KẾT LUẬN
Như vậy, xét theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì nhãn hiệu được bảo hộ
không chỉ thỏa mãn yếu tố phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể này với
chủ thể khác mà còn bắt buộc phải là
dấu hiệu nhìn thấy được. Cho nên nhãn
hiệu mùi và nhãn hiệu âm thanh sẽ
không thuộc điều kiện bảo hộ theo Luật
SHTT 2005. Đây có thể xem là một hạn
chế trong quy định về pháp luật sở hữu
trí tuệ của Việt Nam. Vì trên thực tế, sẽ
có rất nhiều trường hợp các chủ thể
muốn đăng ký các dấu hiệu đặc biệt kia
như một đặc trưng của mình nhưng theo
quy định của pháp luật thì họ không thể
bảo hộ dấu hiệu đó của mình không có
khả năng phân biệt. Bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống tuy có điểm giống với
bảo hộ nhãn hiệu truyền thống, nhưng
do tính chất chất đặc thù của nó nên bảo
hộ nhãn hiệu phi truyền thống cũng có
những điểm khác biệt nhất định về điều
kiện, cách thức bảo hộ. Việc xác định
liệu bảo vệ nhãn hiệu phi truyền thống
có sẵn hay không sẽ tùy thuộc vào các
trường hợp cụ thể, bao gồm cả bản chất
của nhãn hiệu cần được bảo vệ, liệu nó
có hoạt động hay không và liệu nó có
được sự khác biệt hay không. Việc lựa
chọn các hình thức bảo vệ nhãn hiệu tốt
nhất, nhận ra rằng quyền sở hữu trí tuệ
thường chồng chéo và hoạt động tập thể
để cung cấp sự bảo vệ rộng nhất. Quyền
nhãn hiệu truyền thống và phi truyền
thống có thể rất hiệu quả khi được sử
dụng song song, vì các biện pháp bảo vệ
của chúng là bổ sung, không loại trừ lẫn
nhau.
Đây chính là nội dung cần quan tâm
khi xem xét đưa vấn đề bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống vào quy định, điều
chỉnh trong luật, cũng như để đảm bảo
sự tương thích pháp luật khi Việt Nam
đã trở thành thành viên của hiệp định
CPTPP và xu thế chung của thế giới.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống theo pháp luật Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
1
BẢO HỘ NHÃN HIỆU PHI TRUYỀN THỐNG THEO PHÁP LUẬT
HOA KỲ VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Nguyễn Phước Quý Quang* và Trần Ngọc Tuấn
Trường Đại học Công nghệ Miền Đông
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
Ngày nhận: 17/8/2019
Ngày phản biện: 25/8/2019
Ngày duyệt đăng: 31/8/2019
TÓM TẮT
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn kiện
liên quan chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 trong đó
có yêu cầu các thành viên phải nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu mùi hương và âm thanh. Trên cơ
sở tham khảo kinh nghiệm của Hoa Kỳ đối với việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống, bài
viết này phân tích, bình luận về điều kiện bảo hộ dấu hiệu đặc biệt và đưa ra một số kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình nội luật hóa việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống.
Từ khóa: Nhãn hiệu phi truyền thống, dấu hiệu, tài sản, người nộp đơn.
Trích dẫn: Nguyễn Phước Quý Quang và Trần Ngọc Tuấn, 2019. Bảo hộ nhãn hiệu phi
truyền thống theo pháp luật hoa kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí
Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 07: 01-15.
*TS. Nguyễn Phước Quý Quang - Chủ tịch Hội đồng Trường, Trường ĐH Công nghệ Miền Đông
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
2
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các
văn kiện liên quan chính thức có hiệu
lực đối với Việt Nam từ ngày 14 tháng
01 năm 2019. Đây là một Hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, với cam
kết mở cửa thị trường, tự do thương mại
cao giữa 11 nước thành viên. Trong đó
doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu
hàng hóa sang các nước thành viên của
công ước, sẽ được hưởng những ưu đãi
đã được cam kết cắt giảm thuế quan, qua
đó góp phần nâng tầm trình độ phát triển
của nền kinh tế, tăng năng suất lao động
và tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng
phát triển các ngành điện tử, công nghệ
cao, sản phẩm nông nghiệp xanh
Bên cạnh những thuận lợi mà CPTPP
mang lại, cũng đặt ra không ít những
thách thức cho chúng ta về kinh tế - xã
hội, thu ngân sách, hoàn thiện khung
khổ pháp lý, đòi hỏi chúng ta cần chủ
động, nỗ lực đổi mới, tiếp tục hoàn thiện
các quy định của pháp luật, thiết lập các
cơ chế quản lý để vừa phù hợp với điều
ước quốc tế nhưng cũng đảm bảo vững
chắc sự ổn định về chính trị - xã hội của
Việt Nam. Trong đó có vấn đề bảo hộ sở
hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ Nhãn
hiệu nói riêng. Hiệp định CPTPP đã tạo
ra một bước tiến mới khi yêu cầu các
thành viên phải nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu
mùi hương và âm thanh.
Nhãn hiệu có vai trò rất quan trọng
trong việc truyền bá thông tin, định vị
niềm tin của khách hàng đối với sản
phẩm, dịch vụ và được xem là một phần
rất lớn trong khối tài sản của doanh
nghiệp. Thông qua nhãn hiệu doanh
nghiệp không chỉ truyền tải thông tin về
đặc điểm, nguồn gốc của hàng hóa, dịch
vụ tới người tiêu dùng mà họ còn gửi
gắm trong đó nhiều thông điệp mang
tính gắn kết, thu hút khách hàng
Chính vì điều đó, các doanh nghiệp ngày
càng quan tâm và đầu tư cho việc xây
dựng nhãn hiệu sao cho có thể phát huy
tối đa tính độc đáo, sáng tạo, mới lạ
nhằm tạo nên sự khác biệt cho các sản
phẩm, dịch vụ của mình và giúp người
tiêu dùng dễ dàng phân biệt hàng hóa
của nhà sản xuất này với nhà sản xuất
khác1. Vì thế, hiện nay bên cạnh xu
hướng sử dụng các dấu hiệu truyền
thống như từ ngữ, hình ảnh, chữ cái, chữ
số, tên riêng, hình ảnh ba chiều, tổ hợp
màu sắc làm nhãn hiệu, nhiều doanh
nghiệp trên thế giới đã hướng tới sử
dụng các dấu hiệu phi truyền thống như
âm thanh, hình ảnh động hay mùi
hương làm nhãn hiệu. Tuy nhiên, với
sự phát triển không ngừng của các hình
thức sáng tạo và xu thế hội nhập sâu
rộng vào các tổ chức quốc tế, khu vực,
việc bảo hộ nhãn hiệu không dừng lại ở
những nhãn hiệu truyền thống như trong
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 mà chúng ta
cần quy định việc bảo hộ nhãn hiệu phi
truyền thống (non-conventional
trademark) như nhãn hiệu mùi (scent
mark), nhãn hiệu âm thanh (sound
mark), nhãn hiệu chuyển động (motion
mark) theo quan điểm của INTA và
Hiệp định CPTPP đã quy định. Tuy
1 Khánh An, Những quy định mới về nhãn hiệu
hàng hóa (2017), Doanh nhân và pháp luật, Báo
pháp luật Việt Nam, số 19 (301), tr.10.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
3
nhiên việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền
thống là một thách thức đối với Việt
Nam vì chúng ta chưa có kinh nghiệm
trong vấn đề này vì vậy cần học hỏi kinh
nghiệm của những nước đã bảo hộ nhãn
hiệu phi truyền thống trong đó có Hoa
kỳ.
2. CƠ SỞ PHÁP LÝ
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ
2005 (SHTT) thì nhãn hiệu được hiểu
“là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau”2. Nếu đơn thuần theo khái niệm
này, thì bất cứ dấu hiệu nào nếu có chức
năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân thì đều được xem là
nhãn hiệu. Tuy nhiên, việc dấu hiệu đó
có được đăng ký bảo hộ dưới dạng là
nhãn hiệu hay không thì phải đáp ứng
các điều kiện được quy định tại Điều 72
Luật SHTT, đó là:
Thứ nhất: là dấu hiệu nhìn thấy được
dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó, được thể hiện bằng một
hoặc nhiều màu sắc;
Thứ hai: có khả năng phân biệt hàng
hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.
Việc bảo hộ nhãn hiệu của pháp luật
Việt Nam theo quan điểm của hiệp hội
nhãn hiệu quốc tế (INTA) là bảo hộ
nhãn hiệu truyền thống (conventional
trademark) và tuân thủ nghĩa vụ tối thiểu
của Hiệp định TRIPs. Đó là những dấu
hiệu mà bản thân nó đã có khả năng tự
2 Khoản 6, Điều 14, Luật SHTT 2005.
phân biệt, người tiêu dùng khi lựa chọn
mua hàng hóa và tiêu dùng dịch vụ dễ
dàng phân biệt nó với các sản phẩm,
dịch vụ cạnh tranh với các dấu hiệu
tương ứng khác bằng các dấu hiệu từ
ngữ, hình ảnh họa tiết nhìn thấy được
gắn lên bao bì sản phẩm, phương tiện
kinh doanh, phương tiện quảng cáo.
3. THẢO LUẬN
Với sự phát triển không ngừng của
các hình thức sáng tạo và xu thế hội
nhập sâu rộng vào các tổ chức quốc tế,
khu vực, việc bảo hộ nhãn hiệu không
dừng lại ở những nhãn hiệu truyền thống
mà chúng ta cần quy định việc bảo hộ
nhãn hiệu phi truyền thống như nhãn
hiệu mùi (scent mark), nhãn hiệu âm
thanh (sound mark), nhãn hiệu chuyển
động (motion mark) theo quan điểm của
INTA và Hiệp định CPTPP đã quy định
tại Điều 18.18: “Loại dấu hiệu có thể
đăng ký làm nhãn hiệu không bên nào
được yêu cầu, như một điều kiện để
được đăng ký, là dấu hiệu phải nhìn thấy
được, cũng như không bên nào được từ
chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do
rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là
âm thanh. Thêm vào đó, mỗi bên phải nỗ
lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi.
Một bên có thể yêu cầu phải có bản mô
tả ngắn gọn và chính xác, hoặc bản thể
hiện dưới dạng đồ họa, hoặc cả hai nếu
phù hợp, của nhãn hiệu”.
Theo quy định tại Điều 1127 Lanham
Act (Đạo luật điều chỉnh về nhãn hiệu
của Hoa Kỳ) tạm dịch: “nhãn hiệu hàng
hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu
tượng hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa
chúng mà được sử dụng bởi một người,
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
4
hoặc được một người có ý định chân
thành là sử dụng nó trongthương mại và
xin đăng ký theo quy định tại luật này để
xác định và phân biệt hàng hóa của
người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc
chủng với hàng hóa được sản xuất hoặc
được bán bởi những người khác và chỉ
ra nguồn gốc của hàng hóa thậm chí cả
khi không xác định được nguồn gốc đó”.
Với khái niệm nhãn hiệu hàng hòa là
“bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình
vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng”... đã
được Tòa án tối cao Hoa Kỳ giải thích
rằng việc sử dụng từ “bất kỳ” trong khái
niệm về nhãn hiệu hoàn toàn mang ý
nghĩa nguyên thủy của từ này3. Điều đặc
biệt của khái niệm nhãn hiệu được đề
cập trong quy định trên đó là, một nhãn
hiệu được xem là nhãn hiệu khi dấu hiệu
đó đáp ứng được đồng thời cả hai chức
năng khác nhau: vừa chỉ ra nguồn gốc
hàng hóa vừa phân biệt hàng hóa của
chủ thể này với hàng hóa của chủ thể
khác. Nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật
Hoa Kỳ đã chia nhãn hiệu thành hai
nhóm, nhóm nhãn hiệu truyền thống và
nhóm nhãn hiệu phi truyền thống. Trong
đó, nhóm nhãn hiệu truyền thống bao
gồm các loại như: từ ngữ, tên gọi, biểu
tượng, khẩu hiệu,...; nhóm nhãn hiệu phi
truyền thống bao gồm: hình dạng sản
phẩm, màu sắc, âm thanh, mùi, vị.
3 Xem tại: Phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ
trong vụ việc Qualitex Co vs Jacobson Products C.,
Inc, 514 U,S. 159 (1995),
https://www.law.cornell.edu/supct/html/93-
1577.ZO.html, (Truy cập ngày 12/7/2019).
Một nhãn hiệu phi truyền thống muốn
được bảo hộ theo pháp luật Hoa Kỳ phải
đảm bảo được hai tiêu chí đó là tính
chức năng và sự khác biệt.
Đối với tính chức năng: nhằm ngăn
cản doanh nghiệp độc quyền một tính
năng sản phẩm hữu ích dưới chiêu bài
xác định tính năng này là nguồn gốc của
sản phẩm. Việc xác định rằng nhãn hiệu
được đề xuất là chức năng tạo thành một
sự phản biện tuyệt đối để đăng ký trên
Sổ đăng bạ chính hoặc bổ sung tại Hoa
Kỳ, bất kể bằng chứng cho thấy nhãn
hiệu được đề xuất có được sự khác biệt.
Để xác định chức năng, Văn phòng bản
quyền sáng chế và nhãn hiệu thương mại
Hoa Kỳ (USPTO) sẽ xem xét:
- Sự tồn tại của các tiện ích rõ ràng
được tiết lộ các lợi thế thực dụng của
tính năng;
- Quảng cáo của người nộp đơn thúc
đẩy lợi thế thiết kế đó;
- Cơ sở lập luận liên quan đến sự sẵn
có của các thiết kế thay thế; và
- Cơ sở lập luận liên quan đến việc
thiết kế có kết quả từ một phương pháp
sản xuất tương đối đơn giản hoặc rẻ tiền.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
5
Ví dụ về nhãn hiệu phi truyền thống
đã được tìm thấy là có chức năng: thiết
kế hình ngũ giác và cong của loa Bose vì
bằng sáng chế tiện ích của Bose, trong
đó tuyên bố rõ ràng về hệ thống loa với
các vách ngăn góc cạnh và mặt cắt hình
ngũ giác cung cấp 'bằng chứng mạnh
mẽ' về chức năng của thiết kế loa Bose4.
Đối với sự khác biệt: tính khác biệt
có được phải thường xuyên được chứng
minh đối với các nhãn hiệu phi truyền
thống thiếu tính khác biệt vốn có. Dấu
hiêu màu, dấu hiệu mùi, hình ba chiều
và hương vị không bao giờ có thể là đặc
biệt, và do đó, bằng chứng về sự khác
biệt có được luôn luôn được yêu cầu để
đăng ký vào sổ đăng bạ chính hoặc bổ
sung tại Hoa Kỳ. Dấu hiệu âm thanh,
dấu hiệu chuyển động có thể có các đặc
biệt vốn có, trong trường hợp đó, không
cần bằng chứng về sự khác biệt có được
sẽ được yêu cầu để đăng ký.
Một ví dụ về nhãn hiệu phi truyền
thống được phát hiện là không có được
sự khác biệt là màu vàng, được General
Mills áp dụng liên quan đến ngũ cốc yến
mạch hình xuyến của thương hiệu
Cheerios. Hội đồng xét xử và kháng cáo
nhãn hiệu (TTAB) cho rằng sự hiện diện
của thị trường ngũ cốc đóng gói màu
vàng từ nhiều nguồn khác nhau - ngay
cả các loại ngũ cốc không được làm từ
yến mạch hoặc không có hình xuyến - sẽ
4Xem tại: Phán quyết của Tòa phúc thẩm khu vực
liên bang trong vụ khiếu nại Văn phòng nhãn hiệu
của Công ty Re Bose, No. 74/734,496 (2006),
https://cases.justia.com/federal/appellate-
courts/cafc/06-1173/06-1173-2011-03-
27.pdf?ts=1411145268 (Truy cập ngày 21/7/2019).
có xu hướng làm mất đi mọi nhận thức
của công chúng về nền màu vàng chủ
yếu như là một chỉ báo nguồn chỉ đến
người nộp đơn5.
Điều 4 Luật SHTT 2005 khái niệm về
nhãn hiệu: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng
để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các
tổ chức, cá nhân khác nhau”. Đây là một
khái niệm mang tính khái quát phù hợp
với thực tiễn cũng như quy định của các
điều ước quốc tế. Điều này được hiện ở
các điểm sau:
5Xem tại: General Mills IP Holdings II, LLC
(2017),
86757390-EXA-13.pdf(Truy cập ngày 21/7/2019).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
6
- Thứ nhất: “nhãn hiệu” dùng để chỉ
những dấu hiệu phân biệt hàng hóa, dịch
vụ. Bên cạnh nhãn hiệu hàng hóa, nhãn
hiệu dịch vụ, các loại nhãn hiệu hiện nay
còn gồm “nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
liên kết, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn
hiệu nổi tiếng”.
- Thứ hai: khái niệm đã xác định chức
năng của nhãn hiệu là để phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
khác nhau.
- Thứ ba: khái niệm không đưa ra
giới hạn hay liệt kê những yếu tố được
đăng ký là nhãn hiệu.
Nhãn hiệu với tư cách là một đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp là
một loại tài sản đặc biệt. Giá trị của nhãn
hiệu nằm ở khả năng khai thác công
dụng của nhãn hiệu, đó chính là khả
năng sử dụng nhãn hiệu một cách độc
quyền. Nhãn hiệu là một loại tài sản
thuộc sở hữu của chủ thể nhất định nên
quyền năng về định đoạt nhãn hiệu vẫn
được ghi nhận và có khả năng thực hiện
trên thực tế. Hơn nữa, xuất phát bởi lý
do nhãn hiệu là một loại tài sản vô hình
và khả năng chiếm giữ nhãn hiệu là bất
khả thi của chủ thể sở hữu, vì vậy khả
năng chủ thể tự xác lập quyền sở hữu
đối với nhãn hiệu thông qua thực tế
chiếm giữ và quản lý nhãn hiệu là không
thể6. Trái lại, quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu chỉ phát sinh và được
bảo vệ bởi Nhà nước thông qua thủ tục
6 Nguyễn Thị Thủy (2018),Bảo hộ nhãn hiệu theo
pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay, Luận
văn Thạc sỉ Luật học, Học viện Khoa học xã hội,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, tr.10.
ghi nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Đối chiếu quy định của Luật SHTT
2005 thì hiện nay nước ta chưa bảo hộ
nhãn hiệu phi truyền thống, mặc dù
trong bối cảnh hiện nay việc sử dụng các
dấu hiệu phi truyền thống đã xuất hiện
nhiều trong các lĩnh vực như: phát thanh
truyền hình, điện ảnh, giải trí, điện tử,
dịch vụ Cho nên, việc bảo hộ nhãn
hiệu phi truyền thống nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp, duy trì trật tự quản lý trong lĩnh
vực sử dụng nhãn hiệu là rất cần thiết và
mang tính tất yếu khách quan trong bối
cạnh hiện nay.
Thực tiễn, pháp luật nước ta đã chấp
nhận bảo hộ một số loại nhãn hiệu phi
truyền thống dựa theo cách phân loại của
INTA đó là bài trí thương mại của công
ty TNHH Nguyễn Cường số đơn 79014
và Tổng công ty thương mại Hà Nội số
đơn 98240 hay nhãn hiệu ba chiều của
Công ty Unza. Tuy nhiên khi thẩm định
nhãn hiệu ba chiều hiện nay chúng ta
chưa có quy tắc rõ ràng là mẫu nhãn
hiệu ba chiều dưới dạng ảnh chụp hoặc
bản vẽ có nhất thiết phải có đủ các hình
chiếu khác nhau hay chỉ cần một hình
chiếu phối cảnh là đủ. Ngoài ra, nhãn
hiệu ba chiều về cơ bản cũng giống như
kiểu dáng công nghiệp, đối tượng mà lẽ
ra nó phải nộp dưới dạng kiểu dáng công
nghiệp thuộc sự điều chỉnh của pháp luật
về kiểu dáng công nghiệp chứ không
phải pháp luật về nhãn hiệu. Do đó, chủ
sở hữu các nhãn hiệu phi truyền thống
của Việt Nam khi đăng ký bảo hộ
thường bị từ chối vì đó là “dấu hiệu,
biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
7
thông thường của hàng hóa, dịch vụ
bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử
dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều
người biết đến”7. Chỉ trong một số rất ít
trường hợp sau khi có đơn khiếu nại và
có khối lượng bằng chứng đủ lớn liên
quan tới việc sử dụng thường xuyên và
liên tục nhãn hiệu phi truyền thống bị từ
chối đó Cục SHTT có thể xem xét cấp
bảo hộ nhãn hiệu đó dựa trên chức năng
phân biệt đạt được thông qua quá trình
sử dụng.
4. KIẾN NGHỊ
Do dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi
truyền thống đều có tính phi vật thể, việc
nhận biết của từng loại dấu hiệu này lại
khác hẳn với nhãn hiệu truyền thống,
cho nên khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống cần có những quy định
chi tiết và cụ thể.
Đối với nhãn hiệu âm thanh
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ,
một đơn đăng ký nhãn hiệu âm thanh sẽ
được cấp văn bằng bảo hộ nếu thỏa mãn
đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất: dấu hiệu âm thanh phải
được thể hiện rõ ràng trong đơn đăng ký,
nghĩa là âm thanh phải được thể hiện
một cách đầy đủ, chính xác trong đơn
đăng ký. Bộ quy tắc thẩm định đơn đăng
ký nhãn hiệu của Hoa Kỳ (the U.S
Trademark Manual Examiming
Procedure – TMEP) định nghĩa một dấu
hiệu âm thanh (tạm dịch) “chỉ dẫn và
phân biệt một sản phẩm hoặc một dịch
vụ thông qua âm thanh hay vì thông qua
7 Điểm b khoản 2 Điều 74 Luật SHTT 2005.
hình ảnh”. Điều đó có nghĩa, chủ đơn
cần phải thể hiện âm thanh dưới hình
thức một khuông nhạc được chia thành
các gạch nhịp cùng bảng miêu tả ký hiệu
âm nhạc để có thể xác định được độ
trầm bổng, độ ngân vang của nó. Đồng
thời họ cần chỉ ra cách thức cũng như
công cụ dùng để tạo ra âm thanh đó.
Ngoài ra, âm thanh cũng có thể ghi vào
vật ghi để nộp kèm theo đơn. Việc này
sẽ đặc biệt cần thiết đối với những âm
thanh không có khả năng thể hiện bằng
khuông nhạc.
Thứ hai: Dấu hiệu âm thanh được nêu
trong đơn phải có khả năng phân biệt
hoặc đã đạt được khả năng phân biệt,
nghĩa là một dấu hiệu âm thanh có được
coi là có tính phân biệt hay không phụ
thuộc vào cảm nhận về thính giác của
người nghe, âm thanh đó có khác biệt
hoặc có tính phân biệt đến mức có khả
năng đánh thức một ý niệm trong tiềm
thức của người nghe mà ý niệm đó gắn
với nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ8.
Phần bản vẽ bản ghi âm của âm
thanh, mùi hương hoặc dấu hiệu không
nhìn thấy được9:
Người nộp đơn không bắt buộc phải
gửi bản vẽ nếu nhãn hiệu chỉ bao gồm
âm thanh (ví dụ: nhạc hoặc từ và nhạc),
8 Nguyễn Tùng Lâm (2017), Bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh theo pháp luật Hoa Kỳ - Kinh nghiệm cho Việt
Nam, Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt
Nam, 3/2017, Số 3, tr.56.
9 Tiểu mục 9, Mục 807 Tài liệu hướng dẫn thủ tục
thẩm định nhãn hiệu (TMEP) của Hoa Kỳ.
(https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/current#/curre
nt/TMEP-800d1e1656.html), (Truy cập ngày
27/7/2019).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
8
mùi hương hoặc các vấn đề hoàn toàn
không trực quan khác. Người nộp đơn
cần ghi rõ trong đơn rằng nhãn hiệu đó
là "dấu hiệu không nhìn thấy". Nếu
người nộp đơn đang nộp đơn thông qua
hệ thống điện tử đăng ký nhãn hiệu
(TEAS) cho một dấu âm thanh, người
nộp đơn nên chọn "dấu âm thanh" làm
loại nhãn hiệu. Nếu người nộp đơn đang
nộp đơn cho nhãn hiệu mùi hương,
người nộp đơn phải chỉ ra rằng loại nhãn
hiệu là "ký tự chuẩn" và nên nhập "dấu
hiệu mùi hương" trong trường "ký tự
chuẩn". USPTO sẽ nhập mã bản vẽ đánh
dấu thích hợp khi ứng dụng được xử lý.
Các nhãn hiệu không trực quan được mã
hóa theo mã bản vẽ đánh dấu 6 trong hệ
thống tìm kiếm tự động.
Ngoài ra, nếu người nộp đơn chọn
"dấu âm thanh" làm loại dấu hiệu trong
ứng dụng TEAS, người nộp đơn sẽ được
yêu cầu cho biết liệu nó có đính kèm tệp
âm thanh hay không. Người nộp đơn
phải nộp bản sao âm thanh của bất kỳ
dấu âm thanh nào. Mục đích của việc tái
tạo này là để bổ sung và làm rõ mô tả
của nhãn hiệu. Việc sao chép chỉ nên
chứa nhãn hiệu đó; nó không có nghĩa là
một mẫu vật. Bản sao phải ở dạng tệp
điện tử ở định dạng .wav, .wmv, .wma,
.mp3, .mpg hoặc .avi và không được
vượt quá kích thước 5 MB vì TEAS
không thể chứa các tệp lớn hơn. Đối với
hồ sơ giấy, phải sao chép các dấu âm
thanh trên đĩa compact ("CD"), đĩa video
kỹ thuật số ("DVD"), băng video hoặc
âm thanh. Người nộp đơn cần chỉ rõ việc
sao chép nhãn hiệu có trên đĩa hoặc băng
có nghĩa là để bổ sung cho mô tả nhãn
hiệu và nó phải được đặt trong tập tin
giấy và không được loại bỏ.
Đối với nhãn hiệu là hỗn hợp bao
gồm cả vật chất trực quan và không trực
quan, người nộp đơn phải gửi bản vẽ mô
tả vấn đề trực quan và mô tả về vấn đề
không trực quan trong phần "mô tả nhãn
hiệu". Người nộp đơn cũng phải nộp một
mô tả chi tiết về nhãn hiệu cho tất cả các
nhãn hiệu không trực quan. Nếu nhãn
hiệu bao gồm nhạc hoặc các từ được đặt
thành nhạc, người nộp đơn gửi bản nhạc
điểm để bổ sung hoặc làm rõ mô tả của
nhãn hiệu.
Nguyên tắc và thủ tục đăng ký bảo
hộ:
Một dấu âm thanh xác định và phân
biệt một sản phẩm hoặc dịch vụ thông
qua âm thanh chứ không phải là phương
tiện trực quan. Dấu âm thanh có chức
năng như các chỉ báo nguồn khi chúng
"giả định hình dạng hoặc sự sắp xếp dứt
khoát" và "tạo ra trong người nghe, tâm
trí một sự liên kết của âm thanh" với một
hàng hóa hoặc dịch vụ.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa
âm thanh độc đáo, khác biệt hoặc đặc
biệt và những âm thanh giống hoặc bắt
chước âm thanh "phổ biến" hoặc những
âm thanh mà người nghe đã tiếp xúc
trong các trường hợp khác nhau, phải
được chứng minh là có được sự khác
biệt. Các dấu hiệu âm thanh "phổ biến"
bao gồm hàng hóa tạo ra âm thanh trong
quá trình hoạt động bình thường của
chúng (ví dụ: đồng hồ báo thức, thiết bị
bao gồm báo động hoặc tín hiệu âm
thanh, điện thoại và báo động an ninh cá
nhân). Do đó, các dấu hiệu âm thanh cho
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
9
hàng hóa tạo ra âm thanh trong quá trình
hoạt động bình thường của chúng chỉ có
thể được đăng ký trên một biểu hiện của
sự khác biệt thu được.
Ví dụ về các nhãn hiệu âm thanh đã
được đăng ký thành công bao gồm âm
thanh la hét Tarzan cho các nhân vật
hành động đồ chơi10, dấu hiệu là một
tiếng hét bao gồm một chuỗi mười âm
thanh, xen kẽ giữa các quảng giọng thật
và giọng giả của giọng nói, như sau: - 1)
âm thanh bán dài trong thanh ghi ngực,
2) âm thanh ngắn phát ra một quãng 8
cộng với 1/5 từ âm thanh trước, 3) âm
thanh ngắn xuống quảng 3 trưởng từ âm
thanh trước, 4) âm thanh ngắn phát ra
âm thanh quảng 3 trưởng từ âm trước, 5)
âm dài xuống một quãng 8 cộng với âm
quảng 3 trưởng từ âm trước, 6) âm ngắn
lên một quãng tám từ âm trước, 7) âm
ngắn phát ra âm quảng 3 trưởng từ âm
thanh trước, 8) một âm thanh ngắn
xuống một quảng 3 trưởngtừ âm thanh
trước đó, 9) một âm thanh ngắn lên một
quảng 3 trưởngtừ âm thanh trước đó, 10)
một âm thanh dài xuống quãng 8 cộng
với 1/5 so với âm thanh trước.
Đối với nhãn hiệu màu
Bản vẽ thể hiện nhãn hiệu màu11: nếu
nhãn hiệu bao gồm màu sắc, bản vẽ phải
10Xem tại: Tình trạng thương hiệu và truy xuất tài
liệu (TSDG),
https://tsdr.uspto.gov/#caseNumber=2210506&caseS
earchType=US_APPLICATION&caseType=DEFA
ULT&searchType=statusSearch(Truy cập ngày
21/7/2019).
11 Tiểu mục 7, Mục 807 Tài liệu hướng dẫn thủ tục
thẩm định nhãn hiệu (TMEP) của Hoa Kỳ.
hiển thị nhãn màu và người nộp đơn
phải đặt tên cho màu sắc, mô tả nơi (các)
màu xuất hiện trên nhãn hiệu và gửi yêu
cầu rằng (các) màu đó là một tính năng
của nhãn hiệu. Nếu người nộp đơn
không yêu cầu màu sắc như một đặc
điểm của nhãn hiệu, người nộp đơn phải
nộp một bản vẽ đen trắng.
Ví dụ về các màu đã được đăng ký
thành công như một nhãn hiệu bao gồm
màu nâu, được đăng ký bởi UPS với mô
tả về nhãn hiệu là áp dụng cho các
phương tiện vận chuyển xe cơ giới và
giao tài sản cá nhân; và một bản vẽ minh
họa mà không có bất kỳ từ ngữ, ký, tự
số12.
(https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/current#/curre
nt/TMEP-800d1e1656.html).
12Xem tại: Tình trạng thương hiệu và truy xuất tài
liệu (TSDG),
https://tsdr.uspto.gov/#caseNumber=2,131,693&case
SearchType=US_APPLICATION&caseType=DEFA
ULT&searchType=statusSearch(Truy cập ngày
21/7/2019).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
10
Đối với nhãn hiệu mùi hương
Chủ đơn cần phải mô tả dấu hiệu mùi
hương sao cho một người bình thường
có thể hiểu được, nộp bản mô tả đó kèm
theo đơn đăng ký nhãn hiệu. Họ có thể
bị yêu cầu phải nộp kèm theo hình ảnh
hoặc sản phẩm thực của sản phẩm sử
dụng nhãn hiệu mùi hương đó. Điều đó
có nghĩa, để được bảo hộ nhãn hiệu mùi
hương theo pháp luật Hoa Kỳ, thì nhãn
hiệu đó phải thể hiện rõ 2 vấn đề đó là
tính chức năng và khả năng phân biệt
của dấu hiệu.
Thứ nhất: Một dấu hiệu mùi hương sẽ
không được bảo hộ nếu có tính chức
năng trùng với mùi tự nhiên của sản
phẩm13.
Thứ hai: Khả năng phân biệt là bản
chất vốn của của dấu hiệu mùi hương
hoặc dấu hiệu này sẽ đạt được thông qua
việc sử dụng trên thực tế14.
Mẫu vật cho mùi hương và hương
vị15: để chỉ ra rằng mẫu vật cho nhãn
hiệu mùi hương hoặc hương vị thực sự
xác định và phân biệt hàng hóa và cho
biết nguồn gốc của chúng, người nộp
13TH, Bảo hộ nhãn hiệu mùi (Scent mart),(xem tại:
https://www.pham.com.vn/chuyen-muc-binh-
luan/bao-ho-nhan-hieu-mui-scent-mark.htmm),
(Truy cập ngày 21/7/2019).
14Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyên Xuân Mỹ Hiền,
Huỳnh Thanh Thịnh (2017),Chế định đăng ký nhãn
hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 5, tr.29.
15Tiểu mục 9, Mục 807 Tài liệu hướng dẫn thủ tục
thẩm định nhãn hiệu (TMEP) của Hoa Kỳ.
(https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/current#/curre
nt/TMEP-800d1e1656.html), (Truy cập ngày
27/7/2019).
đơn phải gửi mẫu có mùi hương hoặc
hương vị phù hợp với mô tả cần thiết về
mùi hương hoặc hương vị. Trong hầu
hết các trường hợp, mẫu vật sẽ bao gồm
chính hàng hóa thực tế bởi vì người
kiểm định có thể ngửi hoặc nếm mùi
hương hoặc hương vị để xác định xem
mẫu vật có sử dụng nhãn hiệu liên quan
đến hàng hóa hay không. Khi nộp mẫu
vật như vậy, người nộp đơn phải ghi rõ
trên chính mẫu vật đó là mẫu thử cho
đơn đăng ký mùi hương hoặc hương vị
để USPTO sẽ định tuyến đúng mẫu vật
đến người kiểm định kiểm tra.
Ví dụ về mùi hương đã được đăng ký
thành công như một nhãn hiệu bao gồm
mùi Play-Doh cho các hợp chất mô hình
đồ chơi và được mô tả là mùi hương của
một mùi hương vani ngọt ngào, hơi xạ
hương, với một chút hương anh đào, kết
hợp với mùi của một muối muối, bột mì
dựa trên lúa mì16.
Việc gửi mẫu cho nhãn hiệu mùi
hương đòi hỏi một số sáng tạo và có thể
bao gồm gửi đến người thẩm định một
sản phẩm có mùi thơm hoặc một lọ dầu
thơm để chứng minh việc sử dụng nhãn
hiệu này.Mặc dù bảo vệ nhãn hiệu cho
một hương vị là có thể hiểu được về mặt
kỹ thuật, nhưng thực tế, nó sẽ rất khó
xảy ra. Hiện tại không có nhãn hiệu
hương vị đã đăng ký và Hội đồng xét xử
và kháng cáo nhãn hiệu (TTAB) và các
16Xem tại: Tình trạng thương hiệu và truy xuất tài
liệu (TSDG),
https://tsdr.uspto.gov/#caseNumber=5467089&caseS
earchType=US_APPLICATION&caseType=DEFA
ULT&searchType=statusSearch(Truy cập ngày
21/7/2019).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
11
tòa án liên bang đã liên tục chống lại
việc bảo vệ nhãn hiệu đối với hương vị.
Các sản phẩm được sản xuất cho con
người, như thực phẩm và đồ uống có
hương vị dễ chịu, có thể sẽ bị loại khỏi
việc bảo vệ hương vị hoặc hương vị dựa
trên tính chức năng. Nếu một sản phẩm
không được sản xuất cho con người và
vì lý do nào đó có hương vị, sản phẩm
đó sẽ là một ứng cử viên có khả năng
bảo vệ nhãn hiệu hơn vì nó có thể vượt
qua rào cản chức năng.
Đối với nhãn hiệu hình ảnh động
trên giao diện điện tử
Chủ đơn cần phải thể hiện hình ảnh
động dưới dạng một chuỗi các hình ảnh
được bố trí theo thứ tự thay đổi, ẩn hiện,
biến động của nó khi được biểu lộ ra bên
ngoài mà ai cũng có hết nhìn rõ và đầy
đủ các chuỗi hình ảnh đó. Bên cạnh đó,
cần phải nộp kèm theo bản mô tả để giải
thích các hình ảnh nối tiếp nhau diễn tả
điều gì, mang thông điệp ra sao. Ngoài
ra, vật ghi dữ liệu hình ảnh động kèm
chương trình thể hiện nó cũng rất có ý
nghĩa để xác định hình ảnh này.
Dấu hiệu với chuyển động17: nếu
nhãn hiệu có chuyển động, bản vẽ có thể
mô tả một điểm duy nhất trong chuyển
động hoặc bản vẽ có thể mô tả tối đa
năm khung hình cho thấy các điểm khác
nhau trong chuyển động, tùy theo mô tả
tốt nhất ấn tượng thương mại của nhãn
17Tiểu mục 11, Mục 807 Tài liệu hướng dẫn thủ tục
thẩm định nhãn hiệu (TMEP) của Hoa Kỳ.
(https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/current#/curre
nt/TMEP-800d1e1656.html), (Truy cập ngày
27/7/2019).
hiệu. Nếu nhãn hiệu bao gồm chuyển
động (nghĩa là chuyển động lặp đi lặp lại
trong thời gian ngắn) như một tính năng,
người nộp đơn có thể gửi một bản vẽ mô
tả một điểm duy nhất trong chuyển động
hoặc người nộp đơn có thể gửi một bản
vẽ vuông có tối đa năm khung hình đóng
khung hiển thị điểm khác nhau để mô tả
tốt nhất ấn tượng thương mại của nhãn
hiệu.
Ví dụ về nhãn hiệu chuyển động đã
được đăng ký thành công bao gồm:
chuyển động trong đó cánh cửa của một
chiếc xe được mở, thuộc sở hữu của
Automobil Lamborghini SpA với yêu
cầu về sự khác biệt có được, với mô tả
của nhãn hiệu là bao gồm chuyển động
độc đáo trong đó cửa xe được mở. Các
cửa di chuyển song song với thân xe
nhưng dần dần được nâng lên phía trên
xe đến vị trí song song.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
12
Dấu ba chiều
Nếu nhãn hiệu có các đặc điểm ba
chiều, bản vẽ phải mô tả một biểu hiện
duy nhất của nhãn hiệu và người nộp
đơn phải chỉ ra rằng nhãn hiệu đó là ba
chiều. Nếu người nộp đơn tin rằng nhãn
hiệu của mình không thể được mô tả đầy
đủ trong một lần hiển thị duy nhất,
người nộp đơn có thể nộp đơn yêu cầu
theo quy tắc được miễn về thông tin cần
thiết trong các mô tả cho nhãn hiệu trang
phục bao gồm thiết kế sản phẩm hoặc
bao bì sản phẩm, hoặc trang phục
thương mại cho các dịch vụ.
Hình ba chiều được sử dụng trong các
hình thức khác nhau không hoạt động
như một dấu hiệu trong trường hợp
không có bằng chứng cho thấy người
tiêu dùng coi đó là nhãn hiệu. Do đó,
trong trường hợp không có bằng chứng
về sự công nhận của người tiêu dùng
như một nhãn hiệu, đơn đăng ký bảo hộ
thường bị từ chối đăng ký với lý do hình
ba chiều không hoạt động như một nhãn
hiệu.
Ví dụ về hình dạng ba chiều đã được
đăng ký thành công dưới dạng nhãn hiệu
bao gồm đường viền của chai Coca-Cola
với mô tả nhãn nhiệu: nhãn hiệu bao
gồm các đường viền có hình dạng đặc
biệt, hoặc xác nhận và thiết kế của chai
như được hiển thị18, hình dạng của thanh
18Xem tại: Tình trạng thương hiệu và truy xuất tài
liệu (TSDG),
https://tsdr.uspto.gov/#caseNumber=696147&caseSe
archType=US_APPLICATION&caseType=DEFAU
LT&searchType=statusSearch(Truy cập ngày
21/7/2019).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
13
kẹo Toblerone với một bản vẽ minh họa
mà không có bất kỳ từ ngữ, ký, tự số19
Do tính chất phức tạp của việc đăng
ký các nhãn hiệu phi truyền thống, bảo
hộ nhãn hiệu phi truyền thống bên cạnh
việc tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp, thúc đẩy sực nghiên cứu,
sáng tạo trong các hình thức nhận dạng
thương hiệu thì việc bảo hộ này cũng tạo
ra những thách thức cho các cơ quan
quản lý nhãn hiệu. Từ việc nghiên cứu
các quy định pháp luật và kinh nghiệm
thực tiễn của quốc gia bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống Hoa Kỳ, tác giả đưa ra
một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong
việc nội luật hóa việc bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống.
Một nhãn hiệu phi truyền thống muốn
được bảo hộ cần phải đáp ứng đủ hai
điều kiện:
Thứ nhất: đó là tính tổng thể, nghĩa là
dấu hiệu xin đăng ký là một tổng thể,
hay chỉ là một đặc điểm có tính chức
năng. Nếu dấu hiệu này chỉ là một đặc
điểm có tính chức năng thì sẽ không
được đăng ký bảo hộ như một nhãn hiệu.
Thứ hai: đó là tính phân biệt, bản chất
có khả năng tự phân biệt và đạt được
khả năng phân biệt, nghĩa là các nhãn
19Xem tại: Tình trạng thương hiệu và truy xuất tài
liệu (TSDG),
https://tsdr.uspto.gov/#caseNumber=911237&caseSe
archType=US_APPLICATION&caseType=DEFAU
LT&searchType=statusSearch(Truy cập ngày
21/7/2019).
hiệu âm thanh có thể mang khả năng
phân biệt về bản chất nếu chúng là
“ngẫu nhiên, độc đáo và có khả năng
phân biệt và có thể được sử dụng nhằm
tạo ấn tượng trong tâm trí người nghe và
khi bắt gặp lại, người nghe có thể nhận
ra rằng một sản phẩm hoặc dịch vụ đó
xuất phát từ một nguồn gốc cụ thể, dù
không rõ tên nguồn.
Như vậy, việc bảo hộ nhãn hiệu phi
truyền thống cũng nên được thực hiện
theo cách thức đăng ký và xét nghiệm
đơn giống với việc bảo hộ nhãn hiệu
truyền thống. Trong đó ở giai đoạn đăng
ký, người nộp đơn phải lựa chọn hoặc
tạo ra được dấu hiệu phi truyền thống
đáp ứng yêu cầu làm nhãn hiệu; xác định
được danh mục hàng hóa, dịch vụ sử
dụng nhãn hiệu. Sau đó người nộp đơn
phải hoàn thiện hồ sơ đơn và nộp cho cơ
quan đăng ký nhãn hiệu. Trong giai đoạn
xét nghiệm đơn, cơ quan đăng ký nhãn
hiệu tiến hành các bước thẩm định hình
thức, thẩm định nội dung để xác định
phạm vi bảo hộ nhằm trao quyền nhãn
hiệu.
5. KẾT LUẬN
Như vậy, xét theo quy định của pháp
luật Việt Nam thì nhãn hiệu được bảo hộ
không chỉ thỏa mãn yếu tố phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể này với
chủ thể khác mà còn bắt buộc phải là
dấu hiệu nhìn thấy được. Cho nên nhãn
hiệu mùi và nhãn hiệu âm thanh sẽ
không thuộc điều kiện bảo hộ theo Luật
SHTT 2005. Đây có thể xem là một hạn
chế trong quy định về pháp luật sở hữu
trí tuệ của Việt Nam. Vì trên thực tế, sẽ
có rất nhiều trường hợp các chủ thể
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
14
muốn đăng ký các dấu hiệu đặc biệt kia
như một đặc trưng của mình nhưng theo
quy định của pháp luật thì họ không thể
bảo hộ dấu hiệu đó của mình không có
khả năng phân biệt. Bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống tuy có điểm giống với
bảo hộ nhãn hiệu truyền thống, nhưng
do tính chất chất đặc thù của nó nên bảo
hộ nhãn hiệu phi truyền thống cũng có
những điểm khác biệt nhất định về điều
kiện, cách thức bảo hộ. Việc xác định
liệu bảo vệ nhãn hiệu phi truyền thống
có sẵn hay không sẽ tùy thuộc vào các
trường hợp cụ thể, bao gồm cả bản chất
của nhãn hiệu cần được bảo vệ, liệu nó
có hoạt động hay không và liệu nó có
được sự khác biệt hay không. Việc lựa
chọn các hình thức bảo vệ nhãn hiệu tốt
nhất, nhận ra rằng quyền sở hữu trí tuệ
thường chồng chéo và hoạt động tập thể
để cung cấp sự bảo vệ rộng nhất. Quyền
nhãn hiệu truyền thống và phi truyền
thống có thể rất hiệu quả khi được sử
dụng song song, vì các biện pháp bảo vệ
của chúng là bổ sung, không loại trừ lẫn
nhau.
Đây chính là nội dung cần quan tâm
khi xem xét đưa vấn đề bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống vào quy định, điều
chỉnh trong luật, cũng như để đảm bảo
sự tương thích pháp luật khi Việt Nam
đã trở thành thành viên của hiệp định
CPTPP và xu thế chung của thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đạo luật Lanham (Lanham Act),
1946. Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ TRIPS.
2. Hiệp định đối tác toàn diện và tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
3. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ
(BTA).
4. Quốc hội, 2005. Luật sở hữu trí tuệ.
Địa chỉ truy cập:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/So-
huu-tri-tue/Luat-So-huu-tri-tue-2005-50-
2005-QH11-7022.aspx. Truy cập ngày
15/8/2019
5. TMEP – The Trademark Manual
Of Examining Procedure.
6. Bùi Thị Phượng, 2017. Bảo hộ
"nhãn hiệu phi truyền thống", xu hướng
tất yếu. Địa chỉ truy cập:
truyen-thong-xu-huong-tat-
yeu/n20170524045758703.html. Truy
cập ngày 19/7/2019.
7. Khánh An, 2017. Những quy định
mới về nhãn hiệu hàng hóa. Báo pháp
luật Việt Nam, số 19 (301).
8. Nguyễn Hồ Bích Hằng, Nguyên
Xuân Mỹ Hiền, Huỳnh Thanh Thịnh,
2017. Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi
hương theo pháp luật Hoa Kỳ. Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 5.
9. Nguyễn Tùng Lâm, 2017. Bảo hộ
nhãn hiệu âm thanh theo pháp luật Hoa
Kỳ - Kinh nghiệm cho Việt Nam. Luật
sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt
Nam, số 3- 2017
10. Những điểm nổi bật của CPTPP
về Sở hữu trí tuệ đối với Việt Nam,
(xem tại: https://lawfirmelite.com/nhung-
diem-noi-bat-cua-cptpp-ve-so-huu-tri-tue-
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 07 - 2019
15
doi-voi-viet-nam/. Truy cập ngày
21/7/2019.
11. Vân Anh, 2019. Nhãn hiệu phi
truyền thống: bảo hộ ở Việt Nam như
thế nào? Địa chỉ truy cập:
Truy cập ngày 21/7/2019.
12. TH, Bảo hộ nhãn hiệu mùi (Scent
mart). Địa chỉ truy cập:
https://www.pham.com.vn/chuyen-muc-
binh-luan/bao-ho-nhan-hieu-mui-scent-
mark.htmm. Truy cập ngày 21/7/2019.
PROTECTING NON-CONVENTIONAL TRADEMARK
BASED ON AMERICAN LAW AND EXPERIENCES FOR VIETNAM
Nguyen Phuoc Quy Quang and Tran Ngoc Tuan
Mien Dong University
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
ABSTRACT
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) and
related documents officially took effect for Vietnam from January 14th, 2019, which
requires members to make efforts to protect aroma and sound trademark. Based on the
reference of the US experience to, this article analyzed and commented on the conditions of
special signs of protection and recommended some experiences for Vietnam in the process
of internalizing the protection of non-conventional trademarks.
Keywords: Non-conventional trademark, signs, assets, applicants.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ho_nhan_hieu_phi_truyen_thong_theo_phap_luat_hoa_ky_va_k.pdf