Nghiên cứu được trình bày ở đây nhằm đề xuất lộ trình hữu ích để nghiên cứu bối cảnh
sáng chế về thuốc được phê duyệt để điều trị một hoặc nhiều chỉ định. Bảng liệt kê dưới
đây đưa ra tóm lược nhanh về các quy trình được trình bày.
1. Tìm hiểu lịch sử đặt tên thuốc.
2. Sử dụng tên lâm sàng chung để tạo ra tập hợp bao vây các giai đoạn sau của sự phát
triển.
3. Sử dụng thông tin SPC, các mối liên kết trích dẫn, các hệ thống phân loại, và các
cách tiếp cận khác để tìm ra sáng chế về hợp chất nền tảng và các sáng chế về hóa học
của hợp chất.
4. Phân loại các dạng hoạt động trong lĩnh vực này bao gồm các chỉ định mới, các công
thức cải tiến, các hỗn hợp với các kết quả cải thiện, các cải tiến về mặt tổng hợp và các
yếu tố khác.
5. Phân tích sự phát triển của thuốc bởi các nhà nền tảng và các nhà cộng tác, nhờ sử
dụng dòng thời gian, tiếp cận địa lý và các chỉ báo chất lượng mà có thể.
6. Phân tích sự phát triển bởi các nhà đóng góp vào lĩnh vực này nhờ sử dụng dòng thời
gian, tiếp cận địa lý và các chỉ báo chất lượng, và so sánh giữa nhà nền tảng và các đối
thủ cạnh tranh của họ.
7. Sử dụng sáng chế nền tảng được trích dẫn ở mức độ cao, nghiên cứu sự phát triển
tiếp theo trong lĩnh vực này, bao gồm sự cải tiến thuốc gốc và cách sử dụng để điều trị
trong chỉ định ban đầu, cũng như việc đạt đến hợp chất thế hệ thứ hai có các đặc tính
mới hoặc tốt hơn, các chỉ định mới để sử dụng thuộc ban đầu, và các chỉ định mới để xử
lý chuỗi phản ứng hóa sinh đích.
58 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo toàn cảnh sáng chế về Atazanavir, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới các thuốc, chủ sở hữu thường nộp cho Cơ quan
sáng chế châu Âu Chứng nhận bảo hộ bổ sung (SPC) cho bằng sáng chế đã được cấp,
đơn và Chứng nhận này được ghi trong trường tình trạng pháp lý của INPADOC (xem Hình
2). Khi SPC đã được nộp, trường tình trạng pháp lý cũng có thể bao gồm tên chung và
hoặc tên (nhãn hiệu) độc quyền. Trong ví dụ này, việc tra cứu đối với Atazanavir hoặc
Reyataz trong trường này sẽ tìm thấy họ các sáng chế cơ sở, bao gồm cả tài liệu ưu tiên.
Họ các sáng chế cơ sở này là điểm bắt đầu để phát triển tập hợp sáng chế “tiền lâm sàng”
bao vây các sáng chế khác của chủ sở hữu này hoặc các chủ sở hữu khác. Quyền sở hữu
trí tuệ cơ sở cho Atazanavir là một đơn Thụy Sĩ được nộp vào năm 1995, và nhanh chóng
được nộp tiếp vào các nước khác. SPC được đăng ký vào ngày 02 tháng 3 năm 2004, và
thời hạn của nó đến ngày 02 tháng 3 năm 2019.
Việc trình bày về ngày là rất quan trọng đối với người tra cứu, bởi vì nó xác định khoảng hở
giữa sáng chế về thuốc năm 1995 (ngày ưu tiên) và ngày xuất hiện đầu tiên (năm 2001)
của tên lâm sàng trong trường dữ liệu đơn sáng chế khác với trường tình trạng pháp lý
INPADOC. Ngay cả vào năm 2001, việc sử dụng tên lâm sàng đối với Atazanavir chưa
phải là thủ tục cần thiết. Đối với Atazanavir chẳng hạn, khoảng thời gian giữa việc sử dụng
2
3 Xác định bằng cách tra cứu.
8tên hóa chất và việc sử dụng tên lâm sàng theo thủ tục là từ 1995 đến ít nhất 2001. Khoảng
hở này là thách thức đối với người tra cứu bởi vì các chiến lược tra cứu sử dụng các tên
hóa học “tiền lâm sàng” là rất khó nghĩ tới và sử dụng. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này vào
chương 4.
Nếu tiếp cận SPC không thu được dữ liệu bởi vì số năm của thuốc hoặc các yếu tố khác,
có một số cách thay thế khác. Nếu thuốc vẫn được bảo hộ sáng chế, các bằng sáng chế
liên quan có thể được liệt kê trong US FDA Orange Book. Thông tin này cũng có thể có sẵn
từ các sản phẩm thương mại như Thomson Reuters Pharma®.
Cách tiếp cận khác khó khăn hơn là trước hết tìm các sáng chế của các chủ sở hữu thuốc
mà đề cập tới tên lâm sàng, và sau đó thực hiện phân tích viện dẫn ngược lại để tìm ra các
tài liệu xuất hiện trước sớm nhất mà bao vây hợp chất này. Sáng chế này có thể đứng tên
hoặc không đứng tên chủ sở hữu này ở thời điểm công bố của nó, nhưng trường thông tin
chuyển nhượng lại của US và trường tình trạng pháp lý INPADOC có thể xác định rõ chuỗi
chủ sở hữu.
4
9Hình 2: Tình trạng pháp lý đối với các sáng chế cơ sở của Novartis
10
TÊN LÂM SÀNG
Các tên lâm sàng được sử dụng nhiều hơn các tên hóa học từ quan điểm của người tra
cứu. Chúng có tính phân biệt và quan trọng là chúng giống như ngôn ngữ bất kỳ. Các tên
này là nguồn rất tốt để biên soạn tập hợp các sáng chế mà có thể được gọi là “tập hợp lâm
sàng” bởi vì chúng liên quan đến thuốc sau khi đã được thử nghiệm lâm sàng.
TÊN CỦA NHÀ SẢN XUẤT
Các tác giả sáng chế của Atazanavir là các nhà hóa học của Novartis (sau đó là Ciba-
Geigy). Novartis gọi các hợp chất được thử nghiệm là CGP-73547, CGP-75355 và
CGP-75136. Novartis ký hợp đồng với Bristol-Myers Squibb để tiếp tục phát triển, sản xuất,
và thử nghiệm lâm sàng. Bristol-Myers Squibb gọi hợp chất được thử nghiệm là
BMS-232632, và tên này được sử dụng rất phổ biến trong các công bố sau này.
TÊN CHUNG
Tên Atazanavir là tên chung không độc quyền mà sẽ đi cùng với thuốc bất kể công ty nào
sản xuất hoặc bán các hợp chất tương đương sinh học với nó trong tương lai. Atazanavir
tuân theo thủ tục đặt tên (USAN - United States Adopted Name) mà được chọn đối với các
đơn đăng ký thuốc có cùng phân loại (chất ức chế Proteaza HIV). Thông thường, một nhà
sản xuất Hoa Kỳ sẽ nộp một đơn cho tên đã được phê duyệt của nó khi US FDA đã phê
duyệt đơn thuốc mới nghiên cứu (IND) và bắt đầu được thử nghiệm lâm sàng. Có sự
tương tác giữa Hội đồng USAN (USAN Council) and Chương trình tên không độc quyền
quốc tế của Tổ chức Y tế thế giới (the International Nonproprietary Name (INN) Program of
World Health Organization (WHO)) để điều phối các tên này trên toàn cầu.
TÊN THƯƠNG MẠI
Cuối cùng, khi thuốc đã được thử nghiệm và được phê duyệt, nó được biết đến với tên độc
quyền (tên thương mại) đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu bởi công ty sở hữu/bán nó.
Trong thời gian hợp chất được bảo hộ sáng chế, chỉ có công ty ban đầu phát hiện ra nó có
5 Một nhóm được đồng tài trợ bởi Hiệp hội Y học Hoa Kỳ (American Medical Association), Hiệp định Dược điển Hoa Kỳ (United States
Pharmacopeial Convention (USP)), và Hiệp hội Dược học Hoa Kỳ (American Pharmacists Association)
physician- resources/medical-science/united-states-adopted-names-council.page
Hình 3: Trình tự thời gian của việc đặt tên thuốc
11
Hình 4. Số lượng sáng chế (Họ sáng chế)
Hình 5: Truy xuất họ sáng chế bởi trường nguồn gốc
tên thương mại, nhưng sau khi bằng sáng chế hết hiệu lực, các công ty khác có thể sản
xuất thuốc và có tên thương mại khác. Atazanavir vẫn được bảo hộ sáng chế, và được biết
là Reyataz®
PHẦN 3: CHUẨN BỊ TẬP HỢP LÂM SÀNG
Tính độc đáo của các tên lâm sàng có nghĩa là
chúng có thể được sử dụng trong tra cứu một cách
rất cụ thể ngay cả khi không sử dụng mã phân loại
sáng chế. Tên này cũng có ưu điểm là vượt qua
nhiều rào chắn ngôn ngữ.
CHIẾN LƯỢC MỘT GIAI ĐOẠN
Chiến lược một giai đoạn thể hiện việc sử dụng ở
đây các tên lâm sàng để tra cứu trong trường tên,
tóm tắt và/hoặc yêu cầu bảo hộ mà đã có sẵn
trong hệ thống toàn văn của hoặc cơ sở dữ liệu
INPADOC , cũng như cơ sở dữ liệu tóm tắt nâng
cao của Derwent (Derwent World Patents Index -
DWPI). Để đảm bảo tính so sánh, các kết quả
được báo cáo dưới dạng đếm số sáng chế đồng
dạng DWPI. Bằng cách tra cứu một cách độc lập
trong trường chứa chữ (text), có thể thấy rằng các trường này hữu ích đối với việc tra cứu
tên lâm sàng, và đồ thị trên 4 thể hiện rằng tất cả là tương tự một cách hợp lý, nhưng tổ
hợp mà kết hợp cả ba tra cứu này là hoàn thiện nhất. chi tiết về sự chồng lấn giữa các tập
hợp được thể hiện trên Hình 5, và mức độ chồng lấn cao một cách không điển hình bởi vì
các lượng cụ thể của các tên lâm sàng. Việc thực hành tra cứu theo chữ được thể hiện ở
trang sau xác nhận mức độ thích hợp cao của các tài liệu tra cứu được theo phương pháp
này.
6 Nội dung được đọc cũng có trong dữ liệu chữ tiếng Anh có sẵn từ các tài liệu của châu Á trên nền hệ thống
Thomson Innovation.
12
Các cơ chế và
các tổ hợp
Tổng hợp
& Các chỉ báo và
các phản ứng
phụ
Động học, liều
dùng và công thức
• Tổng quan thu được của nội dung về tập hợp lâm sàng ban đầu (một giai đoạn) được
cung cấp bởi bản đồ này, bao trùm 314 patent đồng dạng mà được tra cứu bằng cách
sử dụng các tên lâm sàng để tra cứu trong tên, tóm tắt, yêu cầu bảo hộ, và tóm tắt
nâng cao của DWPI. Tất cả các tài liệu này chứa một hoặc nhiều tên Atazanavir,
Reyataz hoặc tên thử nghiệm BMS or CGP testing names trong tên, tóm tắt, yêu cầu
bảo hộ (tức là, trường mà chỉ báo thuật ngữ trọng tâm đối với sáng chế).
• Thuật toán bản đồ ThemeScape® vận hành trên tóm tắt DWPI tóm tắt nâng cao (tất cả
bằng tiếng Anh) để tìm mối tương quan trên cơ sở thuật ngữ chia sẻ, và chùm tài liệu
theo thuật ngữ-mối liên hệ. Mỗi chấm trên bản đồ thể hiện một sáng chế đồng dạng,
mỗi chấm này chỉ được thể hiện một lần. Mật độ được chuyển tải bằng chiều cao giả.
Các đỉnh là tùy ý, nhưng khoảng cách thể hiện mối liên hệ hoặc không có nó.
• Bản đồ của tập hợp một giai đoạn thể hiện rằng có nhiều tài liệu liên quan đến phương
pháp và quá trình tổng hợp (đỉnh phủ màu trắng tuyết thể hiện mật độ cao) và có ba
vùng chung khác bao vây a) cơ chế tác động và việc sử dụng các hỗn hợp để tấn công
nhiều hơn một đích, b) các thuộc tính của thuốc của bệnh nhân và việc quản lý liều, đặc
biệt là đối với khả năng dung nạp cytochrome P-450 monooxygenaza, và c) kiểm soát
tác dụng phụ ở các hệ thống cơ quan khác nhau, và sử dụng thuốc trong các bối cảnh
lâm sàng khác nhau.
Hình 6. Tập hợp lâm sàng một giai đoạn
13
TRA CỨU LÂM SÀNG HAI GIAI ĐOẠN
Để toàn diện hơn, cần tra cứu cả các tên lâm sàng trong phần mô tả (bản mô tả) của tài
liệu, qua đó mở ra khả năng bổ sung “nhiễu” đáng kể cho tập hợp. Khác với kết quả đích
mà thu được từ việc tra cứu tên, bản tóm tắt, yêu cầu bảo hộ hoặc tóm tắt mở rộng, việc
tra cứu trường phần mô tả với tên lâm sàng sẽ thu được số lượng sáng chế đồng dạng
nhiều gấp 6-7 lần (hoặc Inpadoc hoặc DWPI), nhưng việc truy xuất này có khả năng bao
gồm phần lớn các tài liệu vượt ngoài phạm vi mong muốn. Để nhận ra chất lượng của tập
hợp, bản đồ ThemeScape dưới đây thể hiện các tài liệu Một-Giai đoạn và các tài liệu mới
được bổ sung bằng cách tra cứu Hai-Giai đoạn được trộn lẫn vào nhau. Có một vùng rộng
trong bản đồ nơi rất ít sáng chế của tập hợp Một-Giai đoạn có mặt (các vùng được viền
màu vàng). Nếu chúng ta giả định tra cứu Một-Giai đoạn là chỉ báo có mức độ liên quan
cao hơn, điều này có nghĩa là các vùng có ít tra cứu Một-Giai đoạn trên bản đồ là có vấn
đề. Rõ ràng là các tài liệu được truy xuất bằng cách tra cứu phần mô tả cần được xem xét
lại để loại bỏ các kết quả mà không thực sự hướng về sự phát triển của Atazanavir. Đó là
trường hợp sử dụng mã phân loại hoặc phương pháp lọc khác trở nên quan trọng.
Hình 7. Tập hợp lâm sàng Hai-Giai đoạn – Bản đồ thể hiện việc cải thiện tập hợp là cần thiết
14
Loại bỏ các vùng lạc đề
Hai vùng được loại bỏ càng hoàn toàn càng tốt ra khỏi tập hợp trên cơ sở phần mô tả. Một
vùng là sự phát triển của các thiết bị nhằm phân phối thuốc. Các tài liệu này thường mô tả
một danh sách các thuốc (bao gồm Atazanavir) mà thiết bị này dường như áp dụng được,
nhưng các báo cáo này bị lạc đề đối với việc đánh giá sự phát triển thuốc và bị loại bỏ.
Vùng bị loại trừ thứ hai là việc phân lập vật liệu gen nhằm mục đích hiểu cấu trúc phân tử
của các đích thuốc và phát hiện các trình tự gen. Các sáng chế thừa này bị loại bỏ vì chúng
không liên quan trực tiếp đến lộ trình phát triển thuốc Atazanavir, mặc dù Atazanavir có thể
được liệt kê làm ví dụ trong các tài liệu này. Khoảng 400 bản ghi (20%) của tập hợp trên cơ
sở phần mô tả có thể được loại bỏ theo cách này, và biểu đồ mới trên Hình 8 thể hiện rằng
bây giờ hỗn hợp của tập hợp một-giai đoạn và trên cơ sở phần mô tả đã được làm sạch
tạo ra một biểu đồ được cải thiện hơn nhiều, với các tài liệu của tập hợp một-giai đoạn trải
đều toàn bộ.
Figure 8. Tập hợp lâm sàng giai đoạn 3 sau khi cải thiện
15
TẬP HỢP LÂM SÀNG
Có một ví dụ rất hữu ích được tìm thấy bằng cách tra cứu phần mô tả đối với tên lâm sàng
Atazanavir. Đó là hợp chất có thể được sử dụng kết hợp với các thuốc ức chế proteaza
various HIV khác nhau (bao gồm Atazanavir) để duy trì liều hữu hiệu nhờ sử dụng lượng
thuốc ít hơn. Như đã lưu ý là yếu tố nhấn mạnh, thuật ngữ Atazanavir xuất hiện trong phần
mô tả nhưng không có mặt ở tóm tắt hoặc yêu cầu bảo hộ, và vì vậy nó chỉ được tìm thấy
bằng cách tra cứu trong trường phần mô tả. Một tổ hợp rộng các tài liệu thu được theo
cách này nhờ sử dụng chiến lược mã phân loại. Mã C07D 213/, bao vây các hợp chất dạng
Atazanavir, là một cách để tách các tài liệu liên quan ra khỏi danh sách rộng dư thừa được
tạo ra bằng cách tra cứu phần mô tả. Đối với nhiều mã phân loại, xem Chương 9.
Hình 9 Truy vấn nhờ sử dụng tên lâm sàng Atazanavir trong phần text của phần mô tả
16
PHẦN 4: CHUẨN BỊ TẬP HỢP HÓA HỌC
TIẾP CẬN ĐA PHƯƠNG DIỆN
Một số tiếp cận là hữu ích để chuẩn bị một tập hợp các sáng chế tiền lâm sàng bao vây
cùng các hợp chất tương tự, mặc dù tên Atazanavir chưa có sẵn. Các tiếp cận này được
ứng dụng ngay cả khi tiếp cận nội dung tăng cường như Derwent World Patent Index chưa
có sẵn, và tất cả đã được sử dụng trong báo cáo này.
Danh sách các tiếp cận tra cứu:
1. Xác định các hợp chất sáng lập bằng cách sử dụng đăng ký nộp SPC được tìm thấy
trong trường tình trạng pháp lý. Trong các tài liệu sau đó, trường này cũng có khả năng
chứa tên chung hoặc tên thương mại của thuốc.
2. Tra cứu theo từ khóa được chọn từ các phần độc đáo của tên hóa chất (± mã phân
loại).
3. Tra cứu theo mã CAS trong trường phần mô tả.
4. Tra cứu tên tác giả sáng lập cùng với công ty phát triển chúng để lựa chọn các tài
liệu có nhiều khả năng liên quan từ các chủ công ty này.
5. Tra cứu theo từ khóa đích cùng với các tên công ty phát triển.
6. Tra cứu các tài liệu mà trích dẫn các sáng chế tạo bởi các công ty có liên quan đến
sự phát triển.
Các kết quả từ các nghiên cứu như vậy chồng lên nhau, và cũng có thể chồng lên tập hợp
lâm sàng. Sau khi khử lặp chéo, chúng thường phải được xem xét lại để xác định xem
chúng có đúng chủ đề không. Mong đợi rằng danh sách này sẽ chứa ít tài liệu hơn so với
số tài liệu có mặt trong tập hợp lâm sàng, bởi vì lượng sáng chế thường thấp hơn so với
trước giai đoạn phát hiện chuyển sang phát triển lâm sàng. Tuy nhiên, các tài liệu này sẽ
giúp điền đầy giai đoạn “khoảng hở” được đề cập trên đây, giai đoạn này ở giữa sáng chế
đầu tiên về chất, và giai đoạn bắt đầu thử nghiệm lâm sàng. Các chi tiết của chiến lược tra
cứu này được đề cập trong Phụ lục A.
17
SÁNG CHẾ NỀN TẢNG VÀ TRÍCH DẪN TIẾP THEO CỦA NÓ
Sau khi tìm được sáng chế nền tảng, các trích dẫn của nó (được liệt kê trên Hình 11, cũng
có thể được sử dụng để theo dấu vết đường đi đến phát triển tiếp theo hoặc các sáng chế
mới. Bản đồ trích dẫn này được tạo ra bằng cách bắt đầu từ sáng chế nền tảng (ở chính
giữa) và điền vào các Bằng sáng chế hoặc các đơn đăng kí sáng chế mà hướng trực tiếp
đến sáng chế nền tảng. Các tài liệu trích dẫn được công bố sau này được sắp xếp theo
năm công bố theo chiều kim đồng hồ quanh bản đồ. Tài liệu trích dẫn sớm nhất là vào năm
1999 từ nhà cộng tác với chủ sở hữu (Bristol – Myers Squibb) và nhà cạnh tranh (Abbott)
tạo ra một thuốc khác ở cùng loại chất ức chế proteaza. Năm 2000, có tài liệu “tự” trích dẫn
khác và ba tài liệu trích dẫn từ nhà cung cấp chất trung gian (Sumika/Sumitomo). Các tài
liệu trích dẫn sau đó là từ các công ty hướng tới chất ứng chế proteaza làm các chất chỉ
báo khác với AIDS, và tiếp sau nữa là một số công ty sáng chế ra phương pháp tổng hợp
hoặc cố gắng tạo ra các biến thể trên chế phẩm ban đầu bằng cách thay thế đơtêri cho
hydro trong hợp chất. Chỉ có ba tài liệu “tự trích dẫn” từ Bristol – Myers Squibb, và có khả
năng thể hiện công việc tiếp theo để cải tiến sáng chế, và tạo ra các phát hiện mới trên cơ
sở đó.
Hình 10: Bản đồ trích dẫn của sáng chế nền tảng
Chủ sở hữuTạo ra chất trung gian Nhà cạnh tranh
Không phải HIV CMPD được đề xuất Phương pháp tổng hợp
Không được chú thích
18
Hình 11: Danh sách các tài liệu trích dẫn sáng chế nền tảng
19
TẬP HỢP LÂM SÀNG
Đó là ví dụ về kết quả tìm được bằng cách tra cứu các chất hóa học khi tên lâm sàng
không được đề cập. Tên Atazanavir không được đề cập vì ở thời điểm nộp đơn, tên này
chưa được đăng kí. Điều này liên quan đến việc sản xuất chất trung gian azapeptit với định
hướng thích hợp về mặt quang học của các cấu tử. Nó được tìm thấy bằng cách sử dụng
tổ hợp của các từ khóa và mã hóa học (được trình bày chi tiết hơn ở phần 8).
Hình 12: Truy xuất theo từ khóa và mã hóa học mà không sử dụng tên Atazanavir.
20
Hình 13: Đường thời gian của sáng chế đối với các giai đoạn phát triển
TỔNG KẾT VỀ TẬP HỢP
Như kì vọng, tập hợp tiền lâm sàng là tương đối nhỏ so với tập hợp lâm sàng (Hình 13).
Sự đóng góp tương đối của nó là cao nhất so với giai đoạn phát hiện sớm, và giai đoạn
sau đó. Các gia đoạn phát triển thuốc điển hình được lưu ý ở biểu đồ bên phải. Atazanavir
được phê duyệt bởi US FDA để điều trị HIV vào năm 2003. Lưu ý rằng sau năm 2008, dữ
liệu này chưa đầy đủ vì độ trễ của công bố.
21
PHẦN 5: TỔNG QUAN VỀ TẬP HỢP
Tập hợp chứa các sáng chế mà rất cụ thể đối với Atazanavir và bao vây các hợp chất, các
quy trình và các phương pháp sử dụng liên quan trực tiếp đến thuốc, nhưng cũng bao gồm
các sáng chế theo ngữ cảnh mà cho phép đưa ra kết luận về việc sử dụng thuốc trong điều
trị HIV. Ví dụ, việc điều trị bằng thuốc có thể liên quan đến các thuốc ức chế proteaza-HIV
như Atazanavir cùng với các điều trị kháng HIV khác. Bởi vì các vấn đề kháng thuốc trong
điều trị nhiễm HIV hoặc AIDS, đó là thực hành tiêu chuẩn để sử dụng thuốc đồng hành
hoặc kết hợp, và điều này phản ánh tập hợp. Cũng rõ ràng rằng các thuốc ức chế proteaza
có thể có những sử dụng khác với điều trị HIV, và dịch chuyển tới các lĩnh vực trị liệu khác
mà cũng được bao vây trong tập hợp.
Nhờ sử dụng loại tập hợp này, hoạt tính của Atazanavir có thể được kiểm tra xem là hẹp
hay rộng hơn tùy thuộc vào độ sâu tìm kiếm. Trong phân tích dưới đây, các ví dụ về cả hai
tiếp cận sẽ được đưa ra, và hình 13 là một trường hợp trọng điểm. Đồ thị trên hình 14 thể
hiện năm ưu tiên sớm nhất (sát với ngày sáng chế) đối với một vài tập hợp con khác nhau
của các tài liệu từ tập hợp này. Tập hợp “toàn bộ thị trường” bao vây phần lớn các sáng
chế trong tập hợp ngoại trừ các sáng chế của các trường đại học hoặc các viện thuộc
Chính phủ, hoặc các nhà sáng chế cá nhân. Đó là một quan điểm rộng. Ba dòng thời gian
khác (trục thứ hai) bao vây các tập hợp con nhỏ hơn, tức là các sáng chế bao vây cụ thể
các thuốc ức chế proteaza-HIV (phân loại thuốc của Atazanavir), các sáng chế bao vây các
thuốc ức chế HIV proteaza mà chứa cấu trúc vòng dị vòng sáu cạnh (như Atazanavir), và
các sáng chế đóng góp vào lĩnh vực này của các trường đại học và các tác giả thuộc Chính
phủ. Các tài liệu sớm hơn trong tập hợp này đến từ bộ phận thương mại, với các trường
đại học và cơ quan Chính phủ hầu hết liên quan sau đó.
Hình 14: Dòng thời gian đối với tập hợp, bao gồm các tập hợp con hẹp hơn.
22
NƯỚC ƯU TIÊN SỚM NHẤT
Xác định nước ưu tiên (nước nộp đơn đầu tiên) là cách dễ dàng nhất để có được ý tưởng
mà sáng chế được thực hiện, và thường tương ứng với vị trí công ty. Các công ty toàn cầu
có thể nộp ở nhiều nước nếu họ có các cơ sở nghiên cứu và phát triển ở mỗi nơi. Hầu hết
các sáng chế trong tập hợp này được nộp đầu tiên ở US, và 70% trong số chúng cũng
được nộp ở văn phòng PCT (hoặc có quyền ưu tiên ở văn phòng PCT). Điều này một phần
là do các hãng công nghiệp dược thường ưa thích nộp đơn PCT. Bằng cách xét nghiệm số
đơn của đơn PCT, nước nộp đơn đầu tiên có thể được xác định, và Hình 15 cũng thể hiện
nước đầu tiên (cơ quan nhận đơn) đối với các đơn PCT.
Các nhận xét bao gồm: a) mức độ tham gia của các công ty Nhật Bản tương đối thấp trong
lĩnh vực kỹ thuật này khi đo theo nước ưu tiên hoặc nước nộp đơn PCT, và b) Ấn Độ tham
gia ở mức đáng kể nhưng không nhiều. Số sáng chế đồng dạng đã được cấp cho một hoặc
nhiều cơ quan có thẩm quyền cũng được thể hiện, và 29% đối với US và 35% đối với EPO.
Việc cấp Bằng độc quyền sáng chế chứng tỏ tính mới, nhưng thống kê tỷ lệ cấp bị ảnh
hưởng bởi tuổi của sáng chế, vì các sáng chế trẻ thường không được cấp trong khoảng
thời gian ngắn hơn khoảng thời gian xử lý thông thường.
Hình 15: Thông tin về nước ưu tiên.
23
NƯỚC NỘP ĐƠN ĐỒNG DẠNG
Xem xét các đơn sáng chế theo cách khác, dễ thấy rằng các công ty nộp đơn yêu cầu bảo
hộ không chỉ trong khu vực (nước ưu tiên), mà còn ở các khu vực mà họ mong muốn có sự
bảo vệ đối với sản phẩm của mình, hoặc để sản xuất sản phẩm của họ. Cỡ trung bình của
các họ patent đồng dạng DWPI trong tập hợp này là 5 thành viên (thực hiện nộp đơn ở 5
nước). Hình 16 thể hiện tổng số các sáng chế được nộp ở các nước hoặc các cơ quan có
thẩm quyền khác nhau, và các nước có số cao hơn được giả định xem như các thị trường
tiềm năng cho các nhà phát triển, và cũng được xem như các vị trí tiềm năng để sản xuất.
Việc nộp đơn khu vực trong cơ quan Sáng chế Châu Âu có thể bảo hộ sáng chế ở nhiều
nước Châu Âu không được liệt kê ở đây. Việc bảo hộ ở các nước Châu Á-Thái Bình
Dương là mạnh, như được bảo hộ ở Bắc và Nam Mỹ.
FHình 16: Các nước được xem như thị trường
24
PHẦN 6: THẨM ĐỊNH CÁC KHÍA CẠNH CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THUỐC
Có các khía cạnh sáng chế khác nhau trong việc phát triển thuốc, bao gồm thành phần hóa
học, nhận dạng đích sinh học, sử dụng trị liệu kết hợp, phát triển công thức thuốc, và phát
hiện các chỉ định lâm sàng (bệnh hoặc tình huống cần điều trị) mà có liên quan đến hoạt
động của các công ty trong lĩnh vực này. Để nghiên cứu điều này, thao tác xử lý ngôn ngữ
tự nhiên 7 được thực hiện và các loại được tạo ra bao gồm các loại được liệt kê trên Hình
17. Các tài liệu riêng lẻ có thể được đặt vào nhiều loại.
7 Thao tác này sử dụng ứng dụng Thomson Data Analyse ®. Nếu xử lý NLP không khả dụng, tiếp cận này có
thể được mô phỏng bằng cách tra cứu sâu tập hợp này với các tra cứu cụ thể nhằm hướng tới các vùng đặc
trưng, hoặc bởi phương pháp sử dụng nhân lực để phân loại thủ công.
Hóa học
& Đích
Tổ hợp
Công thức
Chỉ báo
Hình 17: Các loại
25
Hình 18: Mối tương quan giữa các loại sáng chế - Atazanavir được làm nổi bật
Sự giao nhau giữa các loại được nhìn thấy trên bản đồ tương quan tuần tự 8 (Hình 18).
Mối liên kết có nghĩa là các sáng chế là các loại được liên kết cùng tồn tại. Loại lớn hơn rất
nhiều được xử lý bằng cách tổng hợp phía dưới bên phải, và mối liên kết lên trên từ giao
điểm tổng hợp nối với các công thức, dược động học, phản ứng phụ, v.v., trong khi tập hợp
của các liên kết ở phía dưới bên trái dẫn tới các chỉ định lâm sàng khác nhau trong đó chất
ức chế proteaza là sử dụng được. Ở phía trên bên phải, các đích hóa sinh kháng virus
khác nhau được tạo thành chùm, với các liên kết trong số chúng phản ánh các hỗn hợp
thuốc mà trộn lẫn các thuốc nhằm các mục đích khác nhau. Ở xa hơn bên trái là một số
giao điểm biệt lập mà nối đích ức chế proteaza serin với hai chỉ định mà nó có liên quan.
Giao điểm in đậm (màu đỏ) là Atazanavir, có liên kết nổi bật (các đường màu đỏ) tới sáng
chế liên quan đến Ritonavir và các thuốc ức chế proteaza khác, và phản ánh các hỗn hợp.
8 Được thực hiện nhờ ứng dụng Thomson Data Analyzer
26
Hình 19: Mối tương quan giữa các loại sáng chế - Ritonavir được làm nổi bật.
Theo quan điểm này đối với bản đồ tương quan tương tự (Hình 19) giao điểm Ritonavir
được làm nổi bật (màu đỏ), và độ đậm của đường liên kết màu đỏ thể hiện rằng Ritonavir
thường liên quan nhiều hơn đến các hỗn hợp có chất ức chế proteaza so với Atazanavir
(như được thấy ở trang trước đây). Cũng có nhiều liên kết hơn, đặc biệt là tính sinh khả
dụng và với sắc tố tế bào P450, cũng như giao điểm chất ức chế proteaza serin mà liên
quan đến điều trị viêm gan C. Điều này được trình bày tiếp ở phần 8 về hỗn hợp.
27
Hình 21. Atazanavir cấp cho Novartis và Bristol-Myers Squibb
DÒNG THỜI GIAN CỦA CHÍNH CÁC NHÀ PHÁT TRIỂN
Hình 20 Các sáng chế liên quan đến ATZ của Novartis và
Bristol-Myers Squibb theo năm ưu tiên
Trong trường hợp hỗn hợp (Hình 21), Novartis đề cập rằng họ tổng quát hơn trong các
sáng chế của mình, trong khi các sáng chế của BMS cụ thể hơn về loại thuốc có giá trị
trong hỗn hợp. Đối với sự đa dạng hóa tới các chỉ định lâm sàng khác, Novatis có mặt dẫn
đầu, nhưng cả hai công ty đều làm việc đối với chỉ định ung thư, kháng viêm và thần kinh,
mà có thể hoặc không thể là chỉ định theo hướng tương lai.
Các sáng chế liên quan đến Atazanavir
thuộc về Novartis và Bristol-Myers Squibb có
dòng thời gian của sự phát triển mà bắt đầu
từ năm 1995 với sáng chế hợp chất sáng
lập, và bị ngắt quãng vào năm 2003 bởi sự
phê duyệt thuốc đối với chỉ định cho HIV/
AIDS.
Tóm tắt trên Hình 20 thể hiện sự phân chia
công sức giữa Novartis và Bristol-Myers
Squibb. Điểm cần nhớ là các loại có sự
chồng nhau. Sáng chế nền tảng được phát
triển bởi Novartis (sau đó là Ciba-Geigy), và
trong khi Novartis thực hiện một lượng công
việc đáng kể liên quan đến hóa học đối với
hợp chất và tổng hợp nó, phần lớn nhất của
công việc tổng hợp lại được thực hiện ở
BMS trong khi chuẩn bị để tăng qui mô, tạo
chế phẩm điều trị, và v.v.
28
Ba phần trên Hình 22 dưới đây là sự phát triển danh mục của Novartis và BMS kết hợp đối
với Atazanavir. Phần trên của bảng thể hiện rằng danh mục này bao gồm các sáng chế
được cấp bằng và cả các đơn đang xử lý mà đã được nộp từ 2002. Các sáng chế được
tìm thấy bằng cách tra cứu hóa chất được nộp bắt đầu từ 1995, nhưng tập hợp hướng lâm
sàng bắt đầu từ 1999, với chính tên Atazanavir xuất hiện năm 2001. Từ khi bắt đầu, năm
1995, việc sử dụng để điều trị HIV được yêu cầu bảo hộ, và Atazanavir dĩ nhiên không phải
hợp chất đầu tiên thuộc loại thuốc này, với nhiều loại chất trước đó thuộc loại này, dẫn đầu
là Saquinavir của Roche mà đã được FDA phê duyệt năm 1995, và bây giờ sáng chế đã
hết hiệu lực.
Phần giữa của bảng tổng quan về các khía cạnh khác của sự phát triển thuốc được đề cập
trong các sáng chế thuộc danh mục của Novartis-BMS. Nhờ sử dụng thuốc trong hỗn hợp
có trong sáng chế nền tảng, từ đó có nhiều kinh nghiệm trong điều trị kết hợp đối với HIV
từ năm 1995. Việc cấp bằng sáng chế cho các phương pháp tổng hợp tiếp tục tồn tại trong
toàn bộ khung thời gian, và các sáng chế về chế phẩm được bắt đầu lưu ý từ năm 1998.
Các hỗn hợp cụ thể bắt đầu xuất hiện năm 1988, và các hỗn hợp nhằm cả các mục đích
giống nhau (PI) và khác nhau được đề cập, với hỗn hợp cuối cùng là chất ức chế tổng hợp
virus.
Hình 22: Dòng thời gian đối với các loại phát triển Atazanavir
Phần cuối cùng của bảng này đề cập đến các chỉ định khác với nhiễm HIV, và chúng chưa
được nộp cho đến sau khi nhận được phê duyệt cho chỉ định HIV.
29
Hình 23: Các sáng chế tiêu biểu của Novartis và Bristol-Myers Squibb
Một vài sáng chế tiêu biểu của Novartis và Bristol-Myers Squibb được liệt kê trong Hình 23.
Danh sách của tất cả các sáng chế về ATZ trong tập hợp mà thuộc về Novartis/BMS được
đề cập trong phần phụ lục.
30
CÁC LOẠI CÓ TẦM QUAN TRỌNG CAO NHẤT
Khi toàn bộ tập hợp được so sánh theo loại, và các loại có tầm quan trọng cao nhất trong
mỗi nhóm chủ sở hữu được lưu ý, sự tương tự nhau và khác nhau trong tầm quan trọng
của chủ sở hữu có thể được lưu ý (Hình 24).
Các thực thể thương mại có tầm quan trọng về mặt hóa học và chế phẩm tương đối tương
tự, với sự tập trung cao nhất của chúng về sự tổng hợp, và cụ thể là sự tổng hợp
Stereospecific. Hầu hết các lựa chọn thuốc đối với mục đích này (proteaza virus) là các
Peptit bắt chước mà hầu như liên kết Stereospecific vào vị trí trên bề mặt của đích. Tập
trung thương mại vào vấn đề này được hiểu là vì hiệu quả, chi phí hàng hóa và giảm phản
ứng phụ tất cả dựa trên hiệu quả của việc tổng hợp Stereospecific của thuốc với nhiều tâm
đồng phân lập thể (liên kết phân tử mà cần phải có định hướng thích hợp, quay trái hoặc
quay phải).
Ở vùng của hỗn hợp, Novartis/BMS chiếm vai trò hơi quan trọng hơn trong các hỗn hợp
với các chất ức chế Proteaza khác và vài chất ức chế enzim phiên bản so với integrase.
transcriptase.Cũng nhấn mạnh các chỉ định tự miễn dịch và ung thư nhưng có ít bằng
chứng về sự theo đuổi các chỉ định thần kinh hoặc kháng virus khác.
Hình 24: Tầm quan trọng của các loại trong sự phát triển thuốc
Hóa học
Tổ hợp
Công thức
Chỉ báo
SO SÁNH TẦM QUAN TRỌNG KỸ THUẬT CỦA CÁC CÔNG TY HÀNG ĐẦU
Các loại được liệt kê trên đây cho phép tạo thành mạng lưới (Hình 25) mà so sánh mỗi
công ty đối với hoạt động trong các lĩnh vực kỹ thuật khác nhau. Các công ty được chọn từ
mạng lưới này là mẫu thử (44 trong 288) của toàn bộ danh sách có sẵn trong Phụ lục B, và
bao gồm các công ty có thuốc ức chế proteaza-HIV được phê duyệt.
31
Trên Hình 24, các chỗ có màu đậm hơn làm
nổi bật các giá trị đứng đầu trong mỗi cột.
Các công ty có thuốc ức chế proteaza HIV
(PI) được phê duyệt hoàn toàn chiếm ưu thế
với sự loại trừ Roche, và các quan sát thú vị
có thể được thực hiện với nhiều công ty.
Abbott và nhà cộng tác Enanta, và với mức
độ ít hơn là Gilead và Schering, được quan
tâm trong proteaza serin bởi vì chất ức chế
proteaza serin là hữu ích trong điều trị viêm
gan C. Abbott và Gilead sử dụng chất ức
chế proteaza serin trong trị liệu hỗn hợp đối
với các bện nhân mắc cả HIV và HCV, trong
khi Schering tỏ ra tập trung nhiều hơn vào
chính HCV.
Cytovia được quan tâm trong các thuốc gây
chết tế bào để điều trị ung thư (bao gồm
Kaposi’S Sareoma), và họ đề cập đến việc
trị liệu hỗn hợp bằng các thuốc này và PI và
các thuốc enzim phiên bản ngược (RTI).
Có các công ty trong mạng lưới này mà
không có sáng chế đề cập đến các chỉ định
nào cả. Các công ty này tạo thành tập hợp
con đáng quan tâm (Concert, Aicuris,
Nektar, Ranbaxy, Progenics) mà bao gồm
các nhà cung cấp chất trung gian, và các
nhà phát triển các quy trình cải thiện hoặc
các chế phẩm mà có thể định vị họ vào các
nhà cung cấp thuốc gốc khi các thuốc này
hết hiệu lực về sáng chế.
Hình 25: Mạng lưới tầm quan trọng của các chủ sở hữu được chọn
32
DÒNG THỜI GIAN HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY ĐƯỢC CHỌN
Dòng thời gian đối với hoạt động sáng tạo của cùng các công ty (sử dụng năm ưu tiên sớm
nhất đối với mỗi sáng chế) được thể hiện trên Hình 26. Các công ty được xếp hạng về mức
độ mới xảy ra hoạt động của họ. Phương pháp trình bày này thu hút sự chú ý vào các công
ty có hoạt động gần đây.
Novartis, với các sáng chế nền tảng, có xuất hiện sớm nhất trên Hình 25 và có hoạt động
liên tục đến gần đây nhất, như nhà phát triển của họ là Bristol Myers Squibb. Hàng đầu
trong bảng này thuộc về Enanta, một công ty có mối quan hệ cộng tác với Abbott, cũng xếp
hạng cao bảng này. Zirus (Herpes), Aicuris (tổng hợp) và Ranbaxy (tổng hợp) đều kéo dài
đến gần đây trong lĩnh vực này của tập hợp. Abbott, GSK và Merck đều có hoạt động gần
đây liên quan đến Atazanavir, hầu hết liên quan đến chế độ điều trị hỗn hợp hoặc các chỉ
định khác. Các hoạt động gần đây của Bochringer và Schering liên quan đến các đích HIV
khác (Bochringer) hoặc virus viêm gan (Schering). Quan sát cuối cùng được đề cập bằng
cách so sánh với Hình 24 nơi tầm quan trọng kỹ thuật được bao vây.
Hình 26: Sơ đồ mức độ nóng của dòng thời gian hoạt động
33
CÁC CHỈ BÁO CHẤT LƯỢNG SÁNG CHẾ ĐỐI VỚI CÁC CÔNG TY ĐƯỢC CHỌN
Một số phép đo khách quan có thể được thực hiện để đánh giá chất lượng bằng sáng chế.
Hai trong số đó là tỷ lệ đơn được xử lý thành công để được cấp bằng độc quyền sáng chế,
và độ rộng nộp đơn về mặt địa lý. Hình 27 cung cấp thông tin về các khía cạnh này của độ
mạnh của bằng độc quyền sáng chế.
Đối với số đo về tỷ lệ cấp bằng thành công và vì có tính mới, mỗi sáng chế đã được cấp
bằng ở ít nhất một cơ quan có thẩm quyền được tính, và được thể hiện dưới dạng tỷ lệ của
tổng đơn nộp.
Đối với số đo về độ rộng về mặt địa lý, số đơn sáng chế nộp ở Trung Quốc, cơ quan Châu
Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ được xác định và được phản ánh trong chỉ số Thomson Reuters
Quad Patent Index ®. Số đo này không chỉ liên quan đến việc bảo hộ ở thị trường lớn, mà
còn là số đo về độ tin cậy của công ty, bởi vì việc đầu tư cho nộp đơn rộng về mặt địa lý là
đáng kể. Cả hai số đo này đều là các chỉ báo chậm, và có thể đánh giá thấp các công ty
mới đi vào lĩnh vực này. Bảng này được xếp hạng theo tỷ lệ cấp bằng, và các giá trị top
trên được đánh dấu đậm.
Hình 27: Các chỉ báo chất lượng
34
PHẦN 7: CÁC YẾU TỐ CỤ THỂ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
CÁC HỢP CHẤT NỀN TẢNG
Hợp chất nền tảng đối với Atazanavir, được sáng chế ở Novartis (sau đó là Giba-Gelgy)
được trình bày trước trong bảng trích dẫn (Hình 10), nhưng bản đồ này được lặp lại ở đây
thể hiện cả các trích dẫn về phía trước và về phía sau (Hình 29). Các viện dẫn về phía sau
thể hiện kỹ thuật sớm hơn được viện dẫn bởi Novartis, và bởi vì sáng chế được cấp bằng,
điều này ngụ ý rằng hợp chất mà sau đó có tên là Atazanavir là mới so với kỹ thuật sớm
hơn. Kỹ thuật sớm hơn bao gồm các nghiên cứu của Novartis, Abbott, Merck và Roche
(Hình 30). Tài liệu của Roche được quan tâm đặc biệt. Bản đồ trên Hình 31 là bản đồ trích
dẫn về phía trước kể từ sáng chế của Roche được tô đậm, và nó được trích dẫn ở mức
đặc biệt cao, cũng như trường hợp nền tảng đối với thuốc ức chế Proteaza của Roche.
Như có thể thấy từ bản đồ trích dẫn ba thế hệ trên Hình 31. Bằng sáng chế của Roche
được trích dẫn ở mức cao hơn nhiều so với tài liệu về Atazanavir, và chứa 3950 tài liệu
trích dẫn đến nó được công bố từ 1990 đến 2011. Tỷ lệ trích dẫn cao như vậy có khả năng
là do nó khám phá đối với loại thuốc này, thể hiện vào năm 1989 là đích Proteaza HIV-
aspartyl chịu trách nhiệm ức chế hậu quả trong điều biến bệnh. Xem xét các tài liệu được
trích dẫn rất nhiều và kéo dài như bằng sáng chế của Roche, và sau đó phân tích các trích
dẫn phía sau của chúng có thể cho phép hiểu sâu sắc về công trình nền tảng nhất trong
lĩnh vực đã được phát triển tiếp.
Hình 29: Bản đồ trích dẫn của bằng sáng chế về hợp chất nền tảng đối với Atazanavir.
Hoffmann La Roche
Sáng chế
ATZ
nền tảng
Về phía sau
Về phía trước
Sáng chế đột
phá về chất ức
chế Protease
35
Hình 30: Các trích dẫn được thực hiện bởi Bằng sáng chế nền tảng
36
KHÁM PHÁ CHẤT ỨC CHẾ PROTEAZA
Trên Hình 31, bản đồ trích dẫn của Roche đối với sáng chế chất ức chế proteaza của họ
được xếp vào các tài liệu trích dẫn thế hệ thứ nhất đến thứ ba theo năm công bố của
chúng. Trong vài năm đầu tiên, việc trích dẫn ở tần suất thấp bởi vì tài liệu ban đầu vẫn ở
giai đoạn sớm chưa được chú ý. Tỷ lệ trích dẫn được tăng lên nhanh chóng sau đó, với
bảng tỷ lệ trung bình 280 trích dẫn trong một năm từ năm 2000. Dấu mũi tên chỉ ra bằng
sáng chế nền tảng đối với thuốc Atazanavir của Novrtis, mà ở trong nhánh 1998 của bản
đồ, và nhánh này được mở rộng trong hình bên dưới. Cùng với ATZ, nhiều thuốc được phê
duyệt sau này để ức chế proteaza HIV đều viện dẫn tới bằng sáng chế ban đầu của Roche,
và do đó chúng có trong danh sách trích dẫn trong bản đồ trích dẫn này.
Hình 31: Bản đồ trích dẫn của sáng chế về proteaza HIV giai đoạn đầu của Roche
37
CÔNG THỨC
Ngay cả sau khi thuốc được phê duyệt điều quyết định là tạo ra nó ở dạng a) sử dụng
được trong các thử nghiệm lâm sàng, b) có mức độ sinh khả dụng đáng kể, và c) có chu kỳ
bán rã thích hợp trong cơ thể. Ngay từ khi phát triển, năm 1998, Bristol-Myers Squibb đã
phát triển phương pháp tạo ra dạng tốt hơn của Atazanavir, dạng sulfat hóa của thuốc mà
bền vững hơn và có tính sinh khả dụng cao hơn so với dạng được sử dụng ở thử nghiệm
lâm sàng giai đoạn đầu (Hình 32). Sau khi phê duyệt, cũng thường thấy các cố gắng khác
để cải thiện chất lượng của chúng.
Hình 32: Sự phát triển công thức
38
9 Xem Phần 9 trình bày chi tiết hơn về phân loại sáng chế
Trích dẫn phía sau sáng chế của Bristol Myers Squibb bao vây dạng sulfat hóa của
Atazanavir được thể hiện trên Hình 33. Bản đồ trích dẫn phía trên thể hiện rằng một vài chủ
đơn khác nhau trích dẫn sáng chế này, và bản đồ phía dưới là giống như vậy ngoại trừ
màu thay đổi làm nổi bật mục đích của các công ty trích dẫn Bristis-Myers Squibb. Ở bên
phải của phần dưới, các sáng chế màu xanh ngọc có mã phân loại A61P 31/ thuộc bảng
phân loại sáng chế quốc tế (IPC)9 để điều trị HIV. Các công ty này phát triển dạng của
Atazanavir mà có thể được sử dụng đối với HIV. Ở bên trái, các nốt màu xanh nhạt có mã
phân loại (A61P 25/) chỉ ra rằng chúng được quan tâm trong việc phát triển Atazanavir
hoặc các dẫn xuất của nó để điều trị bệnh Alzheimer. Các nốt màu vàng không đề cập đến
điều trị bệnh, mà tập trung vào vấn đề hóa học của Atazanavir.
Hình 33: sáng chế về công thức và hoạt động tiếp theo
tô màu theo chủ sở hữu
A61P 31/ hoặc HIV
A61P 25/ hoặc
Alzheimers
thuần túy hóa học
39
Hình 34: Viện dẫn tới sáng chế về công thức của Bristol-Myers Squibb chỉ ra các mục đích trị bệnh khác nhau
40
SỰ CẢI TIẾN VỀ TỔNG HỢP
Khi sự phát triển thuốc được tiếp tục, nhiều chủ thể có thể quan tâm trong khi sản xuất, đặc
biệt là cách thức để sản xuất thuốc rẻ hơn. Các công ty như vậy có thể có khả năng sản
xuất thuốc cho chủ bằng sáng chế, hoặc nếu sáng chế về hợp chất hết hiệu lực, quy trình
có thể được bán hoặc li-xăng cho các công ty khác để sản xuất sản phẩm thuốc gốc có
tính cạnh tranh. Đơn sáng chế được thể hiện trên Hình 35 là phương pháp tổng hợp
Atazanavir mà được cho rằng có hiệu quả kinh tế để sản xuất ở qui mô lớn.
Hình 35: Giai đoạn tổng hợp của sự phát triển
41
THUỐC ĐỘC QUYỀN VÀ SỰ TRANH CHẤP
Chủ sở hữu của thuốc độc quyền được bảo hộ bởi bằng sáng chế đã bảo vệ quyền sáng
chế của mình chống lại các công ty mà họ tin rằng có xâm phạm quyền. Trong trường hợp
của Atazanavir, Novartis và Bristol Myers Squibb nộp đơn kiện vào 01/04/2010 chống lại
Teva Pharmaceuticals sau khi được thông báo rằng Teva đã nộp một đơn thuốc mới
(ANDA) cho US FDA đối với Atazanavir trước khi các bằng sáng chế số US 5849911 và
US 6087383 của Novartis và Bristol Myers Squibb hết hiệu lực. Đơn kiện chứng minh sự
xâm phạm quyền của Teva và vẫn đang được xét xử ở thời điểm viết bài này. Sự tồn tại
của vụ kiện ở Hoa Kỳ được ghi lại bởi USPTO và có thể tra cứu được trong dữ liệu sáng
chế Hoa Kỳ.
THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG VÀ VIỆC CẤP BẰNG
Hầu hết thử nghiệm lâm sàng không làm tăng khả năng cấp bằng sáng chế vì chúng chỉ có
nghĩa là thử nghiệm tính an toàn và hiệu quả của thuốc đã được thiết lập và ở dạng đã
được cấp bằng sáng chế, nhưng chúng có thể góp phần hỗ trợ thông tin cho chế độ dùng
thuốc đã được bảo hộ sáng chế. Trang tin điện tử của Viện nghiên cứu Y học Quốc gia
Hoa kỳ http:// Chinicaltrials.gov là nơi tập hợp các thông tin về thử nghiệm lâm sàng. Thông
tin trên Hình 36 đối với thử nghiệm của Atazanavir được tập hợp từ trang tin này. Danh
sách 420 thử nghiệm lâm sàng đối với các chất ức chế HIV-proteaza, bao gồm đối tượng,
nhà tài trợ, giai đoạn và trạng thái được cung cấp trong phụ lục C. Một trang hữu ích khác
đối với thông tin lâm sàng là trang tin của Viện công nghệ thông tin sinh học Châu Âu http://
www.ebi.ac.uk/, một phần của phòng thí nghiệm sinh học phân tử Châu Âu.
10 Số hồ sơ 1:11-cv-00353 Court: Delaware
Hình 36: Thử nghiệm lâm sàng Atazanavir
42
Hình 37: Các dạng hỗn hợp
PHẦN 8: HỖN HỢP THUỐC
CÁC DẠNG HỖN HỢP
“Hỗn hợp” là thuật ngữ trong lĩnh vực phát triển thuốc và từ cụ thể này xuất hiện một cách
chắc chắn trong các đơn sáng chế mà bao vây việc trị liệu bằng thuốc liên quan đến nhiều
hơn một chất có hoạt tính sinh học. Các dạng hỗn hợp thuốc có thể khác nhau, và các
dạng chung thường được sơ đồ hóa trên Hình 37.
Có một số hỗn hợp nhằm ngăn ngừa sự phát triển hiện tượng kháng thuốc (sự mô phỏng
hóa sinh hoặc mô phỏng gen), loại khác nhằm ngăn ngừa sự thoái biến của thuốc (có
nghĩa là có thể cần ít thuốc hơn để đạt hiệu quả điều trị) và các loại khác nữa nhằm làm
giảm nhẹ các phản ứng phụ không tránh khỏi gây ra bởi thuốc. Tất cả đã được sử dụng
trong trường hợp Atazanavir. Sự chồng lấn trong sơ đồ này có nghĩa là một số hỗn hợp có
nhiều hơn một mục đích, và cũng có nghĩa là có các hỗn hợp sử dụng nhiều hơn 2 đối
tượng trị liệu.
Các ví dụ về một số loại hỗn hợp được đề cập ở trang tiếp theo, tiếp đó là mạng lưới chồng
lên nhau cho phép mỗi loại hỗn hợp được nhận dạng.
43
Hình 38: Hỗn hợp sử dụng hai thuốc PI và mục đích khi cứu chữa
HAI THUỐC HƯỚNG VỀ MỘT ĐÍCH
Nhiều thuốc có mặt trong nhóm hợp chất ức chế HIV-proteaza. Các thuốc tác động đến
cùng một đích trong chuỗi phản ứng tái tạo HIV thường được sử dụng cùng nhau để làm
giảm khả năng HIV phát triển kháng thuốc bằng cách phát triển các biến thể. Việc điều trị
bằng hai thuốc tấn công vào cùng một đích làm giảm cơ hội gia tăng các biến thể có hiệu
lực, hoặc như trong ví dụ được thể hiện trên hình 38, giúp khắc phục trở ngại là có sự bắt
đầu phát triển.
44
Hình 39: Hỗn hợp dùng cho nhiều đích
HAI THUỐC HƯỚNG TỚI CÁC ĐÍCH KHÁC NHAU
Cách khác để tấn công một tác nhân dạng như virus là tấn công ở các giai đoạn khác nhau
của chu kỳ sống của virus, bao gồm sự tiếp nhận virus vào tế bào, sự bắt đầu của axit
nucleic hoặc protein của virus vào các quá trình tái tạo, sao chép hoặc chuyển dịch mà
chúng cần thiết, các protein tổ hợp virus như HIV proteaza, và các quá trình thoát ra khỏi tế
bào. Các chất ức chế tích hợp ngăn ngừa sự tích hợp của các vùng mã hóa virus vào DNA
của tế bào chủ. Trong ví dụ trên Hình 39, việc điều trị bằng chất ức chế tích hợp được thực
hiện trong hỗn hợp với một chất ức chế nhằm đích khác, một trong số đó là HIV proteaza.
45
Hình 40: Các trích dẫn tới sáng chế hỗn hợp tích hợp.
Các trích dẫn đến tài liệu này chủ yếu đến từ chính Bristol – Myers Squibb, và từ Takeda
và Merek (Angeletti). Trên Hình 40, tất cả các nốt có viền đỏ đều đề cập đến Atazanavir
theo tên, và như trong trường hợp bản ghi được thể hiện, được trình bày là việc điều trị
bằng nhiều loại thuốc với nhiều đích. Đơn của Takeda không đề cập đến Atazanavir, và
thay vào đó chúng hướng đến dipeptidyl peptidaza là phương tiện để can thiệp vào nhiều
thực thể bệnh khác nhau. Takeda phát triển ít nhất một hợp chất tiên phong nhờ sự trợ
giúp của Syrrx Inc.
46
Hình 41: Các sáng chế trích dẫn sáng chế hỗn hợp AIZ - tích hợp của Bristol Myers.
47
Hình 42: Sự chồng lấn giữa các loại đối tượng nhận dạng cỡ của tập hợp chồng lấn.
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHỒNG LẤN ĐỂ TÌM HỖN HỢP QUAN TÂM
Bằng cách phân đoạn tập hợp thành các tập hợp con chồng lấn để giải quyết vấn đề này,
có thể phát triển mạng lưới các tài liệu chồng lấn và cho phép người sử dụng tập trung vào
các sáng chế bao gồm các vùng chồng lấn được quan tâm đặc biệt. Trên Hình 42, điều này
đã được thực hiện đối với tập hợp Atazanavir. Các vùng có mức độ chồng lấn cao, như sử
dụng các chất ức chế proteaza cùng với các chất ức chế enzim phiên bản ngược và các
chất ức chế tích hợp được chú ý, khi tập trung vào bệnh viêm và ung thư. Mạng lưới này
được tạo thành nhờ sử dụng một ứng dụng (Thomson Data Analyzer®) mà cho phép nhấp
chuột trung cập vào các bản ghi quan tâm. Phụ lục Excel cho phép tập trung tương tự nhờ
sử dụng phép lọc.
48
PHẦN 9: SỬ DỤNG CÁC HỆ THỐNG PHÂN LOẠI ĐỂ HỖ TRỢ VIỆC TRA
CỨU
Thay vì tìm kiếm hệ thống phân loại để cố gắng xác định mã phân loại khả dụng để trung
vấn, thường có cách thú vị là sử dụng một tập hợp nhỏ, chính xác để xác định mã phân
loại thực sự được các thẩm định viên sử dụng, dựa vào kinh nghiệm của các thẩm định
viên để xác định xem phân loại nào mà các tài liệu có liên quan nhiều nhất. Mã phân loại
được xác định theo cách này sau đó có thể được sử dụng để tra cứu mở rộng hơn kết hợp
với các từ khóa, hoặc để giới hạn khoảng tập hợp không quan tâm để tạo ra tập hợp liên
quan nhiều hơn. So sánh các phân loại sáng chế được thực hiện đối với các tập hợp nhỏ
tài liệu mà gần nhất với sáng chế về hợp chất Atazanavir. Chú ý đối với tất cả các hệ thống
phân loại là một vài hoặc thậm chí nhiều mã phân loại có thể được áp dụng cho cùng một
sáng chế, bởi vì hầu hết các sáng chế liên quan đến một vài khía cạnh được bao vây bởi
các mã phân loại khác nhau. Nếu chỉ có một mã phân loại duy nhất được sử dụng mà
không giới hạn bằng từ khóa hoặc mã phân loại khác, kết quả truy xuất sẽ chứa nhiều
sáng chế mà có một khía cạnh chung, nhưng theo cách khác có thể sẽ hoàn toàn khác
nhau.
49
HỆ THỐNG PHÂN LOẠI SÁNG CHẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC HỆ THỐNG LIÊN QUAN
Mã IPC là hệ thống phân loại dường như được sử dụng rộng rãi nhất, vì chúng được áp
dụng bất kể nước nộp đơn đầu tiên, và khả dụng rộng rãi trong các hệ thống tra cứu (11).
Các vùng thuộc hai phần của hệ thống phân loại sáng chế quốc tế (IPC) là dễ thấy trong
tập hợp (Hình 43). Phần C liên quan đến hóa học, và phần A liên quan đến thuốc. Mã hóa
học của phần C đáng quan tâm được thành lập từ lâu (IPC phiên bản 2), và chúng được
sử dụng trong toàn bộ khoảng thời gian phát triển Atazanavir. Ngược lại, mã phân loại
kháng virus thuộc phần A được đưa vào muộn hơn nhiều và không bao vây toàn bộ
khoảng thời gian của tập hợp12.
11
12 Mặc dù việc sửa đổi phân loại vào năm 2005 liên quan đến việc áp dụng bị động mã phân loại mới vào tài liệu lưu trữ khi các đơn thành phần trong họ sáng chế đồng dạng tồn tại, mã phân loại A61P31/ thường chỉ ở
một phần nhỏ các tài liệu trong phần sớm hơn của tập hợp Atazanavir
Hình 43: IPC có mức độ liên quan cao
50
Việc sử dụng mã phân loại đặc hiệu HIV A61P 31/ không phải là tốt đối với phần sớm hơn
của tập hợp. Trên Hình 44, sự xuất hiện của nó được so sánh với sự xuất hiện của thuật
ngữ virus hoặc HIV ở tên sáng chế và bản tóm tắt, và hai dạng này lệch hướng ra khỏi
nhau về cơ bản trước 2007. A01P 31/ không hoàn toàn vắng mặt trong giai đoạn sớm hơn
(là kết quả cuả việc phân loại lại tài liệu lưu trữ, phổ biến mã phân loại của đơn đồng dạng
muộn hơn mà được phân loại trực tiếp là A61P 31/).
Bởi vì có ba hệ thống mã phân loại khác trên cơ sở hệ thống IPC, chúng được so sánh
song song với nhau. Mã ECLA (phân loại châu Âu) dựa trên hệ thống IPC, nhưng chi tiết
hơn nhiều. Mã ICO13 (chỉ trong máy tính) là mã nội bộ được các thẩm định viên EPO áp
dụng và sử dụng và chỉ xuất hiện trong các bản ghi điện tử. Chúng có mã của phần là kí tự
alphabet lệch đi 10 kí tự so với dãy mã phân loại tiêu chuẩn (ví dụ: từ M đối với C). Cơ
quan sáng chế Nhật Bản cũng có hệ thống phân loại của mình (mã FI) dựa trên IPC, nhưng
13 Mã ICO nói chung không khả dụng ngoại trừ vài hệ thống độc quyền. Phần ICO được sử dụng trong báo cáo này
nhờ sự cung cấp thông tin của Heiko Wongel từ Cơ quan Sáng chế Châu Âu.
Hình 44: Truy xuất mã phân loại A61P 31/ trong tập hợp
51
đôi khi có sự khác nhau rất đáng kể. Hệ thống này chỉ được sử dụng đối với các tài liệu
của Nhật Bản.
Bởi vì mã phân loại phần C nhất quán hơn trong suốt khoảng thời gian của tập hợp, các
mã phân loại hóa học ở phía trên xuất hiện trong mỗi hệ thống phân loại được xếp hạng
trong hệ thống đó, và các bản xếp hạng được gộp lại trong bảng được thể hiện trên Hình
45. Mã phân loại C07D 213/ (in đậm) có độ hoạt động nhiều nhất trong tất cả các hệ thống
phân loại (IPC, ECLA, FI và ICO). Mã ICO được quan tâm đặc biệt bởi vì chúng chia nhỏ
C07D 213/42 thành M07D 213/42C và M07D 213/42F (42F rất cụ thể với hợp chất dạng
hydrazine, mã bao gồm Atazanavir).
Hình 45. Tóm lược mã phân loại được khảo sát – IPC, ECLA, ICO và JP FI
52
HỆ THỐNG PHÂN LOẠI CỦA HOA KỲ
Hệ thống phân loại của Hoa Kỳ cũ hơn so với hệ thống mã phân loại quốc tế, và được tổ
chức khác hoàn toàn. Toàn bộ là các số, và mỗi phân loại có nhiều phần mà được tổ chức
theo thứ bậc, nhưng việc đánh số theo thứ bậc không được lồng ghét theo cách mà mã
phân loại IPC phù hợp hơn. Điều này có nghĩa là sự liên quan một nhóm/phân nhóm với
nhau không được xác định từ chính các số, mà chúng cần được nghiên cứu tỉ mỉ từng cái
một nhờ sử dụng bản mô tả mã phân loại do Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ
cung cấp.
Mã phân loại US thông thường được thấy trong các tập hợp hóa học con được thể hiện
trên Hình 46. Nhưng số này sau khi định rõ phân loại (3 ký tự đầu tiên), không chuyển tải
mối quan hệ thứ bậc. Mối quan hệ thứ bậc chỉ được chuyển tải bởi mức độ lùi vào trong hệ
thống phân loại US sơ cấp, như được thể hiện bên Hình 47.
Simple Example:
Hình 47. Ví dụ về tính thứ bậc phân loại đối với mã US 546/332
Hình 46. Mã phân loại US tìm thấy trong tập hợp hóa học đích
53
MÃ CHỈ DẪN DERWENT
Mã chỉ dẫn DWPI là mã độc quyền được gắn vào các tóm tắt Derwent bằng các nhà biên
tập có kinh nghiệm. Chúng khả dụng đối với người dùng các giao diện tra cứu khác nhau
(Dialog, STN, Thomson Innovation). Hình 48 thể hiện mã chỉ dẫn DWPI xuất hiện với tần
suất cao nhất trong tập hợp đích chính xác. Những phân loại cụ thể nhất được làm nổi bật.
Các mã này có thứ bậc nhận biết được, và có xu hướng đưa các đối tượng được chia sẻ
quan tâm gần nhất trong thứ bậc này, ví dụ mã B07-D04B đối với sản xuất hợp chất tiếp
theo là B07-D04C đối với sử dụng hợp chất này. Trong hệ thống mã này, mã đối với thuốc
kháng retrovirus (HIV) được đưa nào ở ngày sớm hơn so với trường hợp mã phân loại
IPC.
Hình 48. Việc chọn lọc mã chỉ dẫn DWPI được khảo sát.
54
PHẦN 10: TỔNG KẾT
Nghiên cứu được trình bày ở đây nhằm đề xuất lộ trình hữu ích để nghiên cứu bối cảnh
sáng chế về thuốc được phê duyệt để điều trị một hoặc nhiều chỉ định. Bảng liệt kê dưới
đây đưa ra tóm lược nhanh về các quy trình được trình bày.
1. Tìm hiểu lịch sử đặt tên thuốc.
2. Sử dụng tên lâm sàng chung để tạo ra tập hợp bao vây các giai đoạn sau của sự phát
triển.
3. Sử dụng thông tin SPC, các mối liên kết trích dẫn, các hệ thống phân loại, và các
cách tiếp cận khác để tìm ra sáng chế về hợp chất nền tảng và các sáng chế về hóa học
của hợp chất.
4. Phân loại các dạng hoạt động trong lĩnh vực này bao gồm các chỉ định mới, các công
thức cải tiến, các hỗn hợp với các kết quả cải thiện, các cải tiến về mặt tổng hợp và các
yếu tố khác.
5. Phân tích sự phát triển của thuốc bởi các nhà nền tảng và các nhà cộng tác, nhờ sử
dụng dòng thời gian, tiếp cận địa lý và các chỉ báo chất lượng mà có thể.
6. Phân tích sự phát triển bởi các nhà đóng góp vào lĩnh vực này nhờ sử dụng dòng thời
gian, tiếp cận địa lý và các chỉ báo chất lượng, và so sánh giữa nhà nền tảng và các đối
thủ cạnh tranh của họ.
7. Sử dụng sáng chế nền tảng được trích dẫn ở mức độ cao, nghiên cứu sự phát triển
tiếp theo trong lĩnh vực này, bao gồm sự cải tiến thuốc gốc và cách sử dụng để điều trị
trong chỉ định ban đầu, cũng như việc đạt đến hợp chất thế hệ thứ hai có các đặc tính
mới hoặc tốt hơn, các chỉ định mới để sử dụng thuộc ban đầu, và các chỉ định mới để xử
lý chuỗi phản ứng hóa sinh đích.
Thông tin chi tiết xin liên hệ với WIPO tại địa chỉ
www.wipo.int
World Intellectual Property Organization
34, chemin des Colombettes
P.O. Box 18
CH-1211 Geneva 20
Switzerland
Điện thoại :
+4122 338 91 11
Fax :
+4122 733 54 28
WIPO Publication No. 946/2E ISBN 978-92-805-2176-4
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_toan_canh_sang_che_ve_atazanavir.pdf