Báo cáo ca lâm sàng: Tắc mạch não nghịch thường trong phẫu thuật thay khớp háng
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Chẩn đoán TMNNT cần xem xét trong
trường hợp VTE, shunt phải-trái (còn lỗ bầu
dục), và thuyên tắc động mạch không có bằng
chứng từ tim trái. Bn bị VTE sau mổ, đặc biệt
PE rộng cần theo dõi khả năng gây tắc mạch
não và hệ thống. Bn bị nhồi máu não sau mổ
phải đánh giá có phải do huyết khối thuyên
tắc, vì huyết khối ban đầu này có thể là nguồn
gốc tiềm ẩn gây tắc mạch chết người.
Điều trị khởi đầu tích cực bao gồm chống
đông với Heparin theo sau với Warfarin (nếu
không có chống chỉ định) trong 3-6 tháng để
phòng ngừa sự lan rộng của huyết khối. Phễu lọc
tĩnh mạch chủ có thể sử dụng nếu liệu pháp
kháng đông bị chống chỉ định. Dụng cụ này cũng
được khuyến cáo cho Bn có lỗ thông tim lớn(5).
Mổ đóng lỗ bầu dục được khuyến cáo cho Bn có
lỗ thông lớn hoặc tăng áp nhĩ phải mãn tính(1,3).
Tuy nhiên, nếu tăng áp nhĩ phải liên quan tới
biến cố cấp tính như PE thì không cóchỉ định.
Lựa chọn ít xâm lấn hơn là can thiệp qua da đóng
lỗ thông bằng dù đôi(3).
Dự phòng kháng đông trước mổcó thể giảm
biến chứng sau phẫu thuật thay khớp. Phác đồ
chống đông hoặc chống ngưng tập tiểu cầu dài
hạn được nhiều tác giả khuyến cáo(1,5), đặc biệt
trên Bn có yếu tố nguy cơ dài hạn (như tình trạng
tăng đông) bị DVT. Điều trị dự phòng ngắn hạn
Heparin làm giảm có ý nghĩa tỉ lệ mới mắc của
PE chết người và tử vong chung(12). Nhiều
nghiên cứu gần đây cho thấy Fondaparinuxức
chế chọn lọc yếu tố Xa hiệu quả hơn hẳn
Enoxaparin trong dự phòng VTE sau phẫu thuật
chỉnh hình. Một phân tích gộp 4 thử nghiệm
lâm sàng pha III trong phẫu thuật khớp háng và
gối ghi nhận Fondaparinux giảm 55% nguy cơ
VTE so với Enoxaparin(12)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo ca lâm sàng: Tắc mạch não nghịch thường trong phẫu thuật thay khớp háng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 109
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG: TẮC MẠCH NÃO NGHỊCH THƯỜNG TRONG 
PHẪU THUẬT THAY KHỚP HÁNG 
Nguyễn Ngọc Anh*, Lê Hoàng Quân* 
TÓM TẮT 
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch vẫn là nguyên nhân quan trọng gây biến chứng và tử vong trong phẫu 
thuật chỉnh hình lớn. Tỉ lệ huyết khối tĩnh mạch sâu sau mổ khoảng 40-60% Bn không điều trị dự phòng. Trong 
đó, 0,1- 7,5% Bn sẽ bị thuyên tắc phổi chết người. Tuy nhiên, TBMN hiếm gặp sau phẫu thuật này. Thuyên tắc 
não nghịch thường do huyết khối tĩnh mạch đi qua shunt trong tim (vd còn lỗ bầu dục) hoặc shunt trong phổi vào 
tuần hoàn hệ thống gây thuyên tắc là thể bệnh hiếm gặp và khả năng chẩn đoán sót cao. Chúng tôi báo cáo 1 
trường hợp tắc mạch não nghịch thường và kèm theo thuyên tắc phổi trong mổ thay khớp háng. 
Ca lâm sàng: Bn nữ 68 tuổi không có tiền sử bệnh lý và không điều trị kháng đông dự phòng. Bn được mổ 
thay khớp háng với phương pháp vô cảm tê ngoài màng cứng. Cuối cuộc mổ, tình trạng Bn đột ngột xấu đi với 
giảm oxy máu, tụt HA và rơi vào hôn mê. CT scan cản quang não với hình ảnh nhồi máu não diện rộng 2 bán 
cầu do tắc động mạch não trước, giữa và sau 2 bên. CT scan cản quang ngực với hình ảnh huyết khối thuyên tắc 
hoàn toàn động mạch phổi phải và nhánh nuôi thùy dưới động mạch phổi trái. Bn được đưa về nhà theo yêu cầu 
của gia đình trong tình trạng quá nặng sau 2 ngày điều trị tích cực. 
Kết luận: Tắc mạch não nghịch thường kèm theo thuyên tắc phổi là 1 biến chứng nặng và hiếm gặp trong 
mổ thay khớp háng. Cần tầm soát thường quy các Bn trước mổ (bao gồm siêu âm tim, khám tim mạch). Đặc 
biệt, trên Bn lớn tuổi, có nhiều bệnh nặng đi kèm, dự trữ tim phổi kém.Theo dõi sát trong và sau mổ để phát hiện 
và xử lý kịp thời. 
Từ khóa: tắc mạch nghịch thường, thay khớp háng 
ABSTRACT 
INTRAOPERATIVE FATAL PARADOXICAL CEREBRAL EMBOLISM DURING TOTAL HIP 
ARTHROPLASTY: CLINICAL CASE REPORT 
Nguyen Ngoc Anh, Le Hoang Quan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 109 - 115 
Thromboembolism is a frequent complication following major orthopedic operations, particularly in hip and 
knee replacement surgeries. The rate of post-operative deep vein thrombosis is 40% - 60% in patients without 
prophylaxis, and 0.1% - 7.5% will suffer from fatal pulmonary embolism. However, cerebrovascular accidents are 
less commonly seen post-operatively. Paradoxical embolism due to venous thrombus enter the systemic circulation 
through a right-to-left shunt (such as a patent foramen ovale) or through pulmonary circulation is an even rarer 
entity. We report a case of a fatal paradoxical cerebral embolism and a concomitant pulmonary embolism during 
total hip arthroplasty. 
Case report: A 68 year old woman had no special medical history and no prophylaxis therapy underwent 
total hip arthroplasty under epidural anesthesia. In the end stage of the procedure, patient’s condition worsened 
with suddenly hypoxemia, hypotension and fall in coma. The contrast CT scan of brain presented a widen cerebral 
infraction image with bilateral embolism of anterior, middle and posterior cerebral arteries. The contrast CT scan 
* Bệnh viện 115 - TP. HCM 
Tác giả liên lạc: Bs Nguyễn Ngọc Anh ĐT: 0913673735 Email: anhnguyengoc115@yahoo.com - 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 110
of lung showed the complete embolism in right pulmonary artery and left inferior pulmonary artery. This patient 
was transferred to her home as family’s order due to uncured state after 2 days in ICU. 
Discussion: Most thrombi that cause embolic stroke originate in the heart or arise from atherothrombotic 
lesions in the aorta, the carotid artery, or the vertebrobasilar system. However, the emboli (include fat and air 
bubbles) that arise during total hip arthroplasty may enter the systemic circulation via a patent foramen ovale or 
through pulmonary circulation. This syndrome known as paradoxical embolization is a rare and potentially 
underdiagnosed. 
Conclusion: Routine preoperative screening (include cardiac echocardiography, cardiologist assessment, etc) 
is required especially in patient population with advance in age, multiple severe co-morbidities and lesser pre-
operative cardio-respiratory and vascular reserve. 
Key words: paradoxical cerebral embolism, hip arthroplasty 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hơn 2 triệu dân Mỹ và Châu Âu trải qua 
phẫu thuậtchỉnh hình lớn hàng năm. Số lượng 
phẫu thuật mỗi năm mỗi gia tăng, dự đoán tăng 
25-35% trong 30 năm tới(1). Trong đó, số bệnh 
nhân (BN) mổkhớp háng dự kiến tăng gấp 3 lần 
(2030-2050). 
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch( VTE) vẫn 
là nguyên nhân quan trọng gây biến chứng và 
tử vong trong phẫu thuật chỉnh hình lớn. Hơn 
600.000 ca bị biến chứng và 296.000 ca chết mỗi 
năm ở Mỹ(1). Nguy cơ VTE cao nhất ở Bn chịu 
cuộc mổ lớn, đặc biệt là thay khớp háng và gối. 
Chụp tĩnh mạch cản quang sau mổ phát hiện 
huyết khối tĩnh mạch sâu(DVT) trên 40-60% Bn 
không điều trị dự phòng. Trong đó, 0,1- 7,5% Bn 
sẽ bị thuyên tắc phổi(PE) nguy hiểm tính 
mạng(1). 
Tuy nhiên, TBMN hiếm gặp sau phẫu thuật 
này. Tỷ lệ mắc bệnh được báo cáo trong y văn 
khoảng 0.08% (20/24.641 ca), cao nhất là 1,1% 
(4/354 ca, ở nhóm Bn>60 tuổi)(8). Thuyên tắc 
nghịch thường này do huyết khối tĩnh mạch đi 
qua shunt trong tim (vd còn lỗ bầu dục) hoặc 
shunt trong phổi vào tuần hoàn hệ thống, đây là 
thể bệnhhiếm gặp và khả năng chẩn đoán sót cao (10). 
Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp tắc mạch não 
nghịch thường và kèm theo thuyên tắc phổi 
trongmổthay khớp háng. 
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG 
Bệnh nhân nữ, 68 tuổi được mổ thay khớp 
háng (T) tại bệnh viện tuyến trước với phương 
pháp vô cảm tê ngoài màng cứng. 
Hình 1: ECG với nhịp tim nhanh 160 l/p khả năng 
nhịp bộ nối tăng tốc hoặc nhịp nhĩ thấp (sóng P đi sau 
QRS). Blốc nhánh (P) không hoàn toàn. Ghi nhận Q 
ở DIII, T đảo ngược DII, DIII, aVF 
Siêu âm tim tại giường: không ghi nhận bất 
thường. EF = 62%. Không tăng áp phổi 
(PAPs=30 mmHg). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 111
Hình 2: CT scan sọ nãovới giảm đậm độ toàn bộ 2 bán 
cầu não thuộc vùng chi phối đm não trước, giữa và sau 
2 bên 
Hình 3: CT scan sọ nãovới huyết khối trong động 
mạch não giữa với dấu hiệu tăng quang trên CT (dấu 
mũi tên) 
Hình 4: CT scan sọ nãovới giảm đậm độ thân 
não và 2 bán cầu tiểu não (dấu mũi tên) 
Hình 5: CT cản quang phổivới huyết khối trong đm phổi (P) 
gây tắc gần như hoàn toàn đm phổi (P) và các nhánh (dấu mũi 
tên) 
Cuối cuộc mổ, Bn khó thở, SpO2 ↓60%, tụt 
HA, ý thức giảm dần. Được xử trí đặt NKQ, thở 
máy, thuốc vận mạch và chuyển đến BV 115. Bn 
không có tiền sử dùng thuốc hay bệnh lí gì đặc 
biệt và không điều trị dự phòng kháng đông 
trước mổ. Bn nhập viện trong tình trạng mê sâu, 
GCS 3 điểm. Đồng tử 2 bên 2mm, PXAS(-). Thở 
máy qua NKQ với PEEP 10 cmH2O, FiO2 100% 
nhưng SpO2 không cải thiện. M = 106 l/p, HA = 
119/84 mmHg (Đang duy trì 2 vận mạch liều 
cao). Nhiễm toan hô hấp với PH: 7.26, PaCO2: 
48mmHg, PaO2: 51 mmHg, HCO3-: 22,9 
mmol/L. CKMB: 53 U/L. Troponin-I: 0,936 
ng/ml. D-dimer: 18,55 mcg/ml. XN khác trong 
giới hạn bình thường. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 112
Sau điều trị 2 ngày tình trạng Bn nặng hơn: 
mê sâu, Glasgow 3 điểm, giãn đồng tử 2 bên tối 
đa, PXAS(-), mất phản xạ mắt búp bê dọc ngang, 
huyết áp không đo được dù đang dùng thuốc 
vận mạch liều rất cao  người nhà xin đưa về 
Hình 6: CT cản quang phổivới huyết khối động mạch 
phổi (T) gây hẹp nhánh chi phối cho thùy dưới phổi 
(T) (dấu mũi tên) 
Chẩn đoán ra viện 
NMN cấp diện rộng 2 bán cầu thuộc vùng 
chi phối đm não trước, giữa và sau 2 bên. NMN 
cấp thân não và bán cầu tiểu não 2 bên. 
Thuyên tắc phổi ác tính (massive PE). 
Hậu phẫu mổ thay khớp háng (T) ngày 3. 
BÀN LUẬN 
Cohnheim lần đầu tiên mô tả vềtắc mạch 
nghịch thường(TMNT) năm 1877. Trong y văn 
hiện nay mô tả hơn 170 trường hợp lạ thường 
này (9). Tuy nhiên, theo kiến thức của chúng tôi, 
TMNT kết hợp với tắc mạch phổi chưa từng báo 
cáo là 1 biến chứng sau mổ trong y văn chỉnh 
hình trước đây. 
Cơ chế sinh bệnh và tác động của phẫu 
thuật dẫn đến tổn thương thần kinh cấp trong 
quá trình thay khớp chưa hoàn toàn hiểu rõ, 
người ta nghĩ do hậu quả của hội chứng thuyên 
tắc mỡ(12). Theo lý thuyết, phẫu thuật làm tăng 
áp lực trong tủy sống thúc đẩy mỡ tủy xương 
hoặc mảnh vụn khác đi vào tuần hoàn tĩnh 
mạch từ các mạch máu tủy xương. Huyết khối 
có thể nhỏ (đặc biệt trong quá trình khoan rộng 
lòng tủy và tạo khuôn chuôi khớp háng nhân 
tạo) hoặc lớn hơn sau đổ xi măng tạo khuôn 
xương đùi(5). Người ta cho rằng những cục 
huyết khối này bị bẫy trong phổi và không thể 
đi vào tuần hoàn hệ thống. 
Khi các huyết khối tích tụ trong phổi, làm 
tăng kháng lực mạch máu phổi và huyết áp 
động mạch phổi. Hậu quả là tăng áp nhĩ phải và 
tăng áp phổi làm cho máu đi qua shunt phải - 
trái qua lỗ bầu dục (vd thông liên nhĩ) hoặc 
shunt trong phổi, làm tăng nguy cơ tắc mạch 
não nghịch thường. Phần lớn huyết khối gây 
thuyên tắc não bắt nguồn từ tim hoặc phát sinh 
do những tổn thương huyết khối xơ vữa trong 
động mạch chủ, động mạch cảnh, hoặc hệ động 
mạch đốt sống nền. Tuy nhiên, huyết khối có 
thể phát sinh từ tuần hoàn tĩnh mạch và đi vào 
tuần hoàn động mạch thông qua shunt phải - 
trái (vd còn lỗ bầu dục). Hội chứng này được 
biết đến là TMNT gây đột quỵ nhồi máu 
não,hiếm gặp và khả năng chẩn đoán sót cao(10). 
Còn lỗ bầu dục hiện diện khoảng 20% Bn và 
có thể cho phép huyết khối đi qua vào nhĩ trái 
khi áp lực nhĩ phải cao hơn trái (12).Hai nghiên cứu 
phẫu tích của Hagen và Thompson (7) báo cáocòn 
lỗ bầu dục thấy ở 35% trong 1.100 Bn nghiên cứu. 
Con đường xuyên qua phổi của các huyết khối 
nhỏ kể cả mỡ và khí, gần đây đã được chứng 
minh trên mô hình thực nghiệm. Trên lâm sàng, 
hình ảnh khối thuyên tắc được quan sát rõ hơn 
nhờ siêu âm trong mổ. Huyết khối trong 
timphảicó thể thấ ytrên siêu âm tim qua thực 
quản, và mỡ giải phóng trong quá trình mổ 
cũng được nhận diện rõ ràng đi qua lỗ bầu dục 
vách liên nhĩ trong mổ thay khớp háng toàn 
phần (4). 
Loscalzo(12) báo cáo 7/30 Bn bị TMNT có trải 
qua 1 cuộc mổgần đây. Giachino và cs(6) báo cáo 
tỷ lệ nhồi máu não là 0,5% trên 4721 ca mổthay 
khớp háng toàn phần. Massini và Stulberg(12) báo 
cáo 1 trường hợp tắc mạch não nghịch thường 
qua lỗ bầu dục lớn xảy ra trong mổ thay khớp gối 
toàn phần. Tuy nhiên, không có bằng chứng của 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 113
PE hoặc DVT hay huyết khối phát sinh từ đám 
rối tĩnh mạch quanh tiền liệt tuyến. Craig Della 
Valla(5) báo cáo 2 trường hợp tắc mạch não 
nghịch thường sau thay khớp háng có kèm PE. 
Tương tự Bn trong báo cáo của chúng tôi cũng 
ghi nhận có PE. 
PE là nguyên nhân phổ biến nhất của tăng áp 
nhĩ phải cấp tính, nó làm mất ít nhất 40% giường 
mạch phổi. Kết quả làm tăng sức cản mạch máu 
phổi và tăng áp phổi thứ phát là những yếu tố 
gây TMNT. Huyết khối TMNT có thể nằm trong 
não, tuần hoàn ngoại vi và mạc treo ruột cũng 
như trong động mạch vành. Bn thường bị thuyên 
tắc tại nhiều vị trí(5). 
Mặc dù, những dị tật trong tim được phát 
hiện với tần suất cao nhưng nhồi máu não do 
TMNT lại không phổ biến. Bình thường lỗ bầu 
dục đóng lại do chênh áp giữa nhĩ trái và phải. 
Tuy nhiên, dòng chảy từ nhĩ phải sang trái có thể 
xảy ra khi áp lực tuần hoàn bên phải tim tăng. 
Áp lực tim phải tăng trong PEnhưng kỳ lạ là đột 
quỵ không xảy ra nhiều hơn sau mổthay khớp 
háng toàn phần(4). Có lẽ con đường các huyết 
khối đi tắt qua lỗ bầu dục không phổ biến, hoặc 
những huyết khối này được hệ tuần hoàn não 
dung nạp tốt ngoài sức tưởng tượng. 
Stuart Weiss(12) dùng siêu âm động mạch 
cảnh và EEG đã phát hiện tác động của phẫu 
thuật thay khớp gối 2 bên gây tắc mạch não 
nghịch thường trong mổ. Huyết khối đi vào 
tuần hoàn động mạch liên quan tới sự xả garô 
quá nhanh sau mổ khớp gối thứ 2 trong phẫu 
thuậtthaycả 2 khớp gối. Xả garô nhanh và tái 
tưới máu chi dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch 
trung ương, áp lực động mạch phổi và kháng 
lực mạch máu phổi. Các yếu tố này có thể góp 
phần vào sự tích lũy của huyết khối trong mạch 
máu phổi. Mặc dù, tăng áp động mạch phổi và 
kháng lực mạch máu phổi sau lần xả garô đầu 
tiên giảm nhẹ theo thời gian, nhưng vẫn duy trì 
trên mức bình thường. Hậu quả lần xả garô thứ 
2 kéo theo tăng 2 lần huyết áp động mạch phổi 
và tăng 5 lần kháng lực mạch máu phổi. Kết quả 
sự tăng áp nhĩ phải này đưa đến shunt trong tim 
do tăng chênh áp qua vách liên nhĩ hoặc do 
căng nhĩ phải quá mức làm lỗ bầu dục mở rộng. 
Theo Chris Edmonds(4) huyết khối nhỏ vào 
phổi trong lúc mổ có thể đi tắt qua phổi vào 
tuần hoàn hệ thống gây TMNT. Nghiên cứu sử 
dụng siêu âm xuyên sọ ghi nhận dấu hiệu tắc 
mạch trong động mạch não giữa trong mổ thay 
khớp háng toàn phần ở 8/20 Bn. Chủ yếu xảy ra 
sau đổ xi măng tạo khuôn xương đùi hoặc thay 
đổi đột ngột tư thế khớp háng, những dấu hiệu 
này có thể là mỡ hoặc huyết khối trong động 
mạch não giữa do chúng đi tắc qua phổi (9) hoặc 
lỗ bầu dục(3). Đây là những thì đặc biệt của mổ 
thay khớp và có liên quan tớiPE trong mổ phát 
hiện nhờ siêu âm hoặc chất chỉ thị thuyên tắc(4). 
Trong ca báo cáo này, chúng tôi không biết 
rõ nguyên nhân chính xác do không có kết quả 
phẫu tích. Về mặt lý thuyết, mảng xơ vữa động 
mạch có thể là vị trí thành lập huyết khối và tác 
động phẫu thuật thúc đẩy biến chứng từ huyết 
khối động mạch (12). Mặc dù, chưa loại trừ Bn có 
mảng xơ vữa động mạch cảnh 2 bên do không 
khảo sát trước mổ. Chúng tôi cho rằng shunt 
trong phổi hoặc tim có lẽ là nguồn gốc của 
trường hợp TMNNT này. Một phần vì siêu âm 
tim tại giường có thể không phát hiện được và 
Bn cũng không siêu âm tim trước mổ. 
Phẫu thuật chỉnh hình lớn thường phối hợp 
với tình trạng tăng đông kèm những nguy cơ và 
biến chứng nghiêm trọng như NMCT, nhồi máu 
não và VTE(12). Trong khi đó, đa số Bn lớn tuổi 
chịu cuộc mổ này thường có nhiều bệnh đi kèm. 
Vì vậy, các biến chứng có xu hướng tăng cao sau 
mổ.Phân tích gộp của Ola Dalt(12) cho thấy dù 
mổ chương trình hay cấp cứu, tử vong chung 
đều cao hơn ở nhóm Bn không điều trị dự 
phòng. Nguy cơ cao hơn nếu Bn không chuẩn bị 
trước mổ tốt, lớn tuổi, nhiều bệnh nặng đi kèm, 
dự trữ tim - phổi kém. 
Bogousslavsky (2) và Mas(12) theo dõi ngắn 
hạn 2 nhóm gồm 140 và 132 Bn bị TMNT, thấy tỉ 
lệ nhồi máu hoặc TIA tái phát từ 1,9-3,4% mỗi 
năm. Sự tái diễn những biến chứng này thường 
phối hợp với lỗ thông tim lớn và phình vách liên 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 114
nhĩ(5). VTE sau thay khớpháng hoặc gối xảy ra ở 
thời điểm ngay sau mổ (9-16 ngày), và kéo dài 
vài tuần sau mổ (27-36 ngày) (12). 
Bn có triệu chứng nhồi máu não cần chụp CT 
scan để xác định tổn thương nghi ngờ và chẩn 
đoán phân biệt tai biến xuất huyết hay nhồi máu. 
Bn đã xác định nhồi máu não phải tìm nguồn gốc 
thuyên tắc từ đâu. Nên tầm soát có hệ thống gồm: 
men tim và ECG (có NMCT không), siêu âm tim 
(tìm huyết khối trong thành hoặc sùi và đánh giá 
động mạch chủ), theo dõi ECG holter (loại trừ 
loạn nhịp), duplex scaning động mạch cảnh (tìm 
hẹp hoặc mảng xơ vữa). Siêu âm tim qua thực 
quản nếu nghi ngờ TMNT, đây là xét nghiệm ưu 
việt hơn cáckỹ thuật khác phát hiện còn lỗ bầu 
dục hoặc shunt phải - trái(5). 
Chẩn đoán TMNNT cần xem xét trong 
trường hợp VTE, shunt phải-trái (còn lỗ bầu 
dục), và thuyên tắc động mạch không có bằng 
chứng từ tim trái. Bn bị VTE sau mổ, đặc biệt 
PE rộng cần theo dõi khả năng gây tắc mạch 
não và hệ thống. Bn bị nhồi máu não sau mổ 
phải đánh giá có phải do huyết khối thuyên 
tắc, vì huyết khối ban đầu này có thể là nguồn 
gốc tiềm ẩn gây tắc mạch chết người. 
Điều trị khởi đầu tích cực bao gồm chống 
đông với Heparin theo sau với Warfarin (nếu 
không có chống chỉ định) trong 3-6 tháng để 
phòng ngừa sự lan rộng của huyết khối. Phễu lọc 
tĩnh mạch chủ có thể sử dụng nếu liệu pháp 
kháng đông bị chống chỉ định. Dụng cụ này cũng 
được khuyến cáo cho Bn có lỗ thông tim lớn(5). 
Mổ đóng lỗ bầu dục được khuyến cáo cho Bn có 
lỗ thông lớn hoặc tăng áp nhĩ phải mãn tính(1,3). 
Tuy nhiên, nếu tăng áp nhĩ phải liên quan tới 
biến cố cấp tính như PE thì không cóchỉ định. 
Lựa chọn ít xâm lấn hơn là can thiệp qua da đóng 
lỗ thông bằng dù đôi(3). 
Dự phòng kháng đông trước mổcó thể giảm 
biến chứng sau phẫu thuật thay khớp. Phác đồ 
chống đông hoặc chống ngưng tập tiểu cầu dài 
hạn được nhiều tác giả khuyến cáo(1,5), đặc biệt 
trên Bn có yếu tố nguy cơ dài hạn (như tình trạng 
tăng đông) bị DVT. Điều trị dự phòng ngắn hạn 
Heparin làm giảm có ý nghĩa tỉ lệ mới mắc của 
PE chết người và tử vong chung(12). Nhiều 
nghiên cứu gần đây cho thấy Fondaparinuxức 
chế chọn lọc yếu tố Xa hiệu quả hơn hẳn 
Enoxaparin trong dự phòng VTE sau phẫu thuật 
chỉnh hình. Một phân tích gộp 4 thử nghiệm 
lâm sàng pha III trong phẫu thuật khớp háng và 
gối ghi nhận Fondaparinux giảm 55% nguy cơ 
VTE so với Enoxaparin(12). 
KẾT LUẬN 
Tắc mạch não nghịch thường kèm theo 
thuyên tắc phổi là 1 biến chứng nặng và hiếm 
gặp trong mổ thay khớp háng (0,08-1,1%). Chưa 
có báo cáo chính thức về tỉ lệ tử vong của bệnh 
này nhưng phần lớn các ca báo cáo đều nặng nề 
và tử vong. 
Chẩn đoán tắc mạch não nghịch thường cần 
xem xét trong trường hợpVTE, shunt phải-trái 
(còn lỗ bầu dục) và thuyên tắc động mạch không 
có bằng chứng từ tim trái. 
Phòng ngừa TMNT dựa vào điều trị phòng 
huyết khối sau mổ, nhưng tai biến trong mổ có 
thể không tránh được. Điều trị dự phòng kháng 
đông trước mổ đóng vai trò quan trọng trong 
phòng ngừa biến chứng này. 
Tầm soát thường quy các Bn trước mổ: siêu 
âm tim, khám tim mạch Đặc biệt trên Bn lớn 
tuổi, có nhiều bệnh nặng đi kèm, dự trữ tim 
phổi kém. 
Theo dõi sát trong và sau mổ để phát hiện và 
xử lý kịp thời. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andrew FS et al (2007). Venous thromboembolism after 
orthopedic surgery: Implications of the choice for 
prophylaxis.Thrombosis Research, 121: 17-24. 
2. Bogousslavsky J et al (1997). Prevention of stroke recurrence 
with presumed paradoxical embolism. J. Neurol., 244: 71-75. 
3. Bridges ND et al (1992).Transcatheter closure of patent foramen 
ovale after presumed paradoxical embolism. Circulation, 86: 
1902-1908. 
4. Chris R. Edmonds (2000). Intraoperative Cerebral Arterial 
Embolization during Total Hip Arthroplasty.Anesthesiology, 
Vol 93, No 2: 315-318. 
5. Craig J. DV (1999). Paradoxical cerebral embolism complicating 
a major orthopaedic operation: a report of two cases.J. Bone and 
Joint Surg.,Vol81-A, No.1: 108-110. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 115
6. Giachino AA (1998). Stroke as a complication of total joint 
arthroplasty. J. Bone and Joint Surg., Vol80-B(Supplement I): 8. 
7. Hagen PT et al (1984). Incidence and size of patent foramen 
ovale during the first 10 decades of life: an autopsy study of 965 
normal hearts. Mayo Clin. Proc., 59: 17-20. 
8. Haug CA, Dale WA (1952). Major surgery in old people. Arch. 
Surg., 64: 421-437. 
9. Jones HR et al (1983). Cerebral emboli of paradoxical origin. 
Ann. Neurol.,13: 314-319. 
10. Lechat P et al (1988). Prevalence of patent foramen ovale in 
patients with stroke. New England J. Med., 318: 1148-1152. 
11. Mas JL et al (1996). Diagnosis and management of paradoxical 
embolism and patent foramen ovale. Curr. Opin. Cardiol., 11: 
519-524. 
12. Ola D et al (2005). Fatal vascular outcomes following major 
orthopedic surgery. ThrombHaemost., 93: 860-866. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bao_cao_ca_lam_sang_tac_mach_nao_nghich_thuong_trong_phau_th.pdf bao_cao_ca_lam_sang_tac_mach_nao_nghich_thuong_trong_phau_th.pdf