Thứ năm, thường xuyên thanh tra, kiểm
tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử
lý hành vi vi phạm pháp luật về quyền TCTT
của công dân nhằm bảo đảm quyền TCTT
cho công dân. Các quy định của pháp luật về
quyền TCTT của công dân sẽ trở thành pháp
luật “trên giấy” nếu như không được tổ chức
thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu
thực hiện pháp luật mà không có khâu kiểm
tra, giám sát và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật thì việc thực hiện pháp luật cũng không
mang lại hiệu quả, thậm chí trở nên hình
thức. Do vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát
việc thực hiện pháp luật và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật về quyền TCTT của công
dân được coi là tiêu chí quan trọng để bảo
đảm quyền TCTT của công dân. Bên cạnh
những quy định pháp luật về xác định địa vị
pháp lý của chủ thể thực hiện quyền TCTT,
trách nhiệm của đối tượng chịu sự cung cấp
thông tin, cần có những quy định để xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát phát hiện
những hành vi của cá nhân người có thẩm
quyền không tạo điều kiện, hoặc cản trở công
dân thực hiện quyền TCTT, xác định trách
nhiệm, xử lý hành vi đối với những cá nhân,
cơ quan không thực hiện nhiệm vụ cung cấp
thông tin; đồng thời, nâng cao năng lực, trách
nhiệm của những cán bộ làm công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về
quyền TCTT của công dân. Dự thảo Luật
TCTT (Dự thảo 2 năm 2015) đã đưa ra các
phương án và các cơ quan có trách nhiệm
kiểm tra, thanh tra và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật về quyền TCTT. Về vấn đề này,
cần bảo đảm tính đồng bộ và phù hợp. Cần
giao cho các cơ quan chuyên trách có thẩm
quyền thanh tra, xử lý vi phạm nhưng cũng
phải huy động các cơ quan giám sát như
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài
ra, cần phát huy vai trò giám sát của xã hội
và nhân dân trong việc bảo đảm quyền TCTT
của công dân. Đó là hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, cộng
đồng dân cư, giám sát của cơ quan báo chí
và giám sát trực tiếp của công dân.
Thứ sáu, phát triển hệ thống dữ liệu
quốc gia về cung cấp thông tin. Như đã phân
tích, yếu tố bảo đảm thực hiện quyền TCTT
rất quan trọng là kinh phí và phương tiện vật
chất. Quyền TCTT của công dân được bảo
đảm thực chất khi hạ tầng thông tin đồng bộ,
và phát triển vì hiện nay phương tiện phổ
biến và hiệu quả nhất cho công dân tìm kiếm,
khai thác thông tin là công nghệ thông tin.
Do vậy, phải ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia tương ứng với các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội. Xây dựng dữ liệu về những
thông tin thuộc bí mật của Nhà nước, những
thông tin hạn chế, những thông tin được
cung cấp theo yêu cầu; đồng thời, đẩy nhanh
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cải
cách thủ tục cung cấp thông tin, bảo đảm
thông tin được cung cấp cho công dân nhanh
chóng, tiện lợi, hiệu quả
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân - Thực trạng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BAÃO ÀAÃM QUYÏÌN TIÏËP CÊÅN THÖNG TIN CUÃA CÖNG DÊN -
THÛÅC TRAÅNG VAÂ MÖÅT SÖË KIÏËN NGHÕ
Hoàng MinH Hội*
Nhu cầu sử dụng thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý, phản ứng linh
hoạt, kịp thời với những thay đổi của xã hội, nâng cao chất lượng dịch
vụ công từ phía Nhà nước ngày càng trở nên cấp bách. Đối với người
dân và doanh nghiệp, quyền tiếp cận thông tin (TCTT) là phương tiện
để bảo vệ và tổ chức thực hiện các quyền khác. Quyền TCTT còn là công
cụ để nhân dân chủ động tham gia quản lý nhà nước và xã hội, giám sát
hoạt động và phản biện các chính sách của Nhà nước. Là quyền hiến định
nhưng trên thực tế việc bảo đảm quyền TCTT của công dân đang tồn tại
những bất cập. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận, thực tiễn và
kiến nghị một số giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền TCTT của công dân ở
Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm, nội dung và các yếu tố bảo
đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân
Công ước quốc tế về các Quyền dân sự
và chính trị năm 1966 đã khẳng định mọi
người đều có quyền tự do tìm kiếm, nhận và
truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không
phân biệt ranh giới, hình thức, phương pháp
tuỳ theo sự lựa chọn của họ. Thiếu thông tin
sẽ tạo cơ hội cho các “thói hư” trong cơ quan
nhà nước (CQNN) xuất hiện như tham
nhũng, lạm quyền, vô trách nhiệm của một
số cán bộ, công chức, dẫn đến nguy cơ xâm
hại đến các quyền con người. Quyền được
thông tin dùng để chỉ quyền của công chúng
được biết thông tin của Nhà nước một cách
chủ động, công khai từ phía Nhà nước và cơ
quan có thẩm quyền. Về nội dung của quyền,
quyền TCTT của cá nhân bao gồm quyền tìm
kiếm, thu thập và sử dụng thông tin nhằm
thoả mãn nhu cầu thông tin. Trong xã hội văn
minh, dân chủ, đa chiều, quyền TCTT là một
trong những quyền cơ bản của cá nhân.
Ở Việt Nam, quyền TCTT được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013: “Công dân có
quyềnTCTTViệc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định” (Điều 25). Trước
đó, Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013
khẳng định: Nhà nước, các CQNN, cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước có trách
nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân. Hiến
pháp cũng khẳng định quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Quan niệm chung được thừa nhận hiện
nay, bảo đảm được hiểu là “làm cho chắc
chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có
đầy đủ những gì cần thiết”1. Ý kiến khác cho
rằng, bảo đảm là trách nhiệm của một chủ
thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền và
lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn thực
hiện được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại
thì phải bồi thường. Đặt trong một ngữ cảnh
để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo đảm, Từ
điển Luật học diễn giải: Nhà nước có trách
nhiệm “bảo đảm cho các quyền công dân đã
được ghi trong các đạo luật phải được thực
thi, phải tạo điều kiện cho công dân hưởng
các quyền đó. Trường hợp có sự vi phạm đến
các quyền của công dân thì phải áp dụng các
biện pháp để loại trừ. Cán bộ, công chức nhà
nước phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong trường hợp họ không hành động để bảo
vệ quyền lợi ích của công dân”2.
Từ những cách tiếp cận trên đây, có thể
hiểu bảo đảm quyền TCTT của công dân là
việc Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và tổ chức
thực hiện các quy định của pháp luật về
quyền được tìm kiếm, thu thập và sử dụng
thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin
theo đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung, bảo đảm quyền TCTT của
công dân là việc các CQNN, người có thẩm
quyền tôn trọng, bảo vệ và tổ chức thực hiện
các quy định của pháp luật về quyền TCTT
của công dân.
Các CQNN, người có thẩm quyền phải
tôn trọng quyền TCTT của công dân thông
qua việc ghi nhận các quyền của công dân
được thể hiện trong Hiến pháp và các quy
định của pháp luật.
Thông tin ngày càng bùng nổ cũng xuất
hiện nguy cơ người dân bị “chìm” trong
những thông tin “rác thải” với những thông
tin thiếu chính xác, thiếu trung thực, hay có
có những thông tin “bẩn” phản ánh sai sự
thật, bịa đặt3. Các CQNN, người có thẩm
quyền phải bảo vệ quyền TCTT, tạo điều
kiện cho công dân sử dụng quyền đó đồng
thời có các biện pháp phòng ngừa, tránh sự
xâm phạm từ phía các chủ thể khác. Các
CQNN và người có thẩm quyền phải có trách
nhiệm và thi hành những biện pháp để bảo
vệ quyền TCTT của công dân; đồng thời,
phải tổ chức thực hiện các quy định của pháp
luật về quyền TCTT.
Các yếu tố bảo đảm: Bảo đảm quyền
TCTT có các yếu tố bảo đảm thực hiện như
pháp lý, kinh tế, xã hội. Pháp luật được coi
là yếu tố cơ bản, quan trọng hàng đầu vì nó
được coi là phương tiện, công cụ để công dân
sử dụng và bảo vệ quyền lợi của mình khi
quyền bị xâm phạm. Chính vì vậy, muốn bảo
đảm tốt quyền TCTT, nhiệm vụ trước hết
phải hoàn thiện pháp luật có chất lượng tốt,
đầy đủ, đồng bộ. Yếu tố về kinh tế (kinh phí),
quyền TCTT tạo ra nền tảng vật chất cần
thiết để công dân hiện thực hóa quyền TCTT
của mình. Yếu tố xã hội thể hiện trình độ dân
trí, ý thức pháp luật và môi trường dân chủ
xã hội tiến bộ có tác động to lớn đến hoạt
động bảo đảm quyền TCTT của công dân.
2. Thực trạng bảo đảm quyền tiếp cận
thông tin của công dân hiện nay
Ở góc độ lập pháp, quyền TCTT của
công dân được thừa nhận là quyền hiến định
và ngày càng được coi trọng. Nếu như Hiến
pháp năm 1992 khẳng định công dân “được
quyền TCTT” thì Hiến pháp năm 2013 đã
khắc phục tư tưởng ban phát đó bằng việc
khẳng định công dân có quyền TCTT. Thay
đổi này thể hiện thái độ tôn trọng quyền con
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, 1999, tr. 36.
2 Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội., 1999, tr. 28.
3 Xem: Đào Trí Úc, Thực tiễn và những yêu cầu thúc đẩy TCTT để xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, trong sách:
“TCTT: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam”, Khoa Luật ĐHQGHN, Nxb ĐHQGHN, Hà Nọi, 2011, tr.495.
người, đặt người dân ở vị trí chủ thể của
quyền, tích cực, chủ động trong việc sử dụng
các quyền đó. Hiến pháp khẳng định việc
thực hiện các quyền tự do ngôn luận, báo chí,
hội họp, lập hội, biểu tình và TCTT theo quy
định của pháp luật. Theo đó, những hoạt
động lập pháp tiến tới pháp điển hóa và ban
hành một đạo luật về quyền TCTT đang
được tiến hành tích cực, khẩn trương4. Trách
nhiệm của CQNN ngày càng được nâng cao,
ngày càng có nhiều thông tin trên các lĩnh
vực mà người dân có quyền tiếp cận. Đặc
biệt, từ năm 2011 đến nay, thực hiện chủ
trương cải cách hành chính, nhiều thông tin
trên các lĩnh vực quản lý hành chính được
công bố công khai trên các trang thông tin
điện tử của các CQNN bảo đảm sự tiện lợi
cho người dân trong việc thực hiện các thủ
tục hành chính. Nhiều văn bản quy định về
trình tự, thủ tục công bố công khai thông tin
đã tạo hành lang pháp lý để các dự án luật
được đăng tải công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng hoặc được tham vấn ý
kiến công chúng rộng rãi để người dân có thể
tham gia góp ý kiến. Nhân dân được xem
truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội; xem Quốc hội thảo luận
tập thể, công khai những vấn đề quan trọng
của đất nước. Công dân hoàn toàn có thể tiếp
cận với các thông tin Chính phủ thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt
là qua các trang tin điện tử của các cấp chính
quyền. Hình thức công khai thông tin hoạt
động của các cơ quan của Chính phủ, Quốc
hội, các bộ, ngành trên các trang thông tin
điện tử đã giải quyết được phần nào nhu cầu
TCTT của người dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên
đây, thực tiễn bảo đảm quyền TCTT của
công dân hiện nay có những bất cập:
Quyền TCTT của công dân chưa thực sự
được bảo đảm vì hiện nay pháp luật chưa xác
định hết trong bộ máy nhà nước những cơ
quan nào phải công bố, công khai thông tin.
Vì chưa xác định được quyền và nghĩa vụ
của CQNN trong việc cung cấp thông tin cho
người dân dẫn đến tình trạng né tránh, đùn
đẩy trách nhiệm cho nhau, hoặc tình trạng
che giấu, bưng bít thông tin, lợi dụng việc
nắm giữ thông tin để trục lợi cá nhân, gây ra
tình trạng bất bình đẳng trong việc thụ hưởng
thông tin. Người dân không có thông tin nên
không thực hiện được quyền giám sát và
phản biện xã hội. Bởi vậy, có ý kiến cho
rằng, “ở chừng mực nào đó, chính sự thiếu
công khai, minh bạch trong các hoạt động
của nhà nước, thiếu thông tin đầy đủ và xác
thực về các hoạt động thực tiễn của công
quyền trên thực tế đã đặt nhân dân với tính
cách là người chủ quyền lực ra ngoài các
quan hệ quyền lực”5.
Pháp luật quy định trách nhiệm cung cấp
thông tin của CQNN trong một số lĩnh vực
trong khi chưa có nhiều quy định coi trọng
quyền này của công dân, nội hàm của quyền
TCTT chưa rõ. Việc thể chế hoá quyền
TCTT được ghi nhận trong văn kiện của
Đảng, trong Hiến pháp thành các quy định
của luật và các văn bản pháp quy còn chậm
và chưa có tính hệ thống. Trong Nhà nước
pháp quyền, công dân có quyền được làm
những gì mà pháp luật không cấm. Theo
nguyên tắc đó, những thông tin nào không
thuộc thông tin bí mật, hay hạn chế tiếp cận
thì công dân có quyền khai thác, sử dụng
miễn là hoạt động này không làm phương hại
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Dự án Luật TCTT đã được trình
Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 10, khóa XIII. Tháng 1/2016, tại Phiên họp thứ 44 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã thảo luận Dự án Luật TCTT.
5 Đào Trí Úc, Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài KX 04-02: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước KX04 (2001-2005) “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Hà Nội, 2006, tr. 291.
đến lợi ích của cá nhân, tổ chức, Nhà nước
và xã hội. Về nguyên tắc, những tài liệu
không chính thức của các CQNN, nếu không
thuộc phạm vi không được công bố, cũng
cần phải công khai hoặc được cung cấp cho
công chúng nhưng yêu cầu này chưa được
đáp ứng. Biên giới xác định thông tin thuộc
dạng bí mật và không bí mật mong manh.
Người dân ở thế bị động, chờ đợi trong khi
nhu cầu thông tin hàng ngày là rất lớn. Bảo
đảm quyền TCTT theo nghĩa phổ quát cần có
đủ những quy định bảo đảm quyền thông tin
của công dân để “phủ” lên và làm lành mạnh
những quan hệ kinh tế - xã hội trong bối cảnh
hội nhập quốc tế và hơn nữa quyền TCTT
của người dân phải được bảo đảm thực hiện
trên các lĩnh vực của đời sống.
Những thông tin hạn chế cung cấp và
những thông tin có tính chất bí mật không
được công bố là những thông tin thuộc bí
mật của Nhà nước, thông tin về đời tư của cá
nhân, thông tin liên quan đến bí quyết kinh
doanh, thông tin trong hoạt động tố tụng,
thông tin về bí mật công tác. Trên thực tế,
tiêu chí phân biệt các thông tin nào là mật và
không mật (như đã phân tích là không rõ
ràng), cho nên, ở một số trường hợp phân
biệt thông tin mật, hay không mật và mật ở
cấp độ nào tùy thuộc ý chí chủ quan của
người đang nắm giữ thông tin. Pháp luật
cũng chưa xác định những thông tin nào là
hạn chế tiếp cận như thông tin về bí mật đời
tư, gia đình gồm những quyền gì hoặc chưa
có quy định cụ thể về những thông tin nào
được coi là bí mật trong công vụ, công tác,
hay những thông tin trong tố tụng ở khâu
nào, liên quan đến vấn đề gì, thuộc tội phạm
nào thì cần được hạn chế tiếp cận.
Hình thức và phương pháp công bố,
công khai thông tin chưa thực sự đa dạng,
phong phú, chủ yếu theo các hình thức
truyền thống như đăng Công báo, đăng báo,
họp báo, tổ chức hội nghị, niêm yết công
khai, phát trên phương tiện truyền thông
Các hình thức cung cấp thông tin theo yêu
cầu của công dân chưa nhiều như công dân
tham gia đối thoại, gửi kiến nghị, thỉnh cầu
đến hoạt động của Nhà nước, hoặc nếu có
quy định của pháp luật thì cũng chưa tổ chức
thực hiện hiệu quả trên thực tế. Ví dụ, theo
nội dung Quy chế Dân chủ ở cơ sở, nhân dân
chỉ có quyền yêu cầu, đề nghị các cá nhân,
tổ chức thực hiện các yêu cầu về kiến nghị
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
Nhà nước nhưng lại thiếu biện pháp trách
nhiệm hoặc chế tài xác định trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức đó nếu không thực hiện
đúng các quy định. Trong Pháp lệnh Thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện hành
có 11 nội dung chính quyền cấp xã phải công
khai cho người dân biết, đồng thời xác định
rõ hình thức công khai, nhưng Pháp lệnh lại
đang “thiếu vắng những quy định bảo đảm
tính minh bạch trong việc công khai. Điều
này dẫn đến tình trạng nhiều địa phương thực
hiện đối phó. Có nơi, dán thông báo nhiều
trang trên bản tin có lưới bảo vệ khiến người
dân và các tổ chức quan tâm khó quan sát
được”6.
Nhiều quy định pháp luật chưa xác định
rõ trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải cung cấp thông tin cũng như chưa
có quy định hình thức, biện pháp xử lý với
các CQNN vi phạm các quy định về công
khai thông tin và hoạt động của các CQNN.
Trong điều kiện thông tin bùng nổ với sự đa
dạng về thông tin trên các lĩnh vực của cuộc
sống, nhu cầu thông tin và quyền TCTT của
công dân cần phải được đáp ứng; tuy nhiên,
trong nhiều lĩnh vực “thông tin đưa ra công
chúng được đánh giá là rất chậm chạp, tản
mạn, đôi khi là trái chiều và ít có sự tổng
hợp, bình luận, đánh giá và đưa ra kết luận
vấn đề để người dân nắm vững thông tin
được tiếp cận. Đặc biệt là chưa đưa ra những
khuyến nghị cho người dân về hậu quả kèm
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Hà Phong (2013), “Thiếu cơ chế giám sát và chế tài xử lý vi phạm”, truy cập ngày 14/12/2013.
theo của thông tin. Trong các chính sách có
liên quan đến thông tin chưa đề cao tính chịu
trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong cung cấp thông tin nói chung và
thông tin thất thiệt cho người dân nói riêng”7.
Quyền TCTT của công dân chưa được
bảo đảm tốt trên thực tế vì không ít cán bộ,
công chức có thói quen giữ thông tin, coi
thông tin là bí mật để vì mục đích cá nhân.
Họ trốn tránh trách nhiệm, không cung cấp
thông tin cho báo chí, hoặc muốn tránh
những rủi ro từ việc cung cấp thông tin. Vì
vậy, một bộ phận công chức chưa thực sự tôn
trọng quyền TCTT của người dân. Tình hình
này dẫn đến bất bình đẳng và công dân bị cản
trở trong quá trình tìm kiếm thông tin. Cơ
chế cung cấp thông tin cho báo chí hiện chưa
cụ thể, rõ ràng, chưa xác định rõ trách nhiệm
tổ chức, cá nhân cụ thể. Những bất cập nói
trên của pháp luật đã dẫn đến thực tế người
dân gặp nhiều khó khăn trong việc TCTT do
các CQNN nắm giữ. Việc thiếu minh bạch,
công khai trong hoạt động quản lý nhà nước
đã phần nào làm hạn chế sự tham gia của tổ
chức, cá nhân vào hoạt động quản lý nhà
nước với tính chất là người giám sát, phản
biện và chưa có cơ chế để người dân tự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình8.
Có thể nhận diện một số nguyên nhân
dẫn đến thực trạng trên đây. Đó là các quy
định về quyền TCTT đang tản mạn trong các
lĩnh vực khác nhau, với nhiều cấp độ hiệu lực
pháp lý như luật, pháp lệnh, nghị định, thông
tư trong đó không ít những quy định tồn tại
ở dạng quy chế nên có giá trị pháp lý thấp.
Nhiều văn bản pháp luật quy định quyền
TCTT của công dân trong các lĩnh vực theo
phương pháp liệt kê, mô tả nên chưa bao quát
đầy đủ các lĩnh vực của cuộc sống, không
phù hợp với nhu cầu TCTT của công dân.
Qua khảo sát các văn bản pháp luật trên cho
thấy, phần nhiều là những quy định mang
tính chất phòng ngừa, bảo đảm công tác
phòng chống tham nhũng có hiệu quả và làm
trong sạch bộ máy nhà nước. Pháp luật thiếu
các quy định về các trường hợp được từ chối
cung cấp thông tin hay phải cung cấp thông
tin và quy trình yêu cầu, cung cấp thông tin
nên việc TCTT của người dân về quản lý
hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân còn chưa rõ ràng. Cơ chế
cung cấp thông tin cho báo chí hiện chưa rõ
ràng, chưa xác định rõ trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân cụ thể cũng như các quy định
về trách nhiệm giải trình của người đứng đầu
hoạt động của Nhà nước. Một nguyên nhân
khác là pháp luật chưa quy định những cơ
quan nào có trách nhiệm cung cấp thông tin,
với những hình thức, phương pháp cụ thể
cùng với đó là thiếu đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác chuyên trách về cung cấp,
phổ biến thông tin cho công dân (với những
quy định rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn,
đạo đức và trách nhiệm). Công tác phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền
TCTT của công dân chưa chú trọng đúng
mức. Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức
được quyền được cung cấp các thông tin có
liên quan đến các chương trình phát triển
kinh tế, xã hội, quy hoạch đô thị, quản lý đất
đai, môi trường Pháp luật quy định chế tài
xử phạt nhưng hình như “chưa có cá nhân
hay cơ quan nào chậm hoặc từ chối cung cấp
thông tin cho báo chí bị xử phạt hay bị phê
bình, nhắc nhở nghiêm khắc”9.
3. Một số kiến nghị tiếp tục bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin của công dân
Thực trạng và nguyên nhân được phân
tích trên đây cho thấy, bảo đảm quyền TCTT
của công dân trong thời gian tới cần những
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7 Lương Văn Tuấn, Quyền TCTT ở Việt Nam hiện nay, ngày 12/11/2015.
8 Hoàng Minh Hội, Lý luận và thực tiễn về quyền con người ở Việt Nam hiện nay, Đề tài Cấp cơ sở, Viện Nhà nước và Pháp
luật, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2015 tr. 45.
9 ngày 20/01/2015.
giải pháp đồng bộ và có tính khả thi. Bên
cạnh việc có đầy đủ các quy định của pháp
luật cần phải tổ chức thực hiện tốt trong cuộc
sống. Nếu không tổ chức thực hiện tốt thì
những quy định pháp luật đó mới chỉ tồn tại
“trên giấy”. Vì vậy, tiếp tục bảo đảm quyền
TCTT của công dân ở Việt Nam hiện nay cần
tiến hành đồng bộ các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, bảo đảm tính đồng bộ trong
nội dung của pháp luật về quyền TCTT. Pháp
luật về quyền TCTT phải phù hợp với các
quan điểm, chủ trương của Đảng, bảo đảm
tính phù hợp với thực tế và ổn định; phù hợp
với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia; tôn trọng thực hiện quyền con
người; phù hợp với nguyên tắc tổ chức quyền
lực của Nhà nước pháp quyền XHCN không
ngừng bảo đảm và phát huy vai trò của nhân
dân. Là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng,
phản ánh cơ sở hạ tầng pháp luật về quyền
TCTT phải phù hợp, không thể “cao hơn”
hay “thấp hơn” trình độ phát triển kinh tế, xã
hội. Pháp luật về quyền TCTT góp phần
phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng lợi dụng
quyền lực để tham nhũng, sách nhiễu, gây
khó khăn, phiền hà cho nhân dân; đồng thời,
pháp luật về quyền TCTT đóng vai trò là
công cụ, phương tiện để công dân thực hiện
các quyền công dân, quyền con người về dân
sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Dự thảo
Luật TCTT. Về hình thức của pháp luật, khẩn
trương hoàn thiện Dự thảo Luật TCTT, trình
Quốc hội thông qua Luật. Luật này phải bảo
đảm tính toàn diện. Ở cấp độ bao quát, Luật
TCTT phải có đầy đủ các chế định pháp luật,
bao gồm cả quy phạm về nội dung và quy
phạm hình thức (quy phạm quy định về trình
tự, thủ tục cung cấp, công bố thông tin). Ở
cấp độ cụ thể, sau khi Luật TCTT được ban
hành phải có đầy đủ các văn bản hướng dẫn
thực hiện, để khi Luật này có hiệu lực thì nó
cũng đã có đủ các điều kiện để có thể được
tổ chức thực hiện. Như vậy, Luật TCTT sẽ
khắc phục được những bất cập, không mâu
thuẫn, chồng chéo, không triệt tiêu lẫn nhau,
bảo đảm sự liên kết chặt chẽ, không tồn tại
độc lập, riêng biệt mà được đặt trong một
chỉnh thể, có sự ràng buộc và thống nhất; bảo
đảm quyền TCTT của công dân và tổ chức.
Luật TCTT phải bảo đảm tính đồng bộ, bảo
đảm sự ăn khớp, nhất quán giữa các văn bản
quy phạm pháp luật khác đang điều chỉnh
về quyền TCTT như Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai,
Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Lưu trữ,
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà
nước Luật TCTT phải loại bỏ sự chồng
chéo trong hệ thống, tức là phải có sự thống
nhất giữa các quy phạm, giữa các chế định
pháp luật, tạo ra lo gic và nhất quán trong
điều chỉnh pháp luật. Luật TCTT phải bảo
đảm tính minh bạch và khả khi, chính xác,
có mục đích rõ ràng của cơ quan ban hành
là bảo đảm quyền khai thác, sử dụng thông
tin của công dân. Các quy định của pháp
luật phải phù hợp và phải bảo đảm dễ thực
thi trong cuộc sống. Ngoài ra, kỹ thuật lập
pháp hiện đại còn yêu cầu ngôn ngữ trong
Luật TCTT phải trong sáng, đơn nghĩa, dễ
hiểu, dễ thực hiện.
Thứ ba, chú trọng công tác giáo dục,
phổ biến pháp luật về quyền TCTT. Quyền
TCTT của công dân được bảo đảm không chỉ
được thể hiện ở nội dung các quy phạm phù
hợp với đường lối của Đảng, với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, được pháp điển
hóa thành các đạo luật có giá trị hiệu lực
pháp lý cao mà quan trọng hơn các quy định
của pháp luật phải nhanh chóng đi vào cuộc
sống, làm cho các đối tượng thực hiện pháp
luật hiểu được nội dung của các văn bản quy
phạm pháp luật về quyền TCTT và thực hiện
một cách nghiêm minh, tự giác. Muốn vậy,
phải thường xuyên coi trọng công tác giáo
dục, tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn sử
dụng pháp luật cho các chủ thể. Nhiệm vụ
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền
TCTT của công dân cần phải được thực hiện
tự giác, với nhiều hình thức và phương pháp.
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về quyền TCTT phải đạt hiệu quả,
sâu rộng không chỉ đến các tầng lớp nhân
dân, các tổ chức quần chúng mà còn đến cả
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác cung cấp thông tin. Quyền TCTT
của công dân được bảo đảm thực hiện khi có
đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ cung cấp thông
tin giỏi chuyên môn, vững vàng về nghiệp
vụ. Do vậy, phải không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng cho cán
bộ thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin;
phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ làm công tác cung cấp, phổ biến
thông tin, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, có chế
độ đãi ngộ hợp lý, tạo điều kiện về phương
tiện làm việc cho đội ngũ cán bộ này. Xây
dựng, kiện toàn cơ quan thực hiện nhiệm vụ
quản lý, thu nhập ý kiến và phản hồi về tình
hình triển khai thực hiện quyền TCTT, có cơ
chế tiếp nhận và phản ánh, kiến nghị, và bảo
đảm quyền khiếu nại, tố cáo cho công dân.
Thứ năm, thường xuyên thanh tra, kiểm
tra giám sát việc thực hiện pháp luật và xử
lý hành vi vi phạm pháp luật về quyền TCTT
của công dân nhằm bảo đảm quyền TCTT
cho công dân. Các quy định của pháp luật về
quyền TCTT của công dân sẽ trở thành pháp
luật “trên giấy” nếu như không được tổ chức
thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu
thực hiện pháp luật mà không có khâu kiểm
tra, giám sát và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật thì việc thực hiện pháp luật cũng không
mang lại hiệu quả, thậm chí trở nên hình
thức. Do vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát
việc thực hiện pháp luật và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật về quyền TCTT của công
dân được coi là tiêu chí quan trọng để bảo
đảm quyền TCTT của công dân. Bên cạnh
những quy định pháp luật về xác định địa vị
pháp lý của chủ thể thực hiện quyền TCTT,
trách nhiệm của đối tượng chịu sự cung cấp
thông tin, cần có những quy định để xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát phát hiện
những hành vi của cá nhân người có thẩm
quyền không tạo điều kiện, hoặc cản trở công
dân thực hiện quyền TCTT, xác định trách
nhiệm, xử lý hành vi đối với những cá nhân,
cơ quan không thực hiện nhiệm vụ cung cấp
thông tin; đồng thời, nâng cao năng lực, trách
nhiệm của những cán bộ làm công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về
quyền TCTT của công dân. Dự thảo Luật
TCTT (Dự thảo 2 năm 2015) đã đưa ra các
phương án và các cơ quan có trách nhiệm
kiểm tra, thanh tra và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật về quyền TCTT. Về vấn đề này,
cần bảo đảm tính đồng bộ và phù hợp. Cần
giao cho các cơ quan chuyên trách có thẩm
quyền thanh tra, xử lý vi phạm nhưng cũng
phải huy động các cơ quan giám sát như
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài
ra, cần phát huy vai trò giám sát của xã hội
và nhân dân trong việc bảo đảm quyền TCTT
của công dân. Đó là hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, cộng
đồng dân cư, giám sát của cơ quan báo chí
và giám sát trực tiếp của công dân.
Thứ sáu, phát triển hệ thống dữ liệu
quốc gia về cung cấp thông tin. Như đã phân
tích, yếu tố bảo đảm thực hiện quyền TCTT
rất quan trọng là kinh phí và phương tiện vật
chất. Quyền TCTT của công dân được bảo
đảm thực chất khi hạ tầng thông tin đồng bộ,
và phát triển vì hiện nay phương tiện phổ
biến và hiệu quả nhất cho công dân tìm kiếm,
khai thác thông tin là công nghệ thông tin.
Do vậy, phải ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia tương ứng với các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội. Xây dựng dữ liệu về những
thông tin thuộc bí mật của Nhà nước, những
thông tin hạn chế, những thông tin được
cung cấp theo yêu cầu; đồng thời, đẩy nhanh
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cải
cách thủ tục cung cấp thông tin, bảo đảm
thông tin được cung cấp cho công dân nhanh
chóng, tiện lợi, hiệu quả n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_dam_quyen_tiep_can_thong_tin_cua_cong_dan_thuc_trang_va.pdf