Quy định các thủ tục tố tụng mang
tính chất chuyên biệt nhằm bảo đảm lợi
ích tốt nhất cho người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can là người dưới 18 tuổi
Xuất phát từ đặc điểm của người dưới
18 tuổi là người chưa có sự trưởng thành
đầy đủ về thể chất và nhận thức nên luôn
cần được sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt của
gia đình và xã hội, kể cả trong trường hợp
có hành vi vi phạm pháp luật. Việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi và áp dụng hình phạt đối với
họ chỉ được tiến hành trong trường hợp
cần thiết, với mục đích chủ yếu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, sống có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội,
trở thành công dân có ích cho đất nước.
Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã xây
dựng các thủ tục tố tụng mang tính chất
chuyên biệt nhằm bảo đảm lợi ích tốt
nhất của những đối tượng này. Cụ thể
là BLTTHS năm 2015 quy định, khi tiến
hành tố tụng đối với vụ án có người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải triệt để tuân thủ nguyên tắc bảo đảm
thủ tục tố tụng thân thiện, bảo đảm lợi
ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi; chỉ
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
áp giải đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can là người dưới 18 tuổi trong
trường hợp thật cần thiết và khi có căn cứ
cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát
và các biện pháp ngăn chặn khác không
có hiệu quả (Điều 419); thời hạn tạm giam
đối với bị can là người dưới 18 tuổi bằng
2/3 thời hạn tạm giam đối với người đủ
18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS; quy
định bắt buộc phải có người bào chữa,
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi tham
gia khi cơ quan tố tụng tiến hành lấy lời
khai, hỏi cung nhằm tăng tính minh bạch,
tạo tâm lý an tâm cho người dưới 18 tuổi;
thời gian được phép lấy lời khai, hỏi cung
không quá hai lần trong một ngày và mỗi
lần không quá hai giờ nhằm bảo đảm phù
hợp với thể trạng và tâm lý của người
dưới 18 tuổi (Điều 421); quy định cụ thể
trình tự, thủ tục, trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, trách nhiệm của
chính quyền sở tại trong việc áp dụng các
biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng
đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn
(các điều 426, 427, 428 và 429).
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Khoa học Kiểm sát
HOÀNG ANH TUYÊN
Số 06 - 2019
Quyền được xét xử công bằng đặt ra các quy trình, thủ tục tố tụng được thiết kế và vận hành theo
hướng đạt được tính công bằng tối đa
trong tất cả các giai đoạn của hoạt động
TTHS, bảo đảm cho các chủ thể tố tụng
những cơ hội giống nhau trong việc
hướng đến kết quả mong muốn trong
hoạt động tố tụng. Việc đảm bảo thực
hiện quyền này góp phần tăng cường dân
chủ, phát huy vai trò tích cực của các chủ
thể tố tụng, bảo đảm tốt hơn quyền con
người trong TTHS.
1. Bảo đảm quyền được xét xử công
bằng qua các nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật tố tụng hình sự
BLTTHS năm 2015 quy định 27
nguyên tắc cơ bản (từ Điều 7 đến Điều
33), ở những cấp độ khác nhau, các
BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
HOÀNG ANH TUYÊN*
* Tiến sĩ, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế và Quản lý
khoa học, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền quan trọng trong tố
tụng hình sự được ghi nhận trong Công ước quốc tế, Hiến pháp và pháp luật quốc
gia của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, việc bảo đảm quyền được xét xử công
bằng được quy định đầy đủ nhất trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2015. Bài viết tập trung phân tích, chỉ rõ bảo đảm quyền được xét xử công bằng
thông qua các nguyên tắc cơ bản và các quy định về điều tra, truy tố và xét xử vụ
án hình sự của BLTTHS năm 2015, là cơ sở để quyền này được thực hiện đầy đủ
trên thực tiễn.
Từ khóa: Quyền được xét xử công bằng, bảo đảm quyền được xét xử công bằng,
tố tụng hình sự.
Ngày nhận bài: 18/9/2019; Ngày biên tập xong: 25/9/2019; Ngày duyệt đăng:
24/12/2019
Right to a fair trial is one of vital rights recognized in International
conventions as well as national Constitutions and laws. In Vietnam, ensuring
this right has been comprehensively prescribed in the Criminal Procedure
Code (CPC) in 2015. By analyzing foundamental principles and regulations
on investigation, prosecution and adjudication criminal cases in the 2015
CPC, this article concentrates on ensuring right to a fair trial so that it can be
fully implemented in reality.
Keywords: Right to a fair trial, ensuring right to a fair trial, criminal
proceedings.
4BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
nguyên tắc này đều thể hiện tinh thần xét
xử công bằng, bảo vệ quyền con người với
hai định hướng: (1) Xử lý nhanh chóng,
kịp thời, công bằng, đúng pháp luật đối
với tội phạm; (2) Đảm bảo không làm ảnh
hưởng tới các quyền hợp pháp của con
người khi tiến hành tố tụng, bảo đảm công
bằng, bình đẳng giữa các chủ thể tố tụng.
Trong số các nguyên tắc cơ bản, có một số
nguyên tắc thể hiện đậm nét quyền được
xét xử công bằng. Cụ thể như sau:
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình
đẳng trước pháp luật” và “Tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm” (Điều 9 và
Điều 26)
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp
luật là một nguyên tắc cơ bản đã được
ghi nhận tại Điều 9 BLTTHS năm 2015.
Nguyên tắc này khẳng định sự công bằng,
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công
dân trước pháp luật TTHS. Sự bình đẳng
thể hiện ở khía cạnh mọi công dân không
phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn
giáo, thành phần, địa vị xã hội, nếu ở địa
vị pháp lý - tố tụng như nhau thì đều có
những quyền và nghĩa vụ như nhau. Bất
cứ người nào phạm tội đều phải được áp
dụng các chế tài do pháp luật hình sự quy
định để xử lý đúng với tội danh tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
đã thực hiện. Để bảo đảm thực hiện yêu
cầu này, các chủ thể tiến hành tố tụng
phải áp dụng thống nhất và có căn cứ các
thủ tục, biện pháp tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án, xác định đầy đủ khách
quan, toàn diện các tình tiết của vụ án để
áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự nhằm xử lý người đã thực hiện
hành vi phạm tội.
Để bảo đảm quyền bình đẳng giữa các
chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và
thực hiện chức năng bào chữa, Điều 26
BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc
“Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”
với nội dung: Trong quá trình khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người khác có thẩm quyền tiến hành
tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa
và người tham gia tố tụng khác đều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để
làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Trong TTHS, mọi hoạt động của các
bên buộc tội và bào chữa đều hướng tới
mục tiêu chứng minh có hay không có
hành vi phạm tội trước Tòa án. Tòa án là
chủ thể giữ vị trí trung tâm trong hệ thống
tố tụng. Hoạt động xét xử vụ án hình sự
được xác định là hoạt động trọng tâm của
TTHS bởi Tòa án là cơ quan duy nhất có
quyền xác định một người đã phạm tội
và đưa ra bản án, quyết định loại, mức
hình phạt áp dụng đối với người phạm
tội. Buộc tội và bào chữa là hai chức năng,
hai mục đích và là hai phương diện hoạt
động tố tụng đối lập phát sinh, tồn tại
biện chứng với nhau trong quá trình tố
tụng. Dù pháp luật TTHS có phân định
rõ diện các chủ thể buộc tội và bào chữa
hay không thì cũng không làm thay đổi
một thực tế rằng luôn tồn tại các chủ thể
thực hiện các hoạt động tố tụng với mục
đích buộc tội và các chủ thể thực hiện
các hoạt động tố tụng với mục đích bào
chữa tại phiên tòa. Để đạt được các mục
đích của mình khi tham gia tố tụng, các
chủ thể buộc tội và bào chữa phải đưa ra
được những tài liệu, đồ vật, chứng cứ và
lập luận để chứng minh các tình tiết của
5Khoa học Kiểm sát
HOÀNG ANH TUYÊN
Số 06 - 2019
vụ án, phải được tranh luận xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ được đưa ra
trước Tòa án. Tòa án là chủ thể trung tâm,
có quyền xem xét, đánh giá các chứng cứ,
lập luận của các bên buộc tội và bào chữa
để xác định sự thật khách quan của vụ án,
đưa ra phán quyết về vụ án. Bảo đảm sự
bình đẳng trước Tòa án trong việc đưa ra
chứng cứ, yêu cầu, kiểm tra, đánh giá các
chứng cứ do các bên đưa ra. Việc bảo đảm
tranh luận bình đẳng giữa các chủ thể bên
buộc tội và bên bào chữa vừa thể hiện tính
dân chủ, khoa học của quy trình TTHS,
vừa có vai trò bảo đảm Tòa án có được cái
nhìn khách quan, toàn diện, chính xác về
vụ án. Nếu Tòa án thiếu khách quan, thiên
vị đối với bên buộc tội hoặc bào chữa sẽ
dẫn đến hậu quả đưa ra phán quyết sai
lầm, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội hoặc người bị hại.
- Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội” (Điều 16)
Trong TTHS ở nước ta, trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Để thực hiện trách nhiệm chứng minh tội
phạm, pháp luật TTHS quy định cho các
chủ thể này các quyền năng pháp lý, Nhà
nước tạo ra các điều kiện về nguồn lực
con người, cơ sở vật chất để các chủ thể
này thực hiện trách nhiệm được giao. Để
tạo cơ sở pháp lý công bằng, bình đẳng
cho việc thực hiện chức năng bào chữa
trong TTHS, BLTTHS quy định nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội tại Điều 16 với nội dung: “Người
bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
thông báo, giải thích và bảo đảm cho người
bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy
đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp
của họ theo quy định của Bộ luật này”. Với
nội dung nêu trên, có thể khẳng định đây
là một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo
đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền và
việc thực hiện quyền bào chữa của trong
TTHS.
- Nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tư của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng” (Điều 21)
Bảo đảm sự vô tư của người tiến hành
tố tụng trong TTHS cũng là một yêu cầu
để bảo đảm công bằng giữa các bên buộc
tội và bào chữa trong TTHS. Để bảo đảm
sự vô tư của người tiến hành tố tụng, Điều
21 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên
tắc bảo đảm sự vô tư của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng. Theo đó, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người
dịch thuật, người giám định, người định
giá tài sản, người chứng kiến không được
tham gia tố tụng nếu có lý do cho rằng
họ có thể không vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ. Khi có lý do xác đáng cho rằng
họ không vô tư khi tham gia vào quá trình
TTHS thì họ phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc buộc phải thay đổi nếu họ không
từ chối. Các điều 60, 61, 62, 63, 64, 73, 84
BLTTHS năm 2015 đều quy định cho bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch nếu có
lý do để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ.
6BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
Người tiến hành tố tụng dù là chủ thể
thực hiện chức năng buộc tội (như Điều
tra viên, Kiểm sát viên) hay là chủ thể
thực hiện chức năng xét xử (như Thẩm
phán) thì họ đều có trách nhiệm xác định
sự thật khách quan của vụ án. Để thực
hiện thẩm quyền, trách nhiệm của mình,
những người tiến hành tố tụng phải tiến
hành các hoạt động tố tụng có sự tham
gia của người tham gia tố tụng thuộc cả
bên buộc tội và bên bào chữa (như: ghi lời
khai, tiếp nhận tài liệu, đồ vật, giải quyết
những yêu cầu của bị can, bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự).
Những người tiến hành tố tụng đều có
trách nhiệm bảo đảm việc thực hiện các
quyền của người tham gia tố tụng trong
mỗi giai đoạn tố tụng từ điều tra, truy tố
đến xét xử vụ án hình sự như thực hiện
các yêu cầu, tiếp nhận chứng cứ, tài liệu,
đồ vật do họ xuất trình để chứng minh có
tội phạm xảy ra hay không, chứng minh
mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; có
trách nhiệm xem xét, đánh giá những
thông tin, tài liệu do các chủ thể là người
tham gia tố tụng thuộc cả bên buộc tội và
bên bào chữa cung cấp để xác định sự thật
của vụ án. Nếu như người tiến hành tố
tụng không vô tư, đối xử thiên vị, tất yếu
sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng về các quyền
chứng minh, quyền yêu cầu, quyền khiếu
nại và những quyền con người, quyền
công dân khác của những người tham gia
tố tụng.
- Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật“
(Điều 25)
Xét xử là hoạt động áp dụng pháp
luật của Toà án. Trong hệ thống cơ quan
Nhà nước, chỉ có Tòa án có quyền xét xử
vụ án hình sự. Việc xét xử của Tòa án chỉ
thực sự đúng đắn, khách quan khi dựa
trên những tài liệu chứng cứ của vụ án và
quy định của pháp luật, có như vậy mới
đảm bảo tính khách quan, vô tư, không bị
phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan
hay chủ quan nào, bảo đảm được sự công
bằng, bình đẳng, nghiêm minh.
Sự độc lập của Tòa án trong hoạt
động xét xử là một yêu cầu quan trọng
để bảo đảm sự vô tư, khách quan của Tòa
án trong việc xác định sự thật của vụ án,
quyết định tội danh, hình phạt được phù
hợp nhất đối với người phạm tội, tạo sự
công bằng, bình đẳng trong TTHS. Chính
vì vậy, Điều 23 BLTTHS năm 2015 quy
định: “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
- Nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể”
(Điều 24)
Việc Tòa án xét xử thận trọng, khách
quan, đúng người, đúng tội, quyết định
hình phạt áp dụng đối với người phạm
tội tương xứng với tính chất, mức độ và
hậu quả do tội phạm gây ra là bảo đảm
quyền công bằng, bình đẳng của người
bị buộc tội trước Tòa án. Điều 24 BLTTHS
năm 2015 quy định nguyên tắc Tòa án
xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Theo nguyên tắc này, việc xét xử các vụ
án ở các cấp Tòa án đều theo chế độ hội
đồng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục
rút gọn. Khi quyết định các vấn đề của vụ
án được thực hiện bằng cách biểu quyết
và quyết định của Hội đồng xét xử là ý
kiến đa số, có như vậy mới tạo điều kiện
cho việc thực hiện công bằng, bình đẳng,
7Khoa học Kiểm sát
HOÀNG ANH TUYÊN
Số 06 - 2019
tránh được sự áp đặt ý chí chủ quan của
bất kỳ cá nhân nào trong thực hiện việc
xét xử của Tòa án.
- Nguyên tắc “Tòa án xét xử kịp thời,
công bằng, công khai” (Điều 25)
Điều 25 BLTTHS năm 2015 quy định
“Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật
định, bảo đảm công bằng”, bảo đảm phù
hợp với Hiến pháp năm 2013: “Người
bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời
trong thời hạn luật định, công bằng, công
khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của
luật thì việc tuyên án phải được công khai”
(khoản 2 Điều 31); và nội luật hóa cam kết
trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, trong đó Công ước của Liên
Hợp quốc về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 xác định, trong quá trình
TTHS: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị
giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu
cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để
Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về
tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự
do nếu việc giam giữ là trái pháp luật”; “Bất
kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử
công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm
quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra
trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc
tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền
và nghĩa vụ của người đó trong tố tụng dân
sự” (các điều 9.1, 9.2, 9.3, 14.1).
Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời đòi
hỏi Tòa án phải xét xử không quá chậm
trễ bởi “Công lý chậm trễ là công lý bất
công”. Tòa án phải xét xử kịp thời không
chỉ liên quan đến khoảng thời gian từ khi
bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn
liên quan đến thời gian xét xử tại tòa và
thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm, tất cả đều không được
trì hoãn quá lâu. Xét xử kịp thời, không
chậm trễ nhằm đảm bảo quyền con người
của người bị buộc tội. Bởi lẽ, khi bị đưa
vào vòng quay tố tụng với tư cách người
bị buộc tội, những người này có thể bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn (như bắt,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú) và bị hạn chế một số quyền trong khi
họ chưa bị coi là có tội theo nguyên tắc
suy đoán vô tội. Chính vì vậy, Tòa án xét
xử kịp thời sẽ nhanh chóng đưa ra phán
quyết; nếu trong trường hợp không kết
tội được thì Tòa án nhanh chóng tuyên họ
vô tội, trả tự do và khôi phục quyền lợi
cho họ.
Nguyên tắc xét xử công bằng thể hiện
ở chỗ, người bị buộc tội phải được xét xử
bởi một phiên tòa mà ở đó, họ được thực
hiện các quyền của mình trong TTHS do
Hiến pháp và pháp luật quy định như:
Được thông báo về phiên tòa, được biết
mình bị xét xử về tội gì, được bào chữa
hay nhờ người bào chữa, được tranh luận
tại phiên tòa, đưa ra các chứng cứ và yêu
cầu. Phiên tòa công bằng là phiên tòa mà
ở đó quyền của các bên tham gia tố tụng
được đảm bảo và đúng trình tự, thủ tục
luật định.
Xét xử công khai là nguyên tắc cơ bản
của hoạt động xét xử các vụ án hình sự
trong TTHS ở nước ta. Điều 25 BLTTHS
năm 2015 quy định Tòa án xét xử công
khai, mọi người đều có quyền tham dự
phiên tòa. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí
mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc
để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính
8BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét
xử kín nhưng phải tuyên án công khai.
Nguyên tắc này tạo điều kiện để nhân dân
kiểm tra công việc xét xử của Tòa án xem
có công minh, khách quan, công bằng và
bình đẳng hay không, có tác dụng nâng
cao trách nhiệm trong việc xét xử của Tòa
án trong việc bảo đảm quyền của các bên
khi tham gia hoạt động tố tụng. Nguyên
tắc xét xử công khai được coi là thuộc
tính quan trọng của các thiết chế dân chủ.
Công khai, minh bạch là một trong những
điều kiện quan trọng để bảo đảm sự công
bằng, bình đẳng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Xét xử công khai là một
quy định có vai trò bảo đảm sự đối xử
công bằng, bình đẳng của Tòa án đối với
các chủ thể tham gia tố tụng.
Nhìn chung, các nguyên tắc nêu trên
của BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp
lý để các chủ thể có thẩm quyền tiến hành
tố tụng đề cao trách nhiệm, tôn trọng và
tạo điều kiện thuận lợi để người tham gia
tố tụng thực hiện các quyền của họ, đặc
biệt là quyền bào chữa; bảo đảm cho chất
lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các
vụ án hình sự ngày càng được nâng cao;
các phiên toà xét xử vụ án hình sự được
tiến hành dân chủ, công bằng và bình
đẳng hơn.
2. Bảo đảm quyền được xét xử công
bằng qua các quy định về điều tra, truy
tố và xét xử vụ án hình sự của Bộ luật tố
tụng hình sự
- Các quy định về quyền được thông
tin và quyền được giải thích về quyền và
nghĩa vụ của người bị buộc tội
Quyền được thông tin về bị buộc tội
là một trong những quyền hết sức quan
trọng của người bị buộc tội (người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) trong
TTHS nhằm đảm bảo cho người này biết
được lý do, nội dung bị buộc tội để họ
thực hiện quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Để bảo đảm cho
người bị bị buộc tội được biết thông tin
về cáo buộc đối với họ, BLTTHS năm 2015
quy định cho những người này được biết
lý do về việc bị bắt, tạm giữ, khởi tố, được
nghe, nhận các lệnh, quyết định tố tụng
liên quan đến họ, được thông báo, giải
thích quyền và nghĩa vụ của họ và bảo
đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ (các
điều 58, 59, 60, 61, 117, 179, 286). Cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích
và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ
của người bị buộc tội theo quy định của
BLTTHS. Trường hợp những người này
thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo
quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ
quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề
nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý
nhà nước (Điều 71).
- Các quy định về quyền được trình
bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc
phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội của
người bị buộc tội
Quyền trình bày lời khai, trình bày
ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội là một quyền có ý nghĩa hết
9Khoa học Kiểm sát
HOÀNG ANH TUYÊN
Số 06 - 2019
sức quan trọng nhằm bảo đảm tốt hơn,
“thực chất” hơn quyền con người, quyền
công dân, đồng thời phù hợp với Công
ước của Liên Hợp quốc về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là
thành viên. Người bị buộc tội chưa phải là
người có tội, họ chỉ là người bị tình nghi
và hầu hết là những người thiếu kiến thức
pháp luật. Khi bị triệu tập, làm việc với
cơ quan tiến hành tố tụng, trước những
người tiến hành tố tụng, nhất là Điều tra
viên được đào tạo bài bản về thủ pháp
điều tra, dày dạn nghiệp vụ thẩm vấn thì
nhiều người bị buộc tội mất bình tĩnh,
thậm chí hoảng loạn, nên cần thời gian để
họ bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc và cần có
người trợ giúp pháp lý để tránh tình trạng
tự đưa mình vào tình thế bất lợi là tự buộc
tội chính mình. Do vậy, BLTTHS năm 2015
quy định người bị buộc tội không phải
đưa ra lời khai, đưa ra ý kiến chống lại
chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội (các điều 58, 59 và 60). Quy định này
là minh bạch, giúp cho người bị buộc tội
thấy rõ quyền của mình, người tiến hành
tố tụng thấy rõ nghĩa vụ bảo đảm quyền
cho người bị buộc tội. Đây cũng là tiền đề
rất quan trọng để thực hiện nguyên tắc
trách nhiệm chứng minh, suy đoán vô tội
và bảo đảm quyền bào chữa, chống bức
cung, dùng nhục hình, dễ dẫn đến oan sai.
- Các quy định về quyền thu thập
chứng cứ, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
yêu cầu
Quyền thu thập chứng cứ là quyền
quan trọng để cả chủ thể buộc tội và bào
chữa thực hiện việc buộc tội hay bào chữa.
Đối với các chủ thể tiến hành tố tụng thực
hiện chức năng buộc tội, có thể khẳng
định pháp luật TTHS đã quy định cho
các chủ thể này một phạm vi thẩm quyền
rất rộng để phát hiện, làm rõ và xử lý đối
với tội phạm. Đối với Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra, ngoài việc tiếp tục kế thừa
14 biện pháp điều tra trong BLTTHS năm
2003 (như khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, lấy lời khai, hỏi cung
bị can, đối chất, nhận dạng), BLTTHS
năm 2015 còn bổ sung 02 biện pháp điều
tra là nhận biết giọng nói và định giá tài
sản. Đối với Viện kiểm sát, BLTTHS năm
2015 quy định Viện kiểm sát trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra trong
trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết
định của Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra hoặc trường hợp phát hiện
có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi
phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu
cầu bằng văn bản nhưng không được
khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra,
bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định
việc truy tố (Điều 166).
Đối với người bị hại: Là người bị thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra, việc bảo
đảm quyền được bồi thường thiệt hại, khôi
phục những giá trị quyền con người đã bị
xâm hại của người bị hại là một yêu cầu
để bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Như vậy, đòi hỏi tất yếu đối với quá trình
tố tụng là phải xác định đầy đủ những
thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội gây
ra cho người bị hại để quyết định những
biện pháp, mức bồi thường phù hợp. Để
bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại của người bị hại, xử lý đối với người
10
BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
phạm tội, BLTTHS năm 2015 quy định
cho người bị hại (hoặc người đại diện hợp
pháp của họ) các quyền để chứng minh
làm rõ hành vi phạm tội, mức độ thiệt hại
do tội phạm gây ra đối với họ như quyền:
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh
giá; Đề nghị giám định, định giá tài sản
theo quy định của pháp luật (Điều 62).
Đối với các chủ thể bị buộc tội:
BLTTHS năm 2015 quy định cho người
bị buộc tội có quyền đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá (các điều 59, 60
và 61); quy định cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm giải
quyết đề nghị trưng cầu giám định và
định giá tài sản của bị can. Trường hợp
chấp nhận đề nghị thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, ra
quyết định trưng cầu giám định hoặc văn
bản yêu cầu định giá tài sản. Trường hợp
không chấp nhận đề nghị thì thông báo
cho người đã đề nghị biết bằng văn bản và
nêu rõ lý do (Điều 214 và Điều 222).
Đối với người bào chữa: BLTTHS năm
2015 quy định người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: Thu
thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu
cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập
chứng cứ, giám định bổ sung, giám định
lại, định giá lại tài sản (Điều 73). Để thu
thập chứng cứ, người bào chữa có quyền:
(1) gặp người mà mình bào chữa, bị hại,
người làm chứng và những người khác
biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về
những vấn đề liên quan đến vụ án; (2) đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan
đến việc bào chữa (Điều 88).
Bên cạnh đó, những người tham gia tố
tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá
nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày
những vấn đề có liên quan đến vụ án.
- Các quy định về bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội
Trong TTHS, để thực hiện nhiệm vụ
phát hiện, xử lý tội phạm, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải chủ động tiến hành tất
cả các hoạt động tố tụng, các biện pháp tố
tụng cần thiết từ khi tiếp nhận tin báo, tố
giác về tội phạm để xác định có dấu hiệu
của tội phạm hay không, quyết định khởi
tố vụ án hình sự, bắt giữ người, khởi tố
bị can, tiến hành điều tra làm rõ hành vi
phạm tội và người phạm tội. Hoạt động
buộc tội được tiến hành ngay từ khi cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện bắt, tạm
giữ, khởi tố bị can. Đối với người bị buộc
tội, ngay sau khi nhận được thông tin cáo
buộc trách nhiệm hình sự của mình, họ
có quyền thực hiện các quyền được pháp
luật quy định để tự bào chữa. BLTTHS
năm 2015 quy định người bào chữa tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường
hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa
tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có
mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra (Điều
74); quy định ngoài luật sư, người đại diện
11Khoa học Kiểm sát
HOÀNG ANH TUYÊN
Số 06 - 2019
của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân
dân còn có trợ giúp viên pháp lý để bào
chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc
diện chính sách; quy định cụ thể thủ tục
đăng ký bào chữa và thời hạn ra văn bản
thông báo người bào chữa là 24 giờ kể từ
khi nhận đủ các loại giấy tờ do người bào
chữa đăng ký để người bào chữa nhanh
chóng tiếp cận với quá trình giải quyết
vụ án (Điều 78); quy định trường hợp bắt
buộc chỉ định người bào chữa cho bị can,
bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định
mức cao nhất là 20 năm tù, chung thân,
tử hình; cho người bị buộc tội có nhược
điểm về thể chất là không thể tự bào chữa,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc là
người dưới 18 tuổi (Điều 76).
Để bảo đảm cho người bào chữa thực
hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, BLTTHS năm 2015 quy định
cho người bào chữa có quyền: có mặt khi
lấy lời khai của người bị bắt; sau mỗi lần
lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm
quyền kết thúc thì có thể hỏi người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can; quy định rõ có
quyền có mặt trong hoạt động đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt
động điều tra khác (kê biên tài sản, khám
người, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc); đề
nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người mình bào chữa; đề nghị triệu tập
người làm chứng, người tham gia tố tụng
khác, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng (Điều 73).
- Các quy định về quyền được tiếp cận
hồ sơ, chứng cứ, tài liệu
Tiếp cận hồ sơ, chứng cứ, tài liệu là
một trong những yêu cầu quan trọng để
thực hiện việc bào chữa của chủ thể bên
bào chữa trong TTHS. Có được sự công
bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa về quyền tiếp cận hồ sơ,
chứng cứ, tài liệu mới bảo đảm có được
sự công bằng giữa bên buộc tội và bên
bào chữa, bởi chỉ khi bên bào chữa được
biết các chứng cứ buộc tội thì mới có thể
thực hiện tốt việc bào chữa. BLTTHS năm
2015 được xây dựng trên nền tảng của mô
hình TTHS thẩm vấn, các tài liệu, đồ vật,
chứng cứ của vụ án thu thập được trong
quá trình tố tụng đều được đưa vào hồ sơ
vụ án do các cơ quan tiến hành tố tụng lập
để thực hiện việc chứng minh tội phạm,
buộc tội trong suốt quá trình tiến hành
tố tụng và bị can, bị cáo, người bào chữa
đều có quyền tiếp cận hồ sơ, chứng cứ,
tài liệu này. Theo đó, BLTTHS năm 2015
quy định cho bị can quyền đọc, ghi chép
bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa
liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc
bản sao tài liệu khác liên quan đến việc
bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi
có yêu cầu (Điều 60); quy định rõ trách
nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong việc tạo điều kiện cho
người bào chữa đọc, ghi chép và sao chụp
tài liệu (Điều 82).
Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP quy
định, khi nhận được văn bản yêu cầu
được đọc, ghi chép tài liệu của bị can thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án có
trách nhiệm chuẩn bị ngay bản sao tài liệu
hoặc tài liệu được số hóa và thông báo
bằng văn bản, trong đó ghi rõ địa điểm,
12
BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG BỘ LUẬT...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
khoảng thời gian hợp lý để bị can có thể
đọc, ghi chép tài liệu. Đối với bị can bị áp
dụng biện pháp tạm giam, cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng cho bị
can đọc, ghi chép tài liệu tại phòng hỏi
cung của cơ sở giam giữ (Điều 6); thời
gian cho bị can được đọc, ghi chép tài liệu
mỗi lần không quá 03 giờ, trong 01 ngày
không quá 02 lần (Điều 7).
- Quy định các thủ tục tố tụng mang
tính chất chuyên biệt nhằm bảo đảm lợi
ích tốt nhất cho người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can là người dưới 18 tuổi
Xuất phát từ đặc điểm của người dưới
18 tuổi là người chưa có sự trưởng thành
đầy đủ về thể chất và nhận thức nên luôn
cần được sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt của
gia đình và xã hội, kể cả trong trường hợp
có hành vi vi phạm pháp luật. Việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi và áp dụng hình phạt đối với
họ chỉ được tiến hành trong trường hợp
cần thiết, với mục đích chủ yếu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh, sống có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội,
trở thành công dân có ích cho đất nước.
Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã xây
dựng các thủ tục tố tụng mang tính chất
chuyên biệt nhằm bảo đảm lợi ích tốt
nhất của những đối tượng này. Cụ thể
là BLTTHS năm 2015 quy định, khi tiến
hành tố tụng đối với vụ án có người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải triệt để tuân thủ nguyên tắc bảo đảm
thủ tục tố tụng thân thiện, bảo đảm lợi
ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi; chỉ
áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp
áp giải đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can là người dưới 18 tuổi trong
trường hợp thật cần thiết và khi có căn cứ
cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát
và các biện pháp ngăn chặn khác không
có hiệu quả (Điều 419); thời hạn tạm giam
đối với bị can là người dưới 18 tuổi bằng
2/3 thời hạn tạm giam đối với người đủ
18 tuổi trở lên quy định tại BLTTHS; quy
định bắt buộc phải có người bào chữa,
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi tham
gia khi cơ quan tố tụng tiến hành lấy lời
khai, hỏi cung nhằm tăng tính minh bạch,
tạo tâm lý an tâm cho người dưới 18 tuổi;
thời gian được phép lấy lời khai, hỏi cung
không quá hai lần trong một ngày và mỗi
lần không quá hai giờ nhằm bảo đảm phù
hợp với thể trạng và tâm lý của người
dưới 18 tuổi (Điều 421); quy định cụ thể
trình tự, thủ tục, trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, trách nhiệm của
chính quyền sở tại trong việc áp dụng các
biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng
đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn
(các điều 426, 427, 428 và 429).
Như vậy, BLTTHS năm 2015 đã có
những quy định cả ở phần các nguyên tắc
cơ bản và cả trong các trình tự, thủ tục tố
tụng ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự, thể hiện quyền
được xét xử công bằng và bảo đảm quyền
này được thực hiện trên thực tế nhằm bảo
đảm bảo đảm công bằng, bình đẳng, hạn
chế việc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm,
bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong TTHS, góp phần bảo đảm an
ninh quốc gia, giữ vững trật tự an toàn
xã hội./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_duoc_xet_xu_cong_bang_trong_bo_luat_to_tung_hi.pdf