình . 25
2.4 Thực hiện công tác nghiên cứu thực địa 27
2.5 Mẫu hộ gia đình 29
2.6 Sơ đồ mô tả 31
Chương 3 Quy trình thủ tục trên thị trường đất đai 32
3.1 Cấp GCN QSDĐ . 32
3.1.1 Cấp GCN QSDĐ đồng loạt – Chính quyền địa phương 33
3.1.2 Cấp GCN QSDĐ riêng lẻ – Chính quyền địa phương 39
3.2 Mua/Bán Đất . 42
3.2.1 Giao dịch chính thức - Chính quyền địa phương 42
3.2.2 Giao dịch chính thức - Hộ gia đình 45
3.2.3 Giao dịch không chính thức . 49
3.3 Thuê/cho thuê đất . 53
3.3.1 Giao dịch chính thức . 53
3.3.2 Giao dịch không chính thức . 54
3.4 Thế chấp đất . 56
3.4.1 Giao dịch chính thức – Chính quyền địa phương 56
3.4.2 Giao dịch chính thức – Hộ gia đình . 59
3.4.3 Giao dịch không chính thức . 61
Chương 4 Quản lý thị trường đất đai và chất lượng dữ liệu 63
4.1 Quản lý thị trường đất đai . 63
4.2 Chất lượng số liệu thị trường đất đai 68
Chương 5 Sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn . 70
Chương 6 Kết luận và khuyến nghị 71
Phụ lục: Các mẫu trong quy trình thực hiện thủ tục nhà đất . 74
Tài liệu tham khảo . 75
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Ảnh hưởng của các thủ tục giao dịch trên thị trường đất đai đối với người nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng. Khi người vay đã trả hết gốc và lãi
họ có thể đến ngân hàng để lấy lại GCN QSDĐ. Khảo sát cho thấy tất cả các thủ tục ở ngân
hàng là minh bạch, thẳng thắn và được thực hiện nhanh chóng.
Trong vòng 2 đến 3 tuần, người đi vay có thể nhận được khoản vay với điều kiện họ phải có
đầy đủ giấy tờ cần thiết để trình cho ngân hàng. Người đi vay cũng thường được một cán
bộ ngân hàng hướng dẫn và hỗ trợ điền vào các mẫu.
Bảng 35: Thời gian và chi phí cho việc thế chấp đất
Bắc Ninh Hưng Yên
Từ
Sơn
Quế
Võ
Khoái
Châu
Văn
Giang
Tổng chi phí (1000 đồng) 60
Phí làm đơn xin vay ở ngân hàng 5 3 0
Hoàn tất hồ sơ thế chấp tại xã 60 60
Thời gian (ngày) 5-15
Xác minh giấy tờ ở xã 0.5
Hoàn tất giấy tờ thế chấp ở xã 3
Vay ngắn hạn 5 5
Vay trung hạn và dài hạn 15 15
Trong các trường hợp nợ xấu, ngân hàng có thể cho giãn nợ. Tuy nhiên nếu khách hàng
không có khả năng trả nợ sẽ có hai lựa chọn. Một là ngân hàng cho phép khách hàng tự tìm
người mua đất. Thủ tục mua bán sẽ được chính quyền xác nhận, người mua sẽ hoàn trả
món nợ cho ngân hàng, và ngân hàng sẽ trả Sổ đỏ cho người mua. Hoặc cách khác là ngân
hàng sẽ thành lập một hội đồng định giá đất và bán mảnh đất đó. Tuy nhiên, việc phát mại
đất tại ngân hàng rất hạn chế.
Không có sự khác nhau về thủ tục thế chấp đất đối với đất ở và đất nông nghiệp. Sự khác
nhau duy nhất là về giá mỗi loại đất. Đất nông nghiệp được định giá rất thấp do thị trường
giao dịch đất nông nghiệp không sôi động. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng không chấp
58
nhận thế chấp đất nông nghiệp. Hơn nữa khi thế chấp đất ở ngân hàng chủ hộ phải nộp Sổ
đỏ, do vậy họ phải thế chấp tất cả các thửa đất trong Sổ đỏ cùng lúc.
Theo một cán bộ ngân hàng ở NHNNo Văn Giang thì việc cấp GCN QSDĐ chậm đã cản trở
ngân hàng cung cấp thêm các khoản vay cho các hộ gia đình. Nếu hộ gia đình có sự tín
nhiệm thì họ cũng chỉ có thể vay được tối đa là 30 triệu đồng từ ngân hàng mà không cần có
GCN QSDĐ.
Hình 15: Sơ đồ mô tả quy trình thế chấp QSDĐ cho ngân hàng (chính thức- chính
quyền địa phương)
CÊp x∙ (8)
Sau khi ®−îc phª chuÈn,
ng−êi ®i vay ®em hå s¬ ®Õn
gÆp c¸n bé ®Þa chÝnh x· ®Ó
x¸c nhËn ®Êt ch−a bÞ thÕ
chÊp.
Chi phÝ: 0 - 60,000 ®ång (ë
cÊp x·)
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
CÊp ng©n hµng huyÖn (11)
C¸n bé ng©n hµng quyÕt ®Þnh sè vèn vay, thêi
h¹n cho vay vµ l·i suÊt, sau ®ã th«ng b¸o cho
ng−êi ®i vay ngµy ®Õn nhËn tiÒn vay.
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
CÊp hé gia ®×nh (12)
Ng−êi ®i vay ®Õn ng©n hµng
ký hîp ®ång (2 b¶n).
Thêi gian: 1/2 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (14)
Ng−êi ®i vay tr¶ l·i theo
®óng h¹n quy ®Þnh
trong hîp ®ång.
CÊp ng©n hµng huyÖn (5)
C¸n bé kü thuËt cña ng©n
hµng ®Õn nhµ ng−êi ®i vay
®Ó thÈm ®Þnh thöa ®Êt, tµi
s¶n g¾n liÒn víi ®Êt vµ ®iÒn
vµo Biªn b¶n x¸c ®Þnh gi¸
trÞ tµi s¶n b¶o ®¶m.
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
Thñ tôc thÕ chÊp GCN QSD§ t¹i ng©n hµng
(giao dÞch chÝnh thøc - chÝnh quyÒn ®Þa ph−¬ng)
Tæng chi phÝ: 0 - 65,000 ®ång
Tæng thêi gian: 2-3 tuÇn
CÊp hé gia ®×nh (1)
Ng−êi ®i vay ®Õn
ng©n hµng ®Ó lÊy
mÉu ®¬n xin vay vèn.
Thêi gian: 1 ngµy
CÊp ng©n hµng huyÖn (4)
C¸n bé ng©n hµng gióp
ng−êi ®i vay ®iÒn vµo §¬n
Yªu cÇu ThÕ chÊp QSD§,
ph−¬ng ¸n vay vèn, vµ hîp
®ång thÕ chÊp QSD§ vµ tµi
s¶n g¾n liÒn víi ®Êt.
Chi phÝ: 0-5,000 ®ång
Thêi gian: 1 giê
CÊp hé gia ®×nh (15)
Ng−êi ®i vay nhËn l¹i
GCN QSD§ sau khi tr¶
hÕt tiÒn gèc vµ l·i.
CÊp x∙ (10)
C¸n bé ®Þa chÝnh x· ghi l¹i
th«ng tin vµo Sæ ThÕ chÊp
GCN QSD§.
Thêi gian: 1-2 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (2)
Ng−êi ®i vay ®Õn
UBND x· xin x¸c nhËn
GCN QSD§ hay c¸c
giÊy tê kh¸c chøng
minh quyÒn sö dông
®Êt ®èi víi m¶nh ®Êt
®−îc ®em thÕ chÊp.
Thêi gian: 1 - 2 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (3)
Ng−êi ®i vay hoµn thiÖn mäi
giÊy tê bao gåm b¶n sao
CMND, GCN QSD§ hay giÊy
tê chøng minh QSD§ cã x¸c
nhËn cña UBND x·, hé khÈu,
vµ ph−¬ng ¸n vay vèn ®Ó xin
vay vèn.
Thêi gian: 1-2 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (13)
Ng−êi ®i vay nhËn tiÒn vay
vµ gi÷ 1 b¶n hîp ®ång vµ
sæ vay. Ng©n hµng gi÷ GCN
QSD§.
Thêi gian: 1/2 ngµy
CÊp ng©n hµng huyÖn
(6)
C¸n bé kü thuËt tr×nh
MÉu ThÈm ®Þnh TÝn
dông cho tr−ëng phßng
tÝn dông vµ gi¸m ®èc
ng©n hµng ®Ó xem xÐt
vµ th«ng qua.
Thêi gian: 1 - 2 ngµy
CÊp x∙ (9)
Chñ tÞch UBND x· ký vµ
®ãng dÊu hå s¬, chuyÓn
cho c¸n bé ®Þa chÝnh x·.
Thêi gian: 1 - 2 ngµy
CÊp ng©n hµng
huyÖn (7)
Tr−ëng phßng tÝn
dông vµ gi¸m ®èc
ng©n hµng xem xÐt vµ
phª chuÈn vèn vay, vµ
chuyÓn l¹i hå s¬ cho
c¸n bé tÝn dông.
Thêi gian: 1 - 2 ngµy
59
Số thửa đất được đem thế chấp tại NHNNo là tương đối lớn. Huyện Văn Giang tỉnh Hưng
Yên có dân số 91,000 người vào năm 2000 và trong 6 tháng đầu năm 2004 đã có khoảng
5000 khoản vay thế chấp đã được thực hiện tại địa bàn. Huyện Quế Võ có khoảng 20,000
khoản vay có thế chấp trong năm 2003. Ở huyện Khoái Châu có khoảng 45,000 hộ gia đình
và mỗi năm có trên dưới 20,000 khoản vay có thế chấp được thực hiện tại NHNNo huyện.
Quy mô khoản vay phụ thuộc vào mục đích kinh doanh, diện tích đất, giá trị mảnh đất và số
tiền do người vay yêu cầu. Bảng 36 chỉ ra rằng quy mô trung bình của các khoản vay có thế
chấp đất nông nghiệp tương đối nhỏ hơn quy mô trung bình của các khoản vay có thế chấp
đất ở (4 đến 6 triệu đồng một khoản vay có thế chấp đất nông nghiệp so với 6 đến 11 triệu
đồng một khoản vay có thế chấp đất ở). Số liệu trong bảng cũng chỉ ra rằng có một số đáng
kể các khoản vay dưới 10 triệu đồng có thế chấp đất .
Bảng 36: Thế chấp đất hàng năm ỏ NHNNo huyện Khoái Châu
2002 2003 6/2004
Tổng số tiền vay (triệu đồng) 79,931 120,185 78,548
Thế chấp đất nông nghiệp 31,972 48,074 31,419
Thế chấp đất ở 23,979 36,055 23,564
Thế chấp đất khác 13,588 20,431 13,353
Thế chấp tài sản khác 10,392 15,625 10,212
Tổng số khoản vay 16,232 18,726 11,376
Thế chấp đất nông nghiệp 8,116 9,363 5,688
Thế chấp đất ở 4,058 4,681 2,844
Thế chấp đất khác 2,110 2,434 1,479
Thế chấp tài sản khác 1,948 2,248 1,365
Tổng số các khoản nợ xấu 403 234 384
Thế chấp đất nông nghiệp 322 186 307
Thế chấp đất ở 86 48 77
Thế chấp đất khác 0 0 0
Thế chấp tài sản khác 0 0 0
3.4.2 Giao dịch chính thức – Hộ gia đình
Quy trình thế chấp đất do hộ gia đình mô tả không khác nhiều so với mô tả của ngân hàng.
Các hộ gia đình dường như hoàn toàn biết rõ các thủ tục để có thể vay được tiền.
Người đi vay tới ngân hàng mang theo Sổ đỏ, CMND, hộ khẩu thường trú và xác nhận của
rằng đất chưa bị thế chấp. Cán bộ ngân hàng sau đó tiến hành làm các thủ tục giấy tờ cho
người đi vay. Phần lớn các hộ cho rằng họ không mất phí ở các khâu này, song có vài hộ
nói rằng họ phải trả 3000 hoặc 5000 cho tiền giấy tờ. Tuy nhiên có vài người thừa nhận đã
đưa tiền phong bì vài trăm ngàn đồng cho cán bộ ngân hàng. Hai hộ đã trả các khoản phí
không chính thức (100,000 và 200,000 đồng) để vay được tiền ngân hàng. Những người
này yêu cầu được vay trên 10 triệu đồng. Để đẩy nhanh quy trình vay, hai hộ gia đình khác
đã chi 100,000 đồng cho cán bộ ngân hàng. Một hộ gia đình đã vay được tiền chỉ trong vòng
1 ngày khi đưa phí không chính thức 50,000 đồng.
Một số hộ gia đình nhờ cậy vào Hội Phụ nữ (HPN) hỗ trợ về mặt thủ tục. Hầu hết các hộ
không phải trả tiền cho các dịch vụ của HPN, nhưng có một người phải chi 2 phần trăm tổng
số tiền vay được cho hội. Các hội viên HPN muốn xin vay vốn tại ngân hàng chỉ cần đưa Sổ
đỏ cho HPN, chỉ ra số tiền cần vay và sau đó đợi đến khi có thông báo của HPN rồi đến
nhận tiền. Hình thức vay này áp dụng cho các khoản vay dưới 10 triệu đồng đối với các hộ
gia đình có Sổ đỏ. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ giữ Sổ đỏ của họ để đảm bảo
nguời đi vay không đi thế chấp nữa. Sau khi hoàn thành các thủ tục giấy tờ, trong vòng một
tuần cán bộ ngân hàng đến thẩm tra giá trị của lô đất và tài sản. Sau đó hộ gia đình đưa hồ
sơ cho cán bộ địa chính xã xác nhận thông tin về đất và quyền sở hữu. Trái với sơ đồ mô tả
60
của ngân hàng huyện, lệ phí cho UBND để xác nhận và đóng dấu chỉ hết 2,000 đến 5,000
đồng. Một số hộ không phải nộp một khoản phí nào. Hồ sơ sau đó được người đi vay
chuyển đến ngân hàng. Tại đây cán bộ ngân hàng sẽ quyết định số tiền cho vay, thời hạn
vay, lãi suất, và thông báo cho người đi vay ngày đến nhận tiền. Người đi vay đến ngân
hàng để ký và nhận Hợp đồng và ký vào sổ cho vay nợ. Sổ đỏ được lưu giữ tại ngân hàng
đến khi người đi vay trả hết nợ. Việc trả lãi được thực hiện theo lịch trình quy định trong hợp
đồng. Sau khi đã trả hết nợ, người đi vay nhận lại Sổ đỏ trong vòng 2 ngày đền 3 ngày sau
khi đã thanh toán hết nợ cuối cùng.
Quy trình để có được một khoản vay kéo dài từ 1 đến 3 tuần. Với sự giúp đỡ hướng dẫn
của cán bộ ngân hàng hoặc từ phía Hội Phụ Nữ, hộ gia đình có thể nhanh chóng vay được
tiền. Tuy nhiên, có vài hộ gia đình phải đợi từ 1 đến 2 tháng mới nhận được khoản tiền vay.
Thủ tục để có được khoản vay dường như không quá phức tạp. Tuy nhiên đó vẫn là lý do
chủ yếu tại sao một số người do dự khi xin vay vốn. Có 10 hộ gia đình đã xin vay nhưng
không thành công, họ bị từ chối do vài nguyên nhân; hai hộ không có người bảo lãnh, hai hộ
khác có phương án vay vốn chưa tốt, một hộ không vay được do thiếu vốn, một hộ không
xin được xác nhận của chính quyền xã, một hộ có mục đích vay không phù hợp, và một hộ
khác bị từ chối vì những lý do khác. Có 2 truờng hợp người đi vay không biết lý do bị từ chối
cho vay.
Ngoài ra, thời hạn sử dụng đất cho nhà nước cấp ngắn (20 năm tính từ 1993 hay 9 năm tính
từ thời điểm khảo sát 2004 đối với đất nông nghiệp) cũng cản trở ngân hàng cho vay nhiều
hơn tới các hộ gia đình. Có 5 trong số 29 trường hợp thế chấp ghi nhận được trong cuộc
khảo sát hộ gia đình là đất nông nghiệp, trong đó có 4 trường hợp thế chấp ở NHNNo Quế
Võ và 1 trường hợp ở NHNNo Văn Giang. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp đem thế chấp
tương đối lớn, tổng số tiền vay từ các ngân hàng là rất thấp (chưa đầy 5 triệu đồng cho cả 5
khoản vay nói trên). Có 22 hộ gia đình nhất trí rằng nếu họ có thời hạn sử dụng đất dài hơn,
thì họ có thể vay thêm được nhiều hơn.Trong số 36 hộ gia đình nói rằng họ muốn có thời
hạn sử dụng đất dài, 11 hộ cho biết thời hạn đối sử dụng đất nên là 50 năm, 8 hộ nói 30
năm và 9 hộ nói 20 năm.
61
Hình 16: Sơ đồ mô tả quy trình thế chấp Sổ đỏ để vay tiền (chính thức - hộ gia đình)
CÊp x∙ (4)
Ng−êi ®i vay chuyÓn hå s¬ ®Õn c¸n bé
®Þa chÝnh x· ®Ó x¸c nhËn quyÒn sö
dông ®Êt vµ chuyÓn cho UBND x·.
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
CÊp ng©n hµng huyÖn (7)
C¸n bé ng©n hµng quyÕt ®Þnh sè tiÒn
vµ l·i suÊt cho vay, th«ng b¸o cho
ng−êi ®i vay ngµy ®Õn nhËn tiÒn vay.
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
CÊp hé gia ®×nh (8)
Ng−êi ®i vay ®Õn ng©n hµng ký hîp
®ång vµ nhËn tiÒn vay. Ng©n hµng gi÷
sæ ®á. Ng−êi ®i vay nhËn mét b¶n hîp
®ång vµ ký vµo sæ vay.
Thêi gian: 1/2 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (10)
Ng−êi ®i vay tr¶ l·i theo ®óng
thêi h¹n quy ®Þnh trong hîp
®ång
CÊp ng©n hµng huyÖn (3)
C¸n bé ng©n hµng thÈm
®Þnh gi ¸trÞ l« ®Êt vµ tµi s¶n
trªn ®Êt.
Thêi gian: trong vßng 1 tuÇn
Thñ tôc thÕ chÊp ®Êt ë ng©n hµng
(giao dÞch chÝnh thøc - hé gia ®×nh)
Tæng chi phÝ: 0 - 8,000 ®ång
Tæng thêi gian: 1-3 tuÇn
CÊp hé gia ®×nh (1)
Ng−êi ®i vay ®em
CMND vµ GCN QSD§
®Õn ng©n hµng.
CÊp ng©n hµng huyÖn (2)
C¸n bé ng©n hµng gióp ng−êi ®i vay thùc hiÖn c¸c
thñ tôc vµ ®iÒn vµo c¸c mÉu ®¬n xin vay vèn.
Chi phÝ: 0 - 3,000 ®ång
Thêi gian: 1 ngµy
CÊp hé gia ®×nh (12)
Ng−êi ®i vay nhËn l¹i sæ ®á
sau khi tr¶ hÕt tiÒn gèc vµ
l·i vèn vay.
Thêi gian: 2-3 ngµy
CÊp x∙ (6)
Chñ tÞch x· ký vµ ®ãng
dÊu hå s¬, sau ®ã chuyÓn
l¹i cho ng©n hµng.
Chi phÝ: 0-5,000 VND
Bốn hộ gia đình đã đem thế chấp đất để vay được tiền từ Quỹ Tín dụng Nhân dân. Truớc
khi nộp đơn xin vay vốn, nguời đi vay phải đóng 50,000 đồng để trở thành một hội viên của
quỹ. Sau đó hộ gia đình làm đơn xin vay vốn Quỹ tín dụng mà không cần trình bày phương
án vay vốn. Để vay vốn, người đi vay cần có sổ đỏ và sổ được lưu giữ tại quỹ cho đến khi
người vay đã trả hết nợ. Chỉ mất một tuần để quỹ tín dụng thẩm định đất đai và cho vay. Xã
không có liên quan đến các khoản vay của Quỹ tín dụng.
3.4.3 Giao dịch không chính thức
Các giao dịch thế chấp không chính thức có xu hướng liên quan đến việc thế chấp đất cho
hộ dân khác để vay tiền. Kiểu giao dịch này không được ghi lại trong các cuộc phỏng vấn hộ
gia đình và hình như không hay xảy ra ở miền Bắc. Điều này rất có thể là do quy trình vay
tiền khá đơn giản và rõ ràng. Nếu các hộ không thể vay được tiền từ ngân hàng thì họ có
thể vay từ quỹ tín dụng và hội phụ nữ hoặc từ những chủ cho vay tư nhân, vốn không đòi
hỏi nghiêm ngặt như ngân hàng. Một cách lựa chọn khác là họ có thể cho thuê hay bán đất.
62
Hộp 6: Nghiên cứu điển hình - Người nghèo trở thành không có đất đai như thế nào?
Ông Nam là chủ hộ một gia đình nghèo cần vốn để làm ăn, nhưng cũng giống như nhiều hộ nghèo
khác, đất của ông không có sổ đỏ. Mặc dù đất không có sổ đỏ, ông vẫn quyết định xin vay vốn ngân
hàng. Song đất không có GCN QSDĐ không thể sử dụng để thế chấp vay vốn ngân hàng.
Lẽ ra ông đã có thể đăng ký xin cấp GCN QSDĐ. Tuy nhiên, các chi phí và sự phức tạp khi làm các
thủ tục xin cấp Sổ đỏ đã gây trở ngại cho ông trong việc xin đăng ký. Để được cấp sổ đỏ, ông sẽ phải
xin xác nhận quyền sử dụng đất tại UBND xã. Sau đó ông sẽ phải nộp tiền để chuyển đổi mục đích
sử dụng sang đất ở. Phí này bao gồm khoản thuế sử dụng đất (theo quy định của UBND xã là 100
phần trăm giá trị lô đất). Nếu không ông sẽ không được Ngân hàng chấp thuận dùng làm thế chấp vì
đất của ông là đất vườn. Ngoài ra, ông phải nộp lệ phí đăng ký 35,000 đồng. Và để thực hiện các thủ
tục này ông phải mất một tháng mới có được Sổ đỏ. Không còn cách lựa chọn nào khác, ông cũng
không có tài sản nào khác có giá trị, không quen ai để vay muợn tiền, ông buộc phải bán một nửa
mảnh đất của mình thông qua một giao dịch không chính thức để có vốn làm ăn.
Mặc dù các quy định của ngân hàng cho phép các hộ gia đình được vay không quá 10 triệu
đồng mà không cần phải thế chấp, trên thực tế, các hộ vẫn phải nộp Sổ đỏ để vay bất kỳ số
tiền nào. Điều này chỉ cho phép các hộ có Sổ đỏ được vay vốn, do vậy nhiều hộ nghèo bị
loại trừ và phải dựa vào gia đình, họ hàng và các người cho vay tư nhân, vốn luôn tính lãi
suất cao hơn, hoặc như ông Nam, họ thậm chí còn phải bán cả đất.
63
Chương 4 Quản lý thị trường đất đai và chất lượng dữ liệu
4.1 Quản lý thị trường đất đai
Ở Việt Nam đất đai thuộc về nhân dân trong khi nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho sự
phân phối công bằng đất đai và các quyền sử dụng đất. Nhà nước thực hiện việc quản lý
chung đối với đất đai, bao gồm các nhiệm vụ sau (Luật đất đai 1993):
Điều tra, khảo sát, đo đạc, định giá và phân loại đất cũng như lập bản đồ địa chính.
Lập quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất.
Ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến việc quản lý và sử dụng đất cũng
như việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó.
Phân phối, cho thuê và thu hồi đất đai.
Đăng ký đất đai, thiết lập và quản lý các số liệu địa chính, quản lý các hợp đồng sử
dụng đất, kiểm kê và thống kê đất đai, và cấp GCN QSDĐ.
Thanh tra việc thực hiện các điều luật và các quy định về sử dụng và quản lý đất đai.
Giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, và xử lý các sai phạm liên quan đến
quản lý và sử dụng đất đai.
Ở cấp trung ương, Bộ TNMT giám sát và quy định các chức năng và nhiệm vụ của các cơ
quan quản lý đất. Tại mỗi tỉnh có Sở TNMT và tại mỗi huyện có Phòng TNMT huyện hay
Phòng địa chính và cũng có thể là sự kết hợp của các phòng ban khác như là Phòng giao
thông - Xây dựng và Địa chính. Tại mỗi xã cũng có một cán bộ địa chính xã. Cách thức tổ
chức sắp xếp và quản lý đất đai là PĐC phải báo cáo với UBND cùng cấp. Thí dụ, cán bộ
địa chính xã báo cáo với UBND xã, PĐC huyện báo cáo cho UBND huyện, Sở TNMT phải
báo cáo với UBND tỉnh, và Bộ TNMT báo cáo với Chính phủ.
Sở TNMT phụ trách việc đưa ra các đề xuất cho UBND tỉnh trong việc quy hoạch đất đai
của tỉnh; đưa ra các mức lệ phí cho việc đo đạc, vẽ bản đồ, xác nhận quyền sử dụng đất, tra
cứu và sử dụng tài liệu về đất đai, v.v. Sở TNMT còn có nhiệm vụ thực hiện cơ chế một cửa
trong việc phân đất, cho thuê đất, cấp GCN QSDĐ cũng như thế chấp đất đai. Phòng Đo
đạc và Vẽ Bản đồ của Sở TNMT có nhiệm vụ đo đạc và vẽ bản đồ của tất cả các xã trong
tỉnh. Ở Bắc Ninh, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2004, phòng này đã đo vẽ xong bản đồ
của 60 trên tổng số 66 xã xủa tỉnh (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2004). Phòng Đăng ký Đất đai của
Sở TNMT phụ trách việc giám sát các quy trình cấp GCN QSDĐ của tỉnh và hỗ trợ các
huyện trong việc hoàn thành hồ sơ quản lý đất đai. Phòng này cũng nhận các hồ sơ quản lý
đất đai do PĐC huyện lập để lưu trữ. Ngoài ra, phòng này cũng xác định các loại chi phí của
việc xin cấp GCN QSDĐ để UBND tỉnh phê duyệt và ban hành. Trung tâm Kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thực hiện việc xác nhận và thẩm định lại đất đai để cấp GCN QSDĐ
cho các hộ gia đình.
64
Hình 17: Hướng dẫn lập hồ sơ cấp GCN QSDĐ ở Sở TNMT
Ở cấp huyện và cấp xã, để theo dõi các thửa đất, cán bộ địa chính có Sổ địa chính để ghi
chép lại những người sử dụng đất và thông tin về đất đai sử dụng.
Hình 18: Sổ địa chính
Trong sổ địa chính, mỗi thửa đất đều được ghi chép về chủ sở hữu đất, ngày sinh, họ tên
vợ/chồng, ngày vào sổ, tờ bản đồ số, thửa số, vị trí, diện tích, mục đích sử dụng, thời hạn
sử dụng, GCN QSDĐ số, và chữ ký của chủ sở hữu đất. Sổ địa chính và bản đồ địa chính
bổ sung cho nhau. Mỗi thửa đất trong sổ địa chính được xác định bằng một bản đồ địa
chính. Trong bảng mục lục của sổ địa chính chứa danh sách chủ sở hữu đất và số trang
trong sổ.
65
Hình 19: Mục lục tên chủ sở hữu đất trong Sổ địa chính
Sổ địa chính, sổ mục kê, sổ cấp GCN QSDĐ, và sổ theo dõi biến động đất đai được dùng
để theo dõi việc cấp GCN QSDĐ, các thửa đất, và các giao dịch đất đai. Mỗi năm, UBND
huyện và UBND xã đưa ra một báo cáo chi tiết thống kê đất đai của các xã. Báo cáo này
bao gồm cả việc tổng kết hoạt động của các năm trước và kế hoạch của năm tiếp theo.
Do các bản đồ và các sổ đăng ký ở dạng giấy tờ nên rất khó thống kê và sửa đổi các bản
ghi. Ở 2 trong 4 huyện khảo sát, việc thu thập số liệu khá khó khăn do các số liệu thống kê
vẫn chưa được tổng kết và việc tính toán bằng tay rất mất thời gian. Ngược lại, ở Quế Võ,
việc thống kê số liệu ở phòng thuế chỉ mất vài phút do toàn bộ hệ thống đã được vi tính hoá.
Các PĐC cũng nên học theo làm này. Hiện nay, tất cả các bản sao giấy chứng nhận và các
đơn từ đều đang được cất giữ ở ngăn kéo hay tủ tại các cấp huyện và xã. Một hệ thống
máy tính sẽ giúp cho các cấp xã và huyện thống kê số liệu một cách dễ dàng. Một hệ thống
quản lý đất đai như thế đã được dự kiến trang bị cho toàn bộ các cấp địa chính. Tuy nhiên,
hệ thống máy tính hiện chỉ có ở cấp tỉnh và một số ở cấp huyện, nhưng lại chưa có ở cấp
xã, trừ ở những vùng đô thị. Quan trọng hơn, thậm chí một số nơi đã được trang bị máy
tính, nhưng các cán bộ PĐC ở nhiều huyện vẫn không có đủ kỹ năng máy tính và các phần
mềm sử dụng thì đã lỗi thời.
Tại một huyện, các bước thủ tục xin cấp GCN QSDĐ và thực hiện các giao dịch đất đai
được niêm yết tại tiền sảnh. Tuy nhiên, các thủ tục này chỉ được áp dụng cho các doanh
nghiệp và công ty. Các bảng tin cũng có thể được niêm yết công khai tại các cấp huyện và
xã dành cho các hộ gia đình. Có thể chỉ rõ các bước tiến hành, giá cả, thời gian thực hiện
nhằm giúp các hộ gia đình có được nhận thức về các thủ tục, cho phép họ tham dự vào thị
trường chính thức, tránh phải trả các khoản phí không chính thức.
Cấp xã là cấp làm việc trực tiếp với các hộ gia đình; cán bộ địa chính xã hỗ trợ các hộ gia
đình trong các giao dịch đất đai hay xin cấp GCN QSDĐ. Ở cấp xã, UBND và PĐC xã giám
sát diện tích đất, loại đất, chủ sở hữu đất, và các giao dịch đất đai. Hằng năm, UBND xã
phải đệ trình quy hoạch sử dụng đất dựa trên yêu cầu sử dụng đất và các dự án đầu tư
trong xã cho UBND và PĐC huyện để chủ tịch UBND huyện phê duyệt.
Ngoài việc quy hoạch sử dụng đất, cấp xã còn khảo sát, đo đạc, phân loại, và vẽ bản đồ đất
đai. Chính phủ hướng dẫn và tổ chức phát hành bản đồ địa chính quốc gia, và các UBND
hướng dẫn và tổ chức phát hành bản đồ địa chính cho địa phương. UBND xã và cán bộ địa
66
chính xã là nơi thực hiện lập bản đồ. Bản đồ địa chính xã thường có tỉ lệ 1:5000 đến
1:10000 và chỉ ra các thửa đất trong xã.
Mỗi tờ bản đồ có số ký hiệu xác định. Mỗi thửa đất trên bản đồ cũng có số ký hiệu xác định,
diện tích và loại mã hiệu đất:
Số thửa đất
Diện tích thửa
Loại mã hiệu đất
Các thửa đất được đánh số theo các thứ tự kế tiếp nhau, nhưng nếu có sự chia tách đất thì
các số có thể được đánh tiếp theo số cuối cùng trên bản đồ hay cách đánh thêm chỉ số phụ
b cũng có thể được sử dụng.
Bảng 37: Hệ thống đánh số các thửa đất
a. Trước khi có sự tách đất b,c. SauTrước khi có sự tách đất
1 2 3 1 2 3 1 2 3
6 5 4 6 5 10 4 6 5 5b 4
7 8 9 7 8 9 7 8 9
Đối với các bản đồ này, mỗi thửa đất có khoảng 15 đến 20 mảnh đất của các hộ gia đình.
Thông tin về các thửa đất của các hộ gia đình có thể xem ở sổ địa chính. Hai trong số các
bốn huyện khảo sát hiện đang tiến hành khảo sát đất đai để cấp GCN QSDĐ cho các hộ gia
đình. Các tờ bản đồ được cất giữ ở cấp huyện và xã.
Có một số loại bản đồ hiện đang được sử dụng ở cấp xã. Huyện Quế Võ đã hoàn thành các
bản đồ ảnh dựa vào tiêu chuẩn VN2000 và thay thế các bản đồ cũ có từ năm 1978. Ở các
huyện Khoái Châu và Văn Giang của tỉnh Hưng Yên, bản đồ ảnh tỉ lệ 1:2000 cũng đã được
sử dụng cho đất nông nghiệp. Có 21 trên tổng số 25 xã gần đây cũng đã thuê Trung tâm Kỹ
thuật ở PĐC tỉnh đo đạc và vẽ bản đồ đất ở (PĐC huyện Khoái Châu 2004, 3). Huyện Từ
Sơn (Bắc Ninh) và Văn Giang (Hưng Yên) sử dụng các bản đồ “299” cho đất ở. Một số xã ở
Từ Sơn có bản đồ địa chính dựa trên mạng quốc gia. Xã Đình Bảng (Từ Sơn) gần đây đã
đo đạc lại và ghi nhận nhiều thay đổi đáng kể. Một số xã ở huyện Văn Giang có bản đồ
riêng của họ được lập từ năm 1999 (Phụng Công và Tân Tiến) và năm 2001 (Nghĩa Trụ).
Việc lập bản đồ này tốn nhiều thời gian và công sức. Đó là lý do vì sao một số xã cấp GCN
QSDĐ đồng loạt để phân chia chi phí giữa các hộ gia đình. Nhóm nghiên cứu kiến nghị các
tỉnh và huyện nên sử dụng máy tính trong khảo sát địa chính bởi vì điều này cho phép việc
cập nhật bản đồ dễ dàng hơn. Hiện nay, các UBND thuê Trung tâm kỹ thuật của PĐC tỉnh
lập bản đồ đất đai, nhưng có lẽ chi phí sẽ thấp hơn và thời gian có thể nhanh hơn nếu việc
này được giao cho các công ty tư nhân. Hơn nữa, các PĐC không có đủ nhân lực được đào
tạo đầy đủ về khảo sát và đánh giá đất đai. Có 2 huyện chỉ ra rằng việc cấp GCN QSDĐ bị
chậm trễ là do sự yếu kém về năng lực của cán bộ địa chính xã và cũng do họ thiếu các
thiết bị để đo vẽ bản đồ. Vì thế, việc đào tạo về khảo sát, quy hoạch sử dụng đất, đánh giá
đất đai và tài sản gắn liền với đất cũng như quản lý đất đai nên được thực hiện đối với các
cán bộ địa chính ở mọi cấp để tăng cường năng lực quản lý đất.
Một trong những nhiệm vụ của quản lý đất đai là lập kế hoạch sử dụng đất và phân phối đất
nông nghiệp cho các hộ gia đình. Ở các huyện Khoái Châu và Quế Võ, hầu hết các xã đều
có quy hoạch sử dụng đất cho 10 năm. Ở huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, 5 trong số 11 xã đã
có quy hoạch sử dụng đất trong 10 năm. Quy hoạch sử dụng đất đưa ra các thông tin về
việc thành lập các khu công nghiệp, khu du lịch – thương mại, và phân bổ đất nông nghiệp
và đất ở cho các hộ gia đình. Tại huyện Văn Giang (Hưng Yên), việc thành lập khu du lịch –
67
thương mại rộng 500 hécta làm cho nhiều hộ gia đình mất một phần hoặc toàn bộ đất đai.
Quá trình đô thị hoá đã tạo nên mối lo cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết
nghề nghiệp cho người dân, do họ cần nhận được sự giúp đỡ để phát triển các ngành nghề
phi nông nghiệp.
Trong quá khứ, đất nông nghiệp được chia cho các hộ gia đình một cách công bằng dựa
vào độ màu mỡ của đất và khoảng cách từ nơi ở, và kết quả là các thửa ruộng của các hộ
có xu hướng bị manh mún. Mỗi hộ gia đình có thể có một số thửa ruộng khác nhau tại các
cánh đồng khác nhau. Điều này làm cho nhiều hộ gia đình gặp khó khăn trong việc sản xuất
nông nghiệp (38 hộ được khảo sát nói rằng các thửa ruộng ở quá xa so với nơi ở của họ).
Bình quân khoảng cách xa nhất giữa hai thửa ruộng sản xuất nông nghiệp của các hộ trong
khảo sát là 1.2 km. Hầu hết các hộ có hai thửa ruộng cách nhau khoảng 1 km.
Hình 20: Khoảng cách giữa các thửa ruộng
Ở huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, hơn một phần ba các thửa đất nông nghiệp có diện tich
nhỏ. Diện tích trung bình của mỗi thửa ruộng là 1 sào.8 Trung bình, mỗi hộ có 10 thửa
ruộng. Mặc dù huyện khuyến khích việc dồn thửa đổi ruộng, nhưng lại rất khó thực hiện ở
cấp xã do các hộ gia đình không đồng lòng. Sự manh mún của đất đai cũng là vấn đề
nghiêm trọng tại huyện Quế Võ.
Sự manh mún đất đai dẫn đến mong muốn được hợp nhất đất của 27 trong số 76 hộ. Trong
số những hộ chưa bao giờ cố gắng hợp nhất đất, có 4 hộ nói rằng do thủ tục để hợp nhất
đất đai quá phức tạp. Mặc dù tại tất cả các huyện được khảo sát đều khuyến khích các hộ
gia đình hợp nhất đất, có 3 hộ vẫn nói rằng họ không được phép làm điều đó. Hơn nữa, có
5 hộ thiếu thông tin về các thửa ruộng để hợp nhất.
Có một cách để các hộ hợp nhất đất đai là bán và mua đất trên thị trường. Một lựa chọn
khác là thuê và cho thuê đất. Tuy nhiên, giá đất rất đắt đối với các hộ gia đình nên rất khó
tìm được người sẵn sàng mua hay bán (hay thuê/cho thuê đất). Do đó, một chính sách tốt
hơn để giải quyết vấn đề này là đơn giản hoá các thủ tục hợp nhất và giao cho chính quyền
địa phương hỗ trợ quy trình hợp nhất đất.
Hai huyện Khoái Châu và Văn Giang của tỉnh Hưng Yên là những ví dụ thành công trong
việc hợp nhất đất đai. Số thửa ruộng trung bình của mỗi hộ gia đình ở Khoái Châu là 2.5
thửa và tổng số thửa ruộng giảm đi 53 phần trăm sau khi thực hiện dồn thửa đổi ruộng đồng
loạt trong huyện. Mỗi gia đình bây giờ có từ 1 đến 4 thửa ruộng và trên 80 phần trăm các
gia đình tham gia vào quy trình hợp nhất này. Ở huyện Văn Giang, tính đến tháng 7/2004,
8 1 sào bắc bộ = 360 m2
q82a
4900420035002800210014007000
Distance Between Plots (m)
68
90 phần trăm các hộ gia đình tham gia vào quy trình dồn thửa đổi ruộng. Những thành công
này có được nhờ vào sự nỗ lực to lớn của UBND và PĐC ở cấp huyện và xã. Việc hợp nhất
đất đai tại những nơi này được tiến hành sau khi có Chỉ thị số 16 và số 05 của Đảng uỷ tỉnh
và Thông tư số 34 của UBND tỉnh được ban hành.
Trong các khu vực khảo sát có một số trường hợp tranh chấp đất đai. Hầu hết các tranh
chấp này (70 phần trăm) có liên quan đến ranh giới đất (PĐC huyện Khoái Châu 2004, 3,
PĐC huyện Từ Sơn, và PĐC huyện Văn Giang). Các loại tranh chấp khác liên quan đến ngõ
đi và chủ sở hữu. Một số tranh chấp về chủ sở hữu xảy ra giữa các thành viên trong gia
đình, liên quan đến việc thừa kế đất từ bố mẹ cho con cái nhưng không đăng ký. Chưa có
trường hợp tranh chấp đất nông nghiệp nào được ghi nhận ở các huyện Khoái Châu, Văn
Giang, và Từ Sơn. Để giải quyết tranh chấp đất đai, các hộ gia đình nộp đơn lên chính
quyền xã. Cán bộ xã sau đó sẽ cố gắng hoà giải giữa các bên tranh chấp. Nếu không thành
công, đơn từ sẽ được chuyển lên cấp huyện giải quyết. PĐC huyện sau đó sẽ kiểm tra lại
đơn, viết báo cáo và kiến nghị cho UBND cách giải quyết. Một tổ công tác liên ngành bao
gồm các cán bộ phòng thanh tra, phòng địa chính, phòng tài chính, và đại diện các tổ chức
quần chúng sẽ được thành lập để giải quyết tranh chấp.
4.2 Chất lượng số liệu thị trường đất đai
Như đã đề cập ở Chương hai, việc kiểm tra sự chính xác các số liệu của thị trường đất đai
ở các hộ gia đình là rất khó khăn. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng đã ghi nhận được một
vài trường hợp có sự không trùng khớp giữa những điều ghi trong Sổ đỏ và thực tế.
Bảng 38: Sự chính xác của GCN QSDĐ
Tỉnh Bắc Ninh Hưng Yên
Huyện Quế Võ Từ Sơn Văn Giang Khoái Châu
Xã
Nam
Sơn
Văn
Dương
Châu
Khê
Đình
Bảng
Bình
Minh
Liên
Nghĩa
Mễ
Sở
Dạ
Trạch
Tổng
cộng
Khác chủ sở hữu 2 0 3 0 2 1 4 0 12
Khác diện tích đất 2 2 2 0 0 0 2 0 8
Khác mục đích sử dụng 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Có 12 trường hợp có sự sai khác về chủ sở hữu trong GCN QSDĐ. Trong số 12 trường hợp
này, có 4 hộ gia đình không đổi tên do tên chủ sở hữu trên GCN QSDĐ là của các thành
viên khác trong gia đình; có 3 hộ nói rằng họ không thay đổi tên do thấy chưa cần thiết; có 2
trường hợp nói rằng họ ngại mất chi phí đổi tên và một hộ không muốn đổi tên vì cả ba lý do
trên. Việc thiếu chính xác tên chủ sở hữu thường là nguyên nhân của việc không đăng ký lại
đất được chuyển dịch và thừa kế. Giống như các trường hợp ở Hộp 1 và Hộp 5, điều này có
thể dẫn đến những khiếu kiện khó giải quyết.
Không có trường hợp sai khác mục đích sử dụng đất nào được ghi nhận. Tuy nhiên, có 8 hộ
bị ghi sai diện tích đất. Ba hộ không thực hiện điều chỉnh vì họ không muốn trả thêm thuế;
hai hộ khác cảm thấy rằng thủ tục để thay đổi số liệu diện tích đất quá phức tạp. Ngoài ra,
do năng lực yếu kém của các cán bộ địa chính mà trong một vài trường hợp việc đo đạc
diện tích đất không chính xác. Như trường hợp của chị Hạnh ở Hộp 3, diện tích đất thực tế
của chị đã bị giảm 8 m2 mặc dù chị đã trả thêm phụ phí cho cán bộ địa chính để họ đo đạc
cẩn thận khi chị thực hiện giao dịch chuyển nhượng đất đai.
Như vậy, có một số trường hợp thông tin được ghi trên GCN QSDĐ không chính xác. Nhiều
trường hợp do kết quả của việc không đăng ký về việc chuyển dịch hay thừa kế giữa các
thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, vẫn còn một vài truờng hợp là do việc quản lý chất
lượng số liệu đất đai yếu kém của các cán bộ địa chính. Đối với một số hộ gia đình, cán bộ
69
chức trách ở xã và huyện đã cấp sai GCN QSDĐ cho người sử dụng đất. Báo cáo của Sở
TNMT tỉnh Bắc Ninh (2004, 9) và của PĐC huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên (2004, 3) cũng
chỉ ra những yếu kém này.
Ngoài ra, đối với trường hợp huyện Quế Võ, trên 90 phần trăm các thửa đất được ghi trong
bản đồ mới lớn hơn so với bản đồ cũ. Sự khác biệt này đôi khi dẫn tới việc khiếu kiện đất
đai giữa các hộ gia đình, đặc biệt là đối với ngõ đi chung giữa hai hộ.
Phần lớn, các thông tin trên Sổ đỏ là chính xác do các hộ gia đình mới chỉ nhận được chúng
gần đây sau khi có bản đồ và ban hành GCN QSDĐ. Hơn nữa, việc có ít trường hợp không
chính xác ở GCN QSDĐ có thể bị sai lệch do phương pháp lựa chọn các hộ gia đình. Các
cán bộ địa chính huyện/xã đã giới thiệu cho nhóm nghiên cứu các hộ gia đình được phỏng
vấn, do đó họ có thể tránh những hộ có “vấn đề” với GCN QSDĐ, đặc biệt là ở những hộ có
sự không chính xác do đo đạc sai.
Ngoài ra, việc thiếu hụt hệ thống máy tính cùng với sự gia tăng của các giao dịch đất đai có
thể dẫn đến việc làm tăng những khó khăn trong việc cấp GCN QSDĐ một cách chính xác
sau một vài năm nữa.
70
Chương 5 Sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn
Ở Việt Nam luật đất đai được áp dụng trên toàn quốc và được áp dụng chung cho cả vùng
nông thôn và thành thị và tất cả các quy trình giao dịch đất đai đều tương tự nhau. Dù vậy,
vẫn có một số khác biệt giữa thị trường đất đai của thành phố và nông thôn.
Đất đai ở vùng đô thị đắt hơn nhiều lần so với đất đai ở vùng nông thôn, vì thế, ở đô thị
người nghèo hầu hết là người bán. Giá cả đất đai ở vùng đô thị phụ thuộc rất lớn vào vị trí
của mảnh đất, lấy ví dụ, các mảnh đất ở gần các mặt đường chính hay các trung tâm buôn
bán có giá đắt hơn nhiều. Những người đi mua đất hầu hết là những người ở tầng lớp giàu
có hơn và rất đông trong số họ đến từ các địa phương khác. Do đó, thị trường đất đai ở
vùng đô thị sôi động và phức tạp hơn so với vùng nông thôn. Kết quả là có nhiều người
tham gia vào thị trường đất đai ở vùng đô thị hơn là ở vùng nông thôn.
Quy hoạch sử dụng đất ở vùng đô thị thường chặt chẽ hơn ở vùng nông thôn. Vì thế, những
người mua đất ở vùng đô thị thường chú ý đến vị trí đất và quy hoạch sử dụng đất dài hạn
của thành phố. Những thông tin này có lẽ không mấy quan trọng đối với thị trường đất đai
nông thôn. Thêm vào đó, thông tin về thị trường đất đai ở vùng đô thị luôn được cập nhật
trong khi ở vùng nông thôn thường thiếu thông tin về thị trường đất đai.
Do đất đô thị có giá trị cao nên nhiều người tham gia vào thị trường đất đai ở vùng đô thị am
hiểu hơn và muốn có được GCN QSDĐ. Vì thế, thị trường chính thức ở vùng đô thị dường
như lớn hơn ở vùng nông thôn, cụ thể là khi Luật đất đai mới có hiệu lực.
Diện tích đất đô thị đang mở rộng nhanh chóng do sự di cư và phát triển các khu công
nghiệp. Kết quả là, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở các khu đô thị và ngoại ô cao
hơn nhiều so với nông thôn. Việc cập nhật những thông tin địa chính ở vùng đô thị cũng tốt
hơn ở vùng nông thôn (và chất lượng quản lý thị trường đất đai ở đô thị cũng tốt hơn).
Song, thị trường đất đai ở đô thị và nông thôn vẫn có rất nhiều điểm chung, vì thế chúng ta
có thể áp dụng các kết quả nghiên cứu thị trường đất đai ở vùng nông thôn cho vùng đô thị.
Ở vùng đô thị và vùng nông thôn đều tồn tại hai thị trường đất đai chính thức và không
chính thức với cùng những lý do như nhau. Tất cả các loại giao dịch đất đai và quy trình
giao dịch đất đai đều giống nhau ngoại trừ một số sai khác nhỏ (ví dụ như về thời gian và
chi phí). Có sự khác biệt đáng kể trong việc quản lý đất đai là sự phân quyền từ cấp tỉnh
xuống cấp huyện ở vùng nông thôn. Chính điều này đã làm đẩy nhanh tốc độ của quy trình
cấp GCN QSDĐ và nên được thực hiện ở vùng đô thị. Quy trình lập hồ sơ xin cấp GCN
QSDĐ đều như nhau ở cả vùng đô thị lẫn nông thôn nhưng đa số việc cấp GCN QSDĐ
hàng loạt thường diễn ra ở vùng nông thôn.
Chính sách tuyển dụng cán bộ ở các PĐC gần đây đã được chú ý đặc biệt do thiếu cán bộ
biên chế. Việc quản lý thị trường đất đai ở vùng đô thị phức tạp và chặt chẽ hơn so với vùng
nông thôn. Đất đai càng có giá trị thì càng có nhiều động lực để có nhiều người đầu cơ vào
đất đai. Sự đầu cơ đất đai xuất phát từ vùng đô thị, tác động tràn vào cả vùng nông thôn, và
trong một chừng mực nào đó làm ảnh hưởng đến thị trường đất đai nông thôn.
Mặc dù người nghèo được lợi từ quyền được bán hay thế chấp đất đai, nhưng việc không
có đất đặt họ vào tình thế rủi ro hơn và làm cho họ dễ bị tổn thương hơn. Hậu quả có thể trở
nên rõ ràng hơn nếu việc đào tạo nghề hay một số loại bảo hiểm xã hội không được thực
hiện, đặc biệt đối với những hộ nông dân nghèo mà nguồn thu nhập chính của họ lại dựa
vào các hoạt động nông nghiệp. Họ có thể sử dụng đất đai của họ như là một tài sản để bán
hay thế chấp.
71
Chương 6 Kết luận và khuyến nghị
Mục tiêu dự án này là làm cho các quy trình giao dịch trên thị trường đất đai trở nên phù
hợp và hiệu quả hơn đối với người nghèo và hiểu được tại sao các hộ gia đình chọn tham
gia vào thị trường không chính thức thay vì thị trường chính thức. Từ việc phỏng vấn các hộ
gia đình, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các giao dịch đều được thực hiện ở thị trường
chính thức. Chỉ có một phần ba các giao dịch được thực hiện ở thị trường không chính
thức, điều này có thể do thực tế là các cán bộ địa chính xã đã giúp đỡ chọn những hộ để
phỏng vấn. Một số loại giao dịch như thuê/cho thuê đất được thực hiện ở thị trường không
chính thức; song chính quyền cho phép các giao dịch này diễn ra giữa các hộ gia đình vì có
thời hạn thuê/cho thuê ngắn.
Tình hình thị trường đất đai ở vùng nông thôn mỗi nơi một khác nhau. Tại rất nhiều nơi, đặc
biệt là ở vùng nông thôn nơi có thị trường đất đai biệt lập, ở các vùng xa xôi, hay vùng nằm
cách xa thành phố thì thị trường đất đai bị hạn chế cả về mặt số lượng (có ít người tham
gia) và chất lượng (liên hệ với kết quả của khảo sát thực nghiệm).
Phần lớn các thủ tục mua bán đất và thế chấp đất đều rõ ràng và đơn giản. Vì thế nhiều hộ
gia đình được phỏng vấn có thể tham gia vào thị trường chính thức. Dù vậy thủ tục cấp
GCN QSDĐ và chuyển dịch đất đai vẫn còn có thể gọn và đơn giản hơn. Việc kiểm tra và
thẩm định các mảnh đất được thực hiện hai lần ở cấp xã và cấp huyện để cấp GCN QSDĐ
và xác nhận việc chuyển dịch đất đai. Quy trình này nên được thực hiện một lần bởi cấp xã
hoặc cấp huyện, và các cơ quan có liên quan nên chấp nhận kết quả thẩm định đó. Việc cấp
GCN QSDĐ và thay đổi thông tin do có sự chuyển dịch đất đai được ghi hai lần ở cả hai
PĐC huyện và xã. Các bước kéo dài này có thể được rút ngắn và cải thiện được tính chính
xác nếu sử đụng hệ thống máy tính nối mạng. Ngoài ra, để thực hiện chuyển dịch đất đai,
các bên chuyển nhượng phải làm việc với rất nhiều người, bao gồm cán bộ địa chính xã,
cán bộ địa chính huyện, và cán bộ thuế, tốn rất nhiều thời gian và công sức của các hộ gia
đình (đôi khi còn tốn cả các chi phí không chính thức). Cơ chế một cửa nên được thiết lập ở
cấp xã để làm giảm bớt các thủ tục giao dịch đất đai cho các hộ gia đình.
Các hộ gia đình cảm thấy sự cần thiết phải có quyền hợp pháp đối với đất đai vì vậy nhiều
người sẵn sàng trả các chi phí. Mặc dù các quy trình đòi hỏi hơn 20 bước thực hiện, các
cán bộ chính quyền địa phương đã giúp đỡ các hộ gia đình trong quy trình. Sự trợ giúp này
có thể đòi hỏi một vài chi phí không chính thức, đặc biệt đối với các mảnh đất có tranh chấp,
gia đình khá giả, hay các mảnh đất có giá cao. Một giải pháp là hợp pháp hoá các loại phí
này. Cán bộ địa chính có thể nhận tiền hoa hồng cho việc thực hiện các chuyển dịch đất đai,
cũng như đối với cán bộ ngân hàng cho việc thế chấp đất đai. Các chi phí trợ giúp hợp lý và
phí đẩy nhanh thủ tục có thể được đặt ra và niêm yết công khai giúp cho các hộ gia đình
biết được họ không cần phải trả thêm bất cứ một phụ phí nào nữa. Bằng cách chính thức
hoá các chi phí không chính thức có thể giảm đáng kể các khoản chi không chính thức trong
các chuyển dịch đất đai.
Điều không thuận lợi của việc chính thức hoá các loại phí không chính thức có lẽ là sự loại
trừ các hộ nghèo. Các chi phí dịch vụ đối với người nghèo cần phải hợp lý để họ có khả
năng thanh toán vì họ cần được trợ giúp để làm được các công việc giấy tờ cũng bằng hoặc
thậm chí nhiều hơn so với các hộ khác. Nếu một hộ được chính quyền xã phân loại là hộ
nghèo thì hộ đó có thể được miễn các loại phí thực hiện thủ tục. Điều này sẽ cho phép các
hộ nghèo tham gia vào thị trường chính thức. Nếu không thể đặt ra phí chính thức đối với
một thủ tục nào đó, cần có biện pháp phạt các cán bộ đòi hỏi hay nhận các khoản tiền
không chính thức, hay thậm chí cả các hộ đề nghị đút lót, để ngăn chặn tình trạng này.
72
Một giải pháp khác để xoá bỏ nạn đưa phong bì là mở rộng dịch vụ khảo sát đất đai và đo
vẽ bản đồ cho các đơn vị khác. Các công ty tư nhân có thể đảm trách việc đo đạc, vẽ bản
đồ, định giá đất. Khi có nhiều sự cạnh tranh, các loại phí dịch vụ trở nên thấp hơn và thời
gian sẽ được rút ngắn hơn. Dù vậy, có khả năng các hộ gia đình thực hiện thủ tục thông
qua công ty tư nhân thay vì PĐC hay ngân hàng bị cơ quan chính quyền trì hoãn việc phê
duyệt giấy tờ đơn, và có thể kết quả là phải có tiền hối lộ cho các cán bộ để họ ký và đóng
dấu hồ sơ. Một lý do khác để đưa tư nhân vào cạnh tranh là nhiều cán bộ quản lý đất đai
không có đủ kiến thức hay năng lực để quản lý và kiểm tra đất đai để cấp GCN QSDĐ hay
thực hiện các thủ tục giao dịch. Cho dù thị trường có mở ra cho các công ty tư nhân hay
không, việc đào tạo về khảo sát đất đai, quy hoạch sử dụng đẩt, định giá đất và tài sản gắn
liền với đất và quản lý đất đai cần được thực hiện đối với các cán bộ địa chính ở mọi cấp để
nâng cao năng lực quản lý đất đai.
Người dân cần phải nhận thức rõ các thủ tục giao dịch đất đai. Từ khảo sát cho thấy, có
nhiều hộ gia đình biết về các thủ tục chỉ vì họ đã trải qua quy trình này. Tuy nhiên, do chỉ có
các hộ đã tham gia giao dịch đất đai mới được phỏng vấn, các hộ không tham gia vào thị
trường đất đai có lẽ không có nhận thức về các thủ tục cũng như sự trợ giúp có được từ
chính quyền địa phương. Ở một huyện có một bảng tin của PĐC huyện niêm yết các bước
để được cấp GCN QSDĐ và thực hiện các giao dịch đất đai đặt tại tiền sảnh, nhưng các
bước này chỉ dành cho các doanh nghiệp và các công ty. Các bảng thông tin tương tự cũng
có thể đặt tại cấp huyện và cấp xã dành cho các hộ gia đình. Theo đó thì các bước của thủ
tục, chi phí, thời gian có thể được ghi rõ để các hộ gia đình có thể nhận biết các thủ tục cần
thiết để xin cấp GCN QSDĐ và thực hiện các giao dịch đất đai, nhờ thế họ có thể tham gia
vào thị trường chính thức.
Các thủ tục cần thiết để cấp GCN QSDĐ vẫn còn dài và phức tạp với nhiều bước và nhiều
người tham gia. Nếu đất đai có lịch sử rõ ràng, không có sự tranh chấp, và không có vấn đề
gì liên quan đến quy hoạch sử dụng đất, thì việc cấp GCN QSDĐ nên được thực hiện trong
một thời gian ngắn. Để cấp GCN QSDĐ đồng loạt cần tới 27 bước là quá nhiều. Có 21
bước thủ tục để được cấp GCN QSDĐ riêng lẻ, ít hơn số bước của thủ tục cấp đồng loạt.
Tuy nhiên, các thủ tục để cấp GCN QSDĐ riêng lẻ chỉ có thể thực hiện được khi các vấn đề
về bản đồ đất đai đã được giải quyết. Nếu đất đai chưa được vẽ bản đồ, và trước đây cũng
chưa có việc cấp GCN QSDĐ đồng loạt ở địa phương thì việc cấp GCN QSDĐ riêng lẻ hầu
như không thể thực hiện được. Nguyên nhân chính là cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Kỹ
thuật tỉnh không thực hiện đo vẽ bản đồ cho một thửa đất riêng lẻ, có thể là do chi phí quá
cao đối với một hộ riêng lẻ hoặc do các hộ gia đình không biết để yêu cầu dịch vụ. Đối với
đất đã được vẽ bản đồ, thời gian của quy trình lại phụ thuộc vào các chi phí không chính
thức. Thực tế trong khảo sát không nhận thấy có trường hợp cấp GCN QSDĐ từ đầu nào
cho một hộ riêng lẻ.
Chính quyền địa phương nên chịu trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề này khi cấp GCN
QSDĐ. Với việc thực hiện luật đất đai mới, hi vọng rằng việc cấp GCN QSDĐ sẽ nhanh
chóng và hiệu quả, với điều kiện là chính phủ và các địa phương xem vấn đề cấp GCN
QSDĐ là việc ưu tiên.
Các hộ gia đình tham gia vào thị trường không chính thức với một số lý do. Một nguyên
nhân là mảnh đất được chuyển nhượng không có GCN QSDĐ hay giấy tờ hợp pháp nào và
chủ hộ không thể khai báo với người có thẩm quyền về việc giao dịch. Nếu chủ hộ quyết
định khai báo với cấp có thẩm quyền về việc giao dịch, các thủ tục hợp pháp sẽ trở nên rất
phức tạp, các giấy tờ đất đai phải được UBND xã xác nhận một cách cẩn thận, cho phép họ
xác định được mảnh đất đó thuộc về ai, cũng như về bản đồ và diện tích đất. Kể cả các hộ
có giấy tờ hợp pháp vẫn phải tuân theo các bước như vậy, nếu không có giấy tờ, quy trình
sẽ mất thời gian hơn rất nhiều. Vì thế nhiều hộ gia đình chọn không đi theo con đường
chính thức. Với trường hợp đất không có giấy tờ hợp pháp, cần phải có một quy định về thủ
tục chuyển nhượng riêng được niêm yết công khai để chính quyền địa phương biết phải làm
73
gì, và các hộ không có giấy tờ hợp pháp biết họ vẫn có thể khai báo với người có thẩm
quyền ở địa phương về việc giao dịch. Ngoài ra, việc cấp GCN QSDĐ là rất quan trọng để
khuyến khích các quy trình của thị trường chính thức. Sự tiếp cận thị trường đất đai chính
thức đối với nhiều người có thể bị cản trở vì họ không có GCN QSDĐ.
Một lý do chủ yếu khác để các giao dịch không chính thức diễn ra là các loại thuế liên quan
đến việc chuyển nhượng đất. Một cán bộ địa chính huyện đề xuất rằng khung giá đất để xác
định mức thuế phải được niêm yết tại PĐC huyện và phòng thuế để mọi người đều biết
được mức giá. Điều này có thể làm giảm việc định giá đất và các khoản thuế tuỳ tiện và nhờ
đó khuyến khích mọi người thực hiện các giao dịch chính thức.
Nhiều người ở vùng nông thôn thiếu thông tin về thị trường đất đai; nhiều người trong số họ
thậm chí không có đủ kiến thức về luật đất đai để cho phép họ tham gia vào hệ thống thị
trường nhà đất. Việc đào tạo cần được thực hiện và một hệ thống tin về thị trường đất đai
cần được thiết lập ở vùng nông thôn.
Trong suốt quá trình khảo sát, những người có thẩm quyền ở xã đã có những hiểu biết chi
tiết về thị trường đất đai. Họ biết các giao dịch nào xuất hiện giữa các hộ gia đình, hộ nào có
GCN QSDĐ và hộ nào đã thế chấp đất. Tuy nhiên một hệ thống quản lý đất đai bằng máy
tính có thể cho phép xã và huyện truy cập, lưu trữ và thay đổi thông tin một cách dễ dàng về
các hộ và bản đồ địa chính.
Tóm lại, các thủ tục giao dịch trong nghiên cứu này dường như không quá phức tạp. Các hộ
gia đình tham gia vào thị trường không chính thức không phải lúc nào cũng do các thủ tục
phức tạp như là việc chậm trễ trong khảo sát đất đai, mà còn bởi vì các nguyên nhân khác
như là thiếu GCN QSDĐ, giao dịch diễn ra trong gia đình hay họ hàng, hay bởi vì họ cảm
thấy không cần thiết phải khai báo với chính quyền. Bởi vì các thủ tục giao dịch đất đai khá
đơn giản, các bước, chi phí, thời gian được phổ biến rộng rãi sẽ khuyến khích thị trường
quyền sử dụng đất đai trở nên sôi động hơn.
74
Phụ lục: Các mẫu trong quy trình thực hiện thủ tục nhà đất
1. Cấp GCN QSDĐ
A. Đơn Xin Đăng Ký Quyền Sử Dụng Đất
B. Hồ Sơ Thửa Đất
C. Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất
2. Mua bán đất
D. Đơn Xin Đăng Ký Biến Động Đất Đai
E. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất
F. Biên Bản Họp Gia Đình
G. Biên Bản V/V Thẩm Định Hồ Sơ Chuyển Nhượng QSD Đất
H. Biên Bản Thẩm Tra Hồ Sơ Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất
I. Tờ Khai Lệ Phí Trước Bạ
J. Tờ Khai Nộp Thuế Chuyển Quyền
K. Quyết Định của Uỷ Ban Nhân Dân Huyện V/v Chuyển Nhượng và Cấp GCN QSD
Đất
3. Thuê/cho thuê đất
L. Đơn Xin Thuê Đất
M. Hợp Đồng Thuê Đất
4. Thế chấp đất
N. Giấy Đề Nghị Kiêm Phương Án Vay Vốn
O. Đơn Yêu Cầu Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất, Tài Sản Gắn Liền Với Đất
P. Biên Bản Xác Định Giá Trị Tài Sản Bảo Đảm
Q. Đơn Yêu Cầu Đăng Ký Bảo Lãnh Quyền Sử Dụng Đất, Tài Sản Gắn Liền Với Đất
R. Hợp Đồng Thế Chấp Quyền Sử Dụng Đất, Tài Sản Gắn Liền Với Đất
S. Hợp Đồng Tín Dụng
75
Tài liệu tham khảo
Bộ LĐTBXH – Trung tâm Thống kê Thông tin về Lao động và Xã hội, 2002. Số liệu Thống
kê Lao động - Nghề nghiệp ở Việt Nam 1996-2000. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao
động – Xã hội.
Công ty Tài chính Quốc tế, 2004. Phân tích Các vấn đề Quản lý và Đăng ký Đất đai ở Việt
Nam. Hà Nội: Nhóm Tư vấn ERU.
De Soto, Hernando, 2000. Bí mật của tư bản: Tại sao chủ nghĩa tư bản thắng thế ở phương
tây nhưng lại thất bại ở những nơi khác. New York: Sách cơ bản.
Đỗ Quý Toàn và Laskhmi Iyer, 2003. “Quyền sử dụng đất và phát triển kinh tế: Bằng chứng
từ Việt Nam”. Nghiên cứu của Ngân Hàng Thế Giới 3120.
FAO, 2002. Các nghiên cứu về quyền sở hữu đất.
Luật Đất Đai 1993.
Luật Đất Đai số 13/2003/QH11.
Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, 2003. Tạo Thị Trường Tốt Hơn Cho Người Nghèo: Tài liệu
Hội Thảo Khởi Động tháng 11, 2003. Hà Nội: ADB.
Ngân Hàng Thế Giới, 2003. Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004: Đói nghèo. Báo cáo của
nhóm các nhà tài trợ cho cuộc Họp Nhóm Tư vấn Việt Nam, Hà Nội, 2-3 tháng 12,
2003. Hà Nội: Ngân Hàng Thế Giới.
Nguyễn Đình Cung và các cộng sự, 2004. Lịch sử hay chính sách: Tại sao các tỉnh phía bắc
không tăng trưởng nhanh hơn?. Hà Nội: UNDP.
Phạm Trúc Chi và các cộng sự, 2004. ”Tiếp cận các nguồn lực: Trường hợp nghiên cứu các
hộ gia đình nông thôn Việt Nam.” Hà Nội: Công ty Tư vấn Kinh tế Mêkông.
PĐC huyện Khoái Châu, 2004. Tổng hợp Kết quả Dồn thửa Đổi ruộng Đất nông nghiệp.
Phòng Giao thông – Xây dựng - Địa chính huyện Từ Sơn, 2002. Tổng hợp kết quả Cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ở huyện Từ Sơn tính đến ngày 31/12/2002.
Tổ công tác Vẽ bản đồ Nghèo Liên bộ, 2003. Nghèo đói và Bất bình đẳng ở Việt Nam: Mẫu
không gian và Các nhân tố địa lý. Hà Nội: Viện nghiên cứu Chính sách Thực phẩm
Quốc tế và Viện nghiên cứu Phát triển.
Tổng cục Địa chính, 2001. Thông tư số 2074/TT-TCĐC ngày 14/12/2001 Hướng dẫn trình
tự lập, xét duyệt hồ sơ xin giao đất, thuê đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong nước.
Tổng cục Thống kê, 2003. Kết quả Tổng khảo sát Nông thôn, Nông nghiệp, Thuỷ sản. Hà
Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
_______, 2004a. Kết quả Khảo sát Thu nhập và Chi tiêu Hộ gia đình 2002. Hà Nội: Nhà xuất
bản Thống kê.
76
_______, 2004b. Niên giám Thống kê 2002. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Trần Hoàng Kim, 2002. Tư liệu kinh tế xã hội 631 huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thống Kê.
UBND huyện Khoái Châu – PĐC, 2004. Báo cáo Kết quả công tác năm 2003 – 6 tháng đầu
năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2004.
UBND huyện Quế Võ, 2004. Quyết định số 1163/QD-UB ngày 7/72004.
UBND huyện Từ Sơn – PĐC, 2003. Thống kê Đất đai đến ngày 1/10/2003.
UBND huyện Từ Sơn – Phòng Giao thông – Xây dựng - Địa chính, 2002. Báo cáo kết quả
công tác giao thông, xây dựng, địa chính năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ
năm 2003. 6/12/2002.
_______, 2003a. Thống kê việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2002.
_______, 2003b. Báo cáo số 191/BC-GTXDĐC Kết quả công tác Địa chính – Giao thông –
Xây dựng năm 2003 ngày 30/11/2003.
UBND huyện Văn Giang – PĐC, 2004. Báo cáo số 79/BC-ĐC về tình hình cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất huyện Văn Giang ngày 14/7/2004.
UBND tỉnh Bắc Ninh, 2003. Quyết định số 137/2003/QĐ-UB.
_______, 2004a. Quyết định số 69/2004/QĐ-UB ngày 20/5/2004 V/v ban hành quy định
khung giá các loại đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
_______, 2004b. trích ngày 5/7/2004.
UBND tỉnh Bắc Ninh - Sở Tài Nguyên Môi Trường, 2004. Báo cáo kết quả công tác 6 tháng
đầu năm, phương hướng nhiệm vụ công tác 6 tháng cuối năm 2004. Ngày 1
/7/2004.
UBND tỉnh Hưng Yên, 2004. trích ngày 5/7/2004.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MKE Impact of Land Market Processes on the Poor VN.pdf