Luật BVMT năm 2014 quy định hoạt
động BVMT trong điều tra, đánh giá, lập
quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
đa dạng sinh học. Theo đó, “các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phải
được điều tra, đánh giá thực trạng, khả năng
tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy
hoạch sử dụng hợp lý; xác định giới hạn cho
phép khai thác, mức thuế tài nguyên, phí
BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, bồi
hoàn đa dạng sinh học, bồi thường thiệt hại
về môi trường, các biện pháp khác để bảo vệ
tài nguyên và môi trường”16. Luật BVMT
năm 2014 cũng quy định về BVMT trong
điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên; BVMT trong hoạt
động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng
sản17. Các quy định cụ thể được đề cập trong
các văn bản pháp luật về tài nguyên thiên
nhiên18 liên qua đến các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể. Về nguyên tắc, khi khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, các chủ thể phải có giấy phép do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Tuy
nhiên, dù có hay không có giấy phép thì khi
khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, các
chủ thể vẫn phải đáp ứng các yêu cầu về
BVMT.
Trên thực tế, việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người dân trong hoạt động khai
thác tài nguyên còn nhiều hạn chế. Đảm bảo
quyền tiếp cận quyền sử dụng rừng cho các
chủ thể còn chưa bình đẳng; giữa ban quản
lý rừng, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức
kinh tế, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình,
cá nhân, gọi chung là chủ rừng19. Hoạt
động khai thác khoáng sản trái phép diễn ra
phổ biến. Do đó, theo chúng tôi, cần tiếp cận
tài nguyên thiên nhiên ở cả góc độ kinh tế
(mang lại giá trị vật chất), góc độ môi trường
cùng với các giá trị về mặt xã hội, an ninh
quốc phòng Nhà nước có quy hoạch, kế
hoạch phù hợp để sử dụng hiệu quả, hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên; đồng thời
công khai các số liệu, thông tin liên quan đến
quy hoạch, điều tra số lượng, trữ lượng các
nguồn tài nguyên để người khai thác, sử
dụng tài nguyên tiếp cận, vừa đầu tư khai
thác sinh lời, vừa gắn liền với việc BVMT,
tạo ra sự phát triển bền vững
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BAÃO ÀAÃM QUYÏÌN CON NGÛÚÂI TRONG CHÑNH SAÁCH,
PHAÁP LUÊÅT VÏÌ BIÏËN ÀÖÍI KHÑ HÊÅU ÚÃ VIÏåT NAM
Võ TruNg TíN*
1. Cơ sở lý luận của việc đảm bảo quyền
con người trong chính sách, pháp luật về
biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Quyền con người được sống trong một
môi trường trong lành đang bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do các hoạt động tác động đến
chính môi trường, làm cho môi trường bị ô
nhiễm, suy thoái. Nói một cách khác, chính
con người đang tự tước đoạt quyền được
sống trong điều kiện môi trường trong lành.
Quyền được sống trong một môi trường
trong lành là quyền tự nhiên của con người,
là quyền rất quan trọng vì nó liên quan trực
tiếp đến chất lượng cuộc sống cùng với các
tiêu chí dùng đánh giá chất lượng cuộc sống
như thu nhập bình quân đầu người, hệ thống
an sinh xã hội.
Môi trường trong lành có thể được hiểu
là môi trường vật chất mà chất lượng của nó
cho phép cuộc sống được đảm bảo an toàn,
hài hòa với tự nhiên. Quyền con người được
sống trong một môi trường trong lành, dưới
góc độ pháp lý, là chất lượng môi trường
xung quanh đạt tiêu chuẩn cho phép. Điều
này phụ thuộc vào quy định của từng quốc
gia cụ thể.
Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi
trường con người năm 1972 (Tuyên bố
Stockholm) đã đưa quyền con người được
sống trong môi trường trong lành thành một
nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia.
Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố Stockholm
nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được
sống trong một môi trường chất lượng, cho
phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà
con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ,
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
* ThS. Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay không còn là vấn đề của một
địa phương, hay một quốc gia đơn lẻ nào mà đã trở thành câu chuyện
của toàn nhân loại. Nhận thức đúng đắn và khoa học về những tác hại
của BĐKH để có những giải pháp và hành động thiết thực là yêu cầu cấp
thiết. Bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung, ứng phó với BĐKH và bảo
đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKH nói riêng,
được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau và trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền
con người được sống trong một môi trường trong lành. Bài viết giới thiệu
một số nội dung trong chính sách và pháp luật về BĐKH ở Việt Nam trong
mối tương quan với việc đảm bảo quyền con người.
cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”1.
Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố của Liên hợp
quốc về Môi trường và phát triển bền vững
năm 1992 (Tuyên bố Rio de Janeiro) cũng
khẳng định: “Con người là trung tâm của các
mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con
người có quyền được hưởng một cuộc sống
hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên
nhiên”2. Cộng đồng quốc tế thừa nhận đây là
quyền quan trọng hàng đầu, là mục tiêu hoạt
động BVMT và các quốc gia đều ghi nhận
quyền này trong các văn bản pháp luật của
mình. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu
thế đó, nhất là với tư cách quốc gia ký hai
tuyên bố trên, có trách nhiệm biến quyền
được sống trong môi trường trong lành thành
nguyên tắc pháp lý và thực tế nó đã là
nguyên tắc trong pháp luật môi trường Việt
Nam. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận
một cách tổng quát: “Ở nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp và
pháp luật”. Quyền này được thực hiện thông
qua những quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân như quyền được bồi thường thiệt
hại, quyền tự do tín ngưỡng, quyền khiếu nại
tố cáo,...
Lời nói đầu của Luật BVMT năm 1993
đề cập: “Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước và trách nhiệm của chính quyền các
cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi cá nhân trong việc BVMT nhằm bảo vệ
sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền con
người được sống trong môi trường trong
lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền
của đất nước, góp phần BVMT khu vực và
toàn cầu”. Nguyên tắc này cũng được đề cập
một cách gián tiếp tại khoản 2, Điều 3 Luật
BVMT năm 2005: “BVMT là sự nghiệp của
toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ
quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình cá
nhân”. Đến Luật BVMT năm 2014, nguyên
tắc này được quy định ở khoản 2 Điều 4:
“BVMT gắn kết hài hòa với phát triển kinh
tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em,
thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng
sinh học, ứng phó với BĐKH để bảo đảm
quyền mọi người được sống trong môi
trường trong lành”. Đây không chỉ là
nguyên tắc mà là mục đích của pháp luật về
môi trường, tất cả những quy định của pháp
luật về môi trường đều nhằm thể hiện
nguyên tắc này.
Quyền con người được sống trong một
môi trường trong lành là quyền tự nhiên của
con người, là quyền tạo hóa ban tặng cho con
người. Nhà nước phải ghi nhận vì xuất phát
từ hiện trạng môi trường đáng báo động hiện
nay, tạo cơ sở pháp lý để người dân bảo vệ
quyền được sống trong một môi trường trong
lành (khi nó bị xâm phạm) thông qua các
hoạt động như: biểu tình, mít-tinh, gây sức
ép với Nhà nước, khiếu nại, yêu cầu bồi
thường thiệt hại, Đồng thời, Nhà nước có
trách nhiệm thực hiện những biện pháp cần
thiết để bảo vệ, phục hồi môi trường, đảm
bảo cho người dân được sống trong một môi
trường trong lành. Có nghĩa là khi Nhà nước
đã ghi nhận quyền này thì Nhà nước phải có
trách nhiệm đảm bảo quyền đó được thực
hiện trên thực tế.
2. Chính sách, pháp luật về biến đổi khí
hậu ở Việt Nam
Từ năm 2005, sau khi Nghị định thư
Kyoto có hiệu lực, một số chính sách, pháp
luật trực tiếp liên quan đến BĐKH được ban
hành như Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2005 về
việc tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto
thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về
BĐKH; Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP của
Chính phủ ngày 03/12/2007 giao Bộ Tài
nguyên và Môi trường chủ trì, xây dựng
Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với
BĐKH; Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 02/12/2008
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
1 Xem: Các Công ước quốc tế về BVMT, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 11.
2 Xem: Các công ước quốc tế về BVMT, Tlđd, trang 31.
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với BĐKH; Quyết định số
2139/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 05/12/2011 phê duyệt Chiến lược
quốc gia về BĐKH; Quyết định số
1393/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 25/9/2012 phê duyệt Chiến lược
quốc gia về Tăng trưởng Xanh
Pháp luật liên quan đến BĐKH được quy
định ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trực tiếp
hoặc có liên quan như tài nguyên nước, đa
dạng sinh học, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây
dựng, thủy lợi, giao thông, năng lượng, công
nghiệp, y tế, môi trường Trong đó, Luật
BVMT năm 2014 dành một chương quy định
về ứng phó với BĐKH3 bao gồm các quy
định chung về ứng phó với BĐKH; lồng
ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội; quản lý phát thải khí nhà kính; các
chất làm suy giảm tầng ô-dôn; phát triển
năng lượng tái tạo; sản xuất và tiêu thụ thân
thiện môi trường; thu hồi năng lượng từ chất
thải; phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ, hợp tác quốc tế về ứng phó với
BĐKH. Luật BVMT năm 2014 đặc biệt chú
trọng đến nội dung về phát huy vai trò của
cộng đồng và đảm bảo sự lồng ghép vấn đề
BĐKH trong các văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành, theo đó “Cộng đồng có
quyền được cung cấp và yêu cầu cung cấp
thông tin về biến đối khí hậu, Cộng đồng
có trách nhiệm tham gia các hoạt động ứng
phó với BĐKH”4. Trên thế giới, thích ứng
với BĐKH thường gắn liền từ mô hình cộng
đồng. Việc thích ứng với BĐKH phải được
thực hiện từ cộng đồng, dựa vào cộng đồng
và làm lợi cho cộng đồng. Do đó, có các quy
định nhằm nâng cao nhận thức của cộng
đồng cũng như các biện pháp ứng phó với
BĐKH là hết sức cần thiết, thể hiện rõ nét
đảm bảo quyền con người.
3. Bảo đảm quyền con người trong chính
sách, pháp luật về biến đổi khí hậu
Có thể nhận thấy, vấn đề BĐKH trong
chính sách và pháp luật Việt Nam được tiếp
cận theo cả hai hướng: chính sách, pháp luật
về BĐKH và bước đầu được lồng ghép trong
chính sách, pháp luật của một số ngành, lĩnh
vực có liên quan trực tiếp. Các nội dung về
bảo đảm quyền con người trong chính sách,
pháp luật về BĐKH ở Việt Nam được xây
dựng trên cơ sở nội luật hóa các điều ước
quốc tế liên quan đến BĐKH mà Việt Nam
là thành viên; gắn trách nhiệm thực hiện các
yêu cầu về ứng phó với BĐKH trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các
tổ chức, cá nhân với các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền trong việc thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Có thể đề cập đến
các nội dung chính sau đây:
- Thứ nhất, bảo đảm quyền con người
trong chính sách, pháp luật về BĐKH gắn
với bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi
trường.
Quyền tiếp cận thông tin về môi trường,
một trong những quyền cơ bản của con
người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị.
Trong điều kiện mà xu hướng phát triển kinh
tế kết hợp với BVMT để tạo ra sự phát triển
bền vững ngày càng thể hiện rõ nét thì quyền
tiếp cận thông tin môi trường là một công cụ
hữu hiệu trong việc tăng cường trách nhiệm
cung cấp thông tin của các tổ chức, cá nhân;
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người dân trong việc thực thi chính sách và
quy định về BĐKH. Quyền tiếp cận thông tin
về môi trường là một nội dung thực hiện
nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và đảm bảo
quyền con người được sống trong một môi
trường trong lành; là sự cụ thể hóa các cam
kết quốc tế về môi trường và xu thế chung
trên thế giới và là sự cụ thể hóa các chính
sách BVMT của nước ta5. Là một dạng thông
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
3 Chương IV, bao gồm 9 điều (từ Điều 39 đến Điều 48).
4 Xem Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
5 Xem thêm Võ Trung Tín, Nguyễn Thị Hồng Phượng, “Tiếp cận thông tin môi trường nhằm đảm bảo quyền con người được
sống trong một môi trường không bị ô nhiễm trong Luật BVMT 2005”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 9/2012.
tin về môi trường, thông tin về BĐKH cũng
phải được cung cấp. Luật BVMT năm 2014
quy định: “Cộng đồng có quyền được cung
cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về BĐKH,
trừ các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà
nước”, “Cơ quan quản lý về BĐKH có trách
nhiệm cung cấp thông tin, tổ chức các hoạt
động nâng cao nhận thức cộng đồng và tạo
điều kiện thuận lợi cho cộng đồng tham gia
các hoạt động ứng phó với BĐKH”6.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
có hai phương thức để công chúng tiếp cận
thông tin về môi trường nói chung, thông tin
về BĐKH nói riêng:
Một là, các cơ quan nhà nước, các cơ sở
sản xuất kinh doanh chủ động công khai
thông tin theo quy định và mọi người dân
đều có thể tiếp cận những thông tin này. Đây
là phương thức chủ yếu ở Việt Nam hiện nay.
Đối với phương thức này, pháp luật quy định
rõ những thông tin buộc phải công khai, hình
thức công khai, người có trách nhiệm phải
công khai7. Ưu điểm của phương thức này là
công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin
mà không phải qua những thủ tục phức tạp,
tốn kém nhưng nó cũng có hạn chế là nội
dung và chất lượng thông tin lại tùy thuộc
vào các cơ quan nhà nước, Nhà nước công
bố cái gì, dân biết cái đó.
Hai là, người dân chủ động yêu cầu cơ
quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh
doanh cung cấp thông tin về môi trường như
quyền yêu cầu cung cấp thông tin môi trường
của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, của đại diện cộng đồng dân
cư8. Phương thức tiếp cận thông tin này hiện
chưa phải là kênh tiếp cận thông tin quan
trọng vì pháp luật Việt Nam giới hạn thông
tin mà người dân được chủ động yêu cầu
cung cấp, thủ tục yêu cầu cung cấp phức tạp
(phải thông qua người đại diện cộng đồng
dân cư hoặc những tổ chức chính trị - xã hội,
xã hội - nghề nghiệp)9
Trên thực tế, những quy định về quyền
tiếp cận thông tin về môi trường chủ yếu ở
góc độ xác định trách nhiệm cung cấp thông
tin của các cơ quan nhà nước, quyền tự do
thông tin mang tính nguyên tắc, hơn là tính
thực tiễn. Chất lượng thông tin cung cấp nhìn
chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do
đó, theo chúng tôi, cần quy định rõ việc tiếp
cận thông tin về môi trường là quyền của
người dân, quy định rõ các loại thông tin về
môi trường người dân được phép tiếp cận, cơ
chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi
trường của người dân.
- Thứ hai, bảo đảm quyền con người
trong chính sách, pháp luật về BĐKH gắn
với xây dựng quy hoạch BVMT.
Quy hoạch BVMT giúp có một tầm nhìn
dài hạn và tổng thể về BVMT, gắn kết thực
sự giữa BVMT với phát triển kinh tế - xã hội;
chủ động triển khai công tác BVMT, gắn
BVMT với phát triển kinh tế, an sinh xã hội
và là cơ sở điều chỉnh hoặc xây dựng các quy
hoạch phát triển khác, đặc biệt là phát triển
bền vững. Quy hoạch BVMT phải được xây
dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;
chiến lược BVMT quốc gia bảo đảm phát
triển bền vững; quy hoạch sử dụng đất; bảo
đảm nguyên tắc BVMT.
Luật BVMT năm 2014 quy định các nội
dung liên quan đến nguyên tắc, cấp độ, kỳ
quy hoạch, nội dung quy hoạch, trách nhiệm
lập quy hoạch, tham vấn, thẩm định, phê
duyệt quy hoạch, rà soát và điều chỉnh quy
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
6 Khoản 1, 3 Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
7 Điều 131 Luật BVMT năm 2014.
8 Điều 145, 146 Luật BVMT năm 2014.
9 Xem thêm Phạm Văn Võ, Nguyễn Hoàng Thùy Trang, “Nhà nước pháp quyền và quyền tiếp cận thông tin môi trường”, Hội
thảo quốc tế “Môi trường và Nhà nước pháp quyền: Tăng cường thực thi pháp luật về môi trường ở khu vực Đông Nam
Á”, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tháng 10/2014.
hoạch10. Theo đó, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) lấy ý kiến bằng
văn bản và tổ chức tham vấn cơ quan, tổ
chức có liên quan trong quá trình lập và xây
dựng quy hoạch BVMT cấp quốc gia, cấp
tỉnh. Việc tham vấn ý kiến của các cơ quan,
tổ chức giúp cho việc lập quy hoạch đảm bảo
về nội dung, triển khai thực hiện có hiệu quả.
Tuy nhiên, việc giới hạn phạm vi chủ thể
trong tham vấn là “các cơ quan, tổ chức có
liên quan” là chưa đầy đủ. Quy định này vô
hình chung cho thấy quy hoạch BVMT là
“sân chơi” của cơ quan nhà nước, người dân
đứng ngoài “cuộc chơi” này. Do đó, theo
chúng tôi, đối tượng được tham vấn được mở
rộng đến cộng đồng dân cư.
- Thứ ba, bảo đảm quyền con người
trong chính sách, pháp luật về BĐKH gắn
với xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; các dự án
đầu tư.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực thuộc đối tượng phải lập báo
cáo đánh giá môi trường chiến lược thì báo
cáo đánh giá môi trường chiến lược phải thể
hiện các nội dung ứng phó với BĐKH (tương
tự như thế đối với dự án đầu tư thuộc đối
tượng phải đánh giá tác động môi trường).
Việc tích hợp nội dung ứng phó với BĐKH
trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển
ngành, lĩnh vực, dự án đầu tư phải dựa trên
cơ sở đánh giá tác động qua lại giữa các hoạt
động của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
với môi trường, BĐKH và xây dựng hệ
thống giải pháp BVMT, ứng phó với BĐKH.
Các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh
vực và các dự án đầu tư phải tiến hành đánh
giá môi trường chiến lược (đánh giá tác động
môi trường) theo trình tự, thủ tục được quy
định. Trong đó, tham vấn cũng là nội dung
bắt buộc trong báo cáo đánh giá môi trường
chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi
trường11. Khác hơn quy hoạch BVMT, chủ
thể được tham vấn trong nội dung báo cáo
đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá
tác động môi trường quy định rộng hơn. Đối
với báo cáo đánh giá môi trường chiến lược,
khi thẩm định, Hội đồng thẩm định phải “lấy
ý kiến của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
các chuyên gia liên quan”12. Đối với báo cáo
đánh giá tác động môi trường, chủ dự án đầu
tư phải “tiến hành tham vấn Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thực hiện dự án; các tổ chức và
cộng đồng dân cư chịu tác động trực tiếp bởi
dự án”13.
Trên thực tế, việc tham vấn ý kiến trong
các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược,
đánh giá tác động môi trường còn được đánh
giá là “hình thức”. Các ý kiến được tham vấn
có giá trị tham khảo đối với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc quyết định
triển khai hay không thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực hay
dự án đầu tư chứ không có tính chất quyết
định, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Do đó,
theo chúng tôi, cần quy định rõ cách thức,
đối tượng, thủ tục và giá trị của tham vấn
trong thực hiện hoạt động đánh giá môi
trường chiến lược và đánh giá tác động môi
trường.
- Thứ tư, bảo đảm quyền con người
trong chính sách, pháp luật về BĐKH gắn
với quản lý phát thải khí nhà kính, thu hồi
năng lượng từ chất thải, trong sản xuất và
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
10 Xem các Điều 8 đến Điều 12 Luật BVMT năm 2014.
11 Khoản 8 Điều 15, Điều 21 Luật BVMT năm 2014.
12 Điểm c khoản 3 Điều 10 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh
giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT.
13 Khoản 4, Điều 12 Nghị định số 18/2015/NĐ-CP.
tiêu thụ thân thiện môi trường, trong phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Cho đến nay, chúng ta chưa biết hết
nguyên nhân của BĐKH, nhưng một trong
những nguyên nhân chính đã được thừa nhận
rộng rãi là do con người phát thải quá nhiều
khí nhà kính vào bầu khí quyển, vượt quá
khả năng hấp thụ những khí này của trái đất,
dẫn đến làm gia tăng lượng khí nhà kính
trong bầu khí quyển so với tỷ lệ tự nhiên vốn
có, làm gia tăng hiện tượng hiệu ứng nhà
kính và làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên.
Con người có quyền phát thải khí nhà kính
nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân
với quy mô nhỏ; nhưng đến mức nào đó, thì
việc kiểm soát và quản lý phát thải khí nhà
kính từ các hoạt động của con người là điều
cần thiết. Việc quản lý phát thải khí nhà kính
bao gồm xây dựng hệ thống quốc gia về
kiểm kê khí nhà kính; thực hiện các hoạt
động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội; quản lý bền vững tài
nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng
các - bon rừng, bảo vệ và phát triển các hệ
sinh thái; kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các
quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải
khí nhà kính; hình thành và phát triển thị
trường tín chỉ các - bon trong nước và tham
gia thị trường tín chỉ các - bon thế giới; hợp
tác quốc tế về giảm nhẹ khí nhà kính14.
Để giảm lượng khí nhà kính phát thải
vào bầu khí quyển, cần hạn chế sử dụng
những nguồn tài nguyên thiên nhiên có
nguồn gốc hóa thạch (tài nguyên không thể
phục hồi như dầu lửa, than đá, khí đốt,),
phát triển năng lượng tái tạo (là năng lượng
được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt
trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học
và các nguồn tài nguyên năng lượng có khả
năng tái tạo khác), khuyến khích sản xuất và
tiêu thụ thân thiện môi trường, thu hồi năng
lượng từ chất thải, phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ ứng phó với BĐKH.
Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng công nghệ về ứng phó với BĐKH được
ưu tiên như: phát triển ngành và liên ngành
khoa học về quản lý, đánh giá, giám sát và
dự báo tác động của BĐKH đối với phát triển
kinh tế - xã hội, môi trường, sức khỏe cộng
đồng; hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa
học cơ bản và ứng dụng, phát triển và chuyển
giao công nghệ hiện đại trong giảm nhẹ khí
nhà kính, thích ứng với BĐKH; tăng cường
sức cạnh tranh của các ngành kinh tế, sản
xuất trọng điểm, phát triển nền kinh tế các -
bon thấp và tăng trưởng xanh. Cơ quan, tổ
chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có
trách nhiệm thực hiện hoặc tham gia hoạt
động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng
khoa học công nghệ nhằm ứng phó với
BĐKH15.
Do nguồn lực về kinh tế còn hạn chế nên
nguồn lực cho hoạt động BVMT nói chung
và nguồn tài chính hỗ trợ trong phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ để tìm ra
những nguồn nguyên liệu sạch, công nghệ ít
gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn
chưa tương thích. Giải quyết bài toán BĐKH
phải bao gồm cả các biện pháp về chính trị,
tuyên truyền giáo dục, kinh tế, khoa học
công nghệ và cả pháp lý. Trên thực tế, ở Việt
Nam, việc áp dụng biện pháp tuyên truyền
giáo dục là phổ biến hơn các biện pháp khác.
Do đó, theo chúng tôi, Nhà nước cần dành
khoản chi thích hợp cho hoạt động phòng
ngừa, ứng phó với BĐKH; có nhiều quy định
ưu đãi về tài chính cho những chủ thể đầu tư
tốt các giải pháp tiên tiến trong hoạt động
phát thải.
- Thứ năm, bảo đảm quyền con người
trong chính sách, pháp luật về BĐKH gắn
với hoạt động khai thác bền vững các nguồn
tài nguyên thiên nhiên.
37
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
14 Điều 41 Luật BVMT năm 2014.
15 Điều 43, 44, 45 Luật BVMT năm 2014.
Hoạt động khai thác tài nguyên thiên
nhiên một mặt tác động đến sự suy giảm các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, mặt khác gây
tác động xấu đến môi trường, gia tăng
BĐKH. Tùy thuộc vào khả năng đáp ứng các
nhu cầu của con người mà tài nguyên thiên
nhiên được chia thành: tài nguyên vĩnh viễn
(tài nguyên vô tận); tài nguyên có thể phục
hồi (tài nguyên có khả năng tái tạo); tài
nguyên không thể phục hồi (tài nguyên
không có khả năng tái tạo) Khai thác tài
nguyên không thể phục hồi và sử dụng chúng
trong các hoạt động sản xuất của con người
làm gia tăng lượng khí nhà kính; khai thác
tài nguyên rừng làm giảm hấp thụ khí nhà
kính; trong khi khai thác tài nguyên vĩnh
viễn đang là sự lựa chọn của các quốc gia
trong tương lai. Do đó, khai thác bền vững
các nguồn tài nguyên là hướng tiếp cận giảm
thiểu BĐKH. Đối với tài nguyên vĩnh viễn,
cần triệt để khai thác. Đối với tài nguyên có
thể phục hồi, khai thác trong giới hạn sự
phục hồi. Đối với tài nguyên không thể phục
hồi, phải khai thác tiết kiệm.
Luật BVMT năm 2014 quy định hoạt
động BVMT trong điều tra, đánh giá, lập
quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
đa dạng sinh học. Theo đó, “các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phải
được điều tra, đánh giá thực trạng, khả năng
tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy
hoạch sử dụng hợp lý; xác định giới hạn cho
phép khai thác, mức thuế tài nguyên, phí
BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, bồi
hoàn đa dạng sinh học, bồi thường thiệt hại
về môi trường, các biện pháp khác để bảo vệ
tài nguyên và môi trường”16. Luật BVMT
năm 2014 cũng quy định về BVMT trong
điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên; BVMT trong hoạt
động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng
sản17. Các quy định cụ thể được đề cập trong
các văn bản pháp luật về tài nguyên thiên
nhiên18 liên qua đến các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể. Về nguyên tắc, khi khai
thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, các chủ thể phải có giấy phép do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Tuy
nhiên, dù có hay không có giấy phép thì khi
khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, các
chủ thể vẫn phải đáp ứng các yêu cầu về
BVMT.
Trên thực tế, việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người dân trong hoạt động khai
thác tài nguyên còn nhiều hạn chế. Đảm bảo
quyền tiếp cận quyền sử dụng rừng cho các
chủ thể còn chưa bình đẳng; giữa ban quản
lý rừng, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức
kinh tế, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình,
cá nhân, gọi chung là chủ rừng19. Hoạt
động khai thác khoáng sản trái phép diễn ra
phổ biến. Do đó, theo chúng tôi, cần tiếp cận
tài nguyên thiên nhiên ở cả góc độ kinh tế
(mang lại giá trị vật chất), góc độ môi trường
cùng với các giá trị về mặt xã hội, an ninh
quốc phòng Nhà nước có quy hoạch, kế
hoạch phù hợp để sử dụng hiệu quả, hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên; đồng thời
công khai các số liệu, thông tin liên quan đến
quy hoạch, điều tra số lượng, trữ lượng các
nguồn tài nguyên để người khai thác, sử
dụng tài nguyên tiếp cận, vừa đầu tư khai
thác sinh lời, vừa gắn liền với việc BVMT,
tạo ra sự phát triển bền vững n
38
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
CHÑNH SAÁCH
16 Khoản 1 Điều 35 Luật BVMT năm 2014.
17 Điều 38 Luật BVMT năm 2014.
18 Như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản, Luật Đa dạng
sinh học
19 Khoản 6 Điều 3 Luật BVMT năm 2004 ghi: “Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê
rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng
sản xuất là rừng trồng; nhận chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_con_nguoi_trong_chinh_sach_phap_luat_ve_bien_d.pdf