Thay cho lời kết
Theo luật quốc tế về quyền con người,
nếu quốc gia không thực thi quyền con
người ở cả cấp độ trong nước và quốc tế (bao
gồm không thực thi nghĩa vụ truy tố, xét xử
tội phạm) thì quốc gia phải chịu trách nhiệm
trước các cơ quan nhân quyền quốc tế55.
Điều này có nghĩa là người thực hiện hành
vi vi phạm quyền con người và bị coi là tội
phạm quốc tế có thể không bị trừng phạt. Về
phương diện này, Luật Hình sự quốc tế bổ
sung, tăng cường bảo vệ quyền con người
bằng quy định về trách nhiệm hình sự cá
nhân và thiết lập Tòa án Hình sự quốc tế để
đảm bảo công lý được thực hiện cho nạn
nhân.
Bên cạnh đó, một số quyền con người là
tuyệt đối, không thể bị tước bỏ trong mọi
hoàn cảnh. Vì vậy, các quyền cơ bản của cá
nhân bị truy tố trước Tòa án Hình sự quốc tế
cần được bảo vệ. Tuy nhiên, phân tích ở trên
cho thấy, không thể khẳng định, Tòa án Hình
sự quốc tế có đủ khả năng bảo vệ các quyền
con người cho bị cáo. Bởi lẽ, các tòa này
được tự do lựa chọn những điều khoản nào
trong luật nhân quyền mà họ phải áp dụng.
Hơn nữa, do định kiến với tội ác quốc tế
hoặc do sự thiếu hợp tác của các quốc gia,
bị cáo có khả năng bị vi phạm quyền được
suy đoán vô tội hoặc bị giam giữ không có
cơ sở, kéo dài thời gian tạm giam, không có
cơ hội được trình bày bằng chứng để có thể
được miễn hoặc giảm trách nhiệm
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ
Lê Thị Anh Đào
TS. Khoa Pháp luật quốc tế - Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền con người, hình sự
quốc tế, tòa án hình sự quốc tế, tội
phạm quốc tế.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 20/02/2020
Biên tập : 05/03/2020
Duyệt bài : 12/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Human rights; international
criminal; international criminal court;
international crime.
Article History:
Received : 20 Feb. 2020
Edited : 05 Mar. 2020
Approved : 12 Mar. 2020
Tóm tắt:
Luật Hình sự quốc tế là một công cụ để bảo vệ và tăng cường sự
tôn trọng quyền con người, nhưng quyền con người cũng có thể
bị vi phạm khi tiến hành các thủ tục tư pháp. Bài viết phân tích
điểm cân bằng giữa việc bảo vệ quyền con người và vi phạm quyền
con người trong Luật Hình sự quốc tế, đồng thời đề xuất biện pháp
khắc phục.
Abstract:
The international criminal law is a tool for protection and
enhancement of human rights from a punitive perspective.
However, the human rights might be violated once judicial
procedures are conducted. This article provides analysis of the
balance between the protection of human rights and violations of
human rights in the international criminal law and recommended
solutions.
1. Luật Hình sự quốc tế bảo vệ quyền con
người
1.1. Quy định trách nhiệm hình sự cá
nhân đối với tội phạm quốc tế
Với tính chất là các quy phạm điều
chỉnh chủ yếu mối quan hệ giữa các quốc
gia, Luật Hình sự quốc tế (LHSQT) hướng
đến các cá nhân. Trong khi Luật Quốc tế về
quyền con người trao quyền cho các cá nhân,
Luật Hình sự quốc tế đặt ra các quy định
cấm hành vi vi phạm các quyền con người,
đồng thời xác định hình phạt đối với những
cá nhân thực hiện hành vi vi phạm các quy
định cấm này.
Vì vậy, ở một mức độ nhất định,
LHSQT bảo vệ quyền con người. Mục đích
của trừng phạt người phạm tội là bảo vệ các
giá trị chung của quyền con người đã được
toàn thể cộng đồng quốc tế thừa nhận. So
sánh các tội phạm quốc tế với các quyền
con người cơ bản cho thấy rõ hơn LHSQT
bảo vệ các giá trị và lợi ích thuộc về quyền
con người.
Số 7(407) - T4/20204 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1 Ý kiến tư vấn về dùng hoặc đe dọa dùng vũ khí hạt nhân, Báo cáo của ICJ năm 1996, đoạn 25; Ý kiến tư
vấn về các hệ quả pháp lý của việc xây dựng một bức tường ở lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng, Báo cáo
của ICJ năm 2004, đoạn 106; Vụ việc liên quan đến các hoạt động vũ trang trên lãnh thổ Congo (Democratic
Republic of the Congo v. Uganda), Báo cáo của ICJ năm 2005, đoạn 216; Nghị quyết số 237 năm 1967 của
Hội đồng bảo an, UN Doc. A/237/1967 (1967).
2 Nghị quyết số 1312 (XIII) của Đại hội đồng UN, UN Doc. A/38/49 (1958), đoạn 7.
3 Điều 50 Công ước Genève I (1949) vể cải tiến tình trạng của những người bị thương và những người ốm
của quân lực tại chiến trường; Điều 51 Công ước Genève II (1949) về cải tiến tình trạng của những người
bị thương, những người ốm, và những người bị đắm tàu của quân lực trên biển; Điều 130 Công ước Genève
III (1949) liên quan đến cách đối xử với tù binh chiến tranh; Điều 147 Công ước Genève IV (1949) về sự
bảo vệ thường dân vào thời chiến.
4 Điều 3 chung được công nhận là luật tập quán (Xem Military and Paramilitary Activities on the territory of
Nicaragua (Nicaragua v. USA), ICJ 1986, đoạn. 218), trong đó quy định về cách đối xử tối thiểu phải dành
cho những người được bảo vệ trong cả các cuộc xung đột quốc tế và không có tính chất quốc tế.
5 Điều 3.1(a) (b) Công ước Geneva (I), (II), (III), (IV).
6 Erdemovic´ (IT-96-22-A), ngày 7/10/1997, đồng ý kiến riêng của thẩm phán McDonald và thẩm phán
Vohrah, đoạn 21.
7 Điều 7 Quy chế ICC.
8 Report of the International Law Commission on the work of its 49th session, UN Doc. A/52/10 (1997), đoạn
76; Kayishema and Ruzindana (ICTR-95-1-T), 21 May 1999, đoạn. 88.
- Tội ác chiến tranh: đây là loại tội
phạm vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người, bởi vì có những quyền tự nhiên của
con người phải được bảo vệ trong hoàn cảnh
xung đột vũ trang cũng như trong thời bình.
Điều này đã được khẳng định bởi Tòa án
công lý quốc tế (ICJ)1 và Hội đồng bảo an2.
Đặc biệt, mỗi Công ước trong bốn Công
ước Genève năm 1949 đều có một điều
khoản xác định “vi phạm nghiêm trọng”.
Công ước nghiêm cấm giết người, tra tấn
hoặc đối xử vô nhân đạo và quy định trách
nhiệm hình sự cá nhân3. Điều 3 chung Công
ước Genève năm 1949 đã được công nhận là
tập quán, trong đó quy định về cách đối xử
tối thiểu phải dành cho những người được
bảo vệ trong các cuộc xung vũ trang4. Điều
3 cấm: “xâm phạm đến tính mạng và toàn
vẹn thân thể, nhất là hành động giết hại
dưới mọi hình thức, gây thương tật, đối xử
tàn ác, tra tấn và nhục hình”; “tuyên án và
thi hành án mà không có phán quyết trước
đó được tuyên bởi một tòa án được thành lập
hợp thức, có khả năng bảo đảm tư pháp5.
Điều khoản này cũng nhắc lại rằng, quyền
sống, quyền không bị tra tấn hay đối xử vô
nhân đạo và quyền được bảo đảm xét xử
công bằng là những quyền cơ bản của con
người và không được phép vi phạm trong bất
kỳ trường hợp nào.
- Tội ác chống lại loài người: Cộng
đồng quốc tế đã thừa nhận tội ác chống lại
loài người là “tội phạm đặc biệt ghê tởm,
bởi vì loại tội phạm này xâm phạm nghiêm
trọng đến nhân phẩm, làm nhục hoặc hạ
thấp nghiêm trọng nhân phẩm của một hoặc
nhiều người”6. Do sự vô nhân đạo đối với
nạn nhân nên những tội ác này còn phủ nhận
quyền của những nạn nhân được thừa nhận
là con người. Chính khái niệm “tội ác chống
lại loài người” đã hàm ý rằng, có những
quyền cơ bản của con người phải được bảo
vệ bằng hình phạt trong luật hình sự quốc
tế. Do đó, việc ghi nhận tội phạm chống lại
loài người cũng là bảo vệ quyền con người
cơ bản7.
- Tội diệt chủng: Công ước năm 1948
về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng
(CPPCG) là “một điều ước nhân quyền tinh
túy”8 và đặc biệt. Bởi lẽ, Công ước không
quy định trực tiếp về quyền con người mà
thay vào đó, quy định về trách nhiệm hình
sự của thủ phạm và xét xử hành vi phạm tội
trước tòa án quốc tế9.
1.2. Thành lập Tòa án Hình sự quốc tế
Theo cách tiếp cận truyền thống của luật
pháp quốc tế, các quốc gia có trách nhiệm
chung là ngăn ngừa và trừng trị các hành vi
vi phạm quyền con người xảy ra trên lãnh
thổ của mình. Tuy nhiên, việc không điều tra
các vi phạm đó chỉ dẫn đến trách nhiệm của
quốc gia mà không dẫn đến trách nhiệm hình
sự của cá nhân10.
Trong khi đó, tội phạm quốc tế thường
được thực hiện trên quy mô lớn hoặc bởi
những nhóm người mà quốc gia không thể
kiểm soát. Những tội ác này nếu không bị
điều tra và khởi tố bởi cơ quan có thẩm
quyền của quốc gia và theo luật pháp quốc
gia. Do đó, thủ phạm không bị trừng phạt và
điều này làm mất đi mọi khả năng tác động
răn đe của LHSQT cũng như tính xác thực
của quyền con người.
Mặc dù đã có một số nỗ lực nhằm phát
triển quyền tài phán của các quốc gia vượt
ra khỏi biên giới quốc gia (ví dụ như thiết
lập quyền tài phán phổ cập) nhưng cơ chế
thực thi truyền thống của LHSQT đã không
thể ngăn chặn và trừng phạt các vi phạm thô
bạo quyền con người. Chính vì vậy, các Tòa
án Hình sự quốc tế đã được thành lập. Ví dụ,
Tòa án Hình sự quốc tế về Nam tư cũ
(ICTY) và Toà án Hình sự quốc tế về
Rwanda (ICTR) được thành lập phù hợp với
các nguyên tắc và mục tiêu của Liên hợp
quốc (UN) về thúc đẩy và khuyến khích tôn
trọng quyền con người và các quyền tự do
cơ bản cho tất cả mọi người11. Quy chế
Rome quy định thành lập Tòa án Hình sự
quốc tế thường trực (ICC) với thẩm quyền
xét xử và trừng phạt thủ phạm của những vi
phạm nghiêm trọng nhất về quyền con người
khi pháp luật quốc gia thất bại trong việc
thực hiện nhiệm vụ này. Lý do việc thành lập
ICC là nhằm chấm dứt sự miễn trừ đối với
những người vi phạm nghiêm trọng quyền
con người, để bảo vệ các quyền cơ bản.
Thiết lập một cơ chế thường trực để truy tố
tội phạm quốc tế là một bước quan trọng làm
cho LHSQT tế đạt được hiệu quả răn đe thực
sự và làm cho quyền con người được tôn
trọng hơn12. Thậm chí, một số người cho
rằng, hợp tác quốc gia với ICC là một cách
để thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia theo
luật quốc tế về quyền con người13.
Tuy nhiên, lịch sử quyền con người
cũng cho thấy sự hồ nghi nhất định đối với
hệ thống tư pháp hình sự. Các văn kiện pháp
lý về quyền con người thường có các điều
khoản về bảo vệ cá nhân trong tố tụng hình
sự (TTHS). Một mặt, quyền con người cần
có luật hình sự để được bảo vệ một cách hiệu
quả. Mặt khác, quyền con người cũng có thể
bị vi phạm khi toà án thực hiện các thủ tục
tư pháp hình sự. Do đó, thách thức đặt ra ở
đây là phải tìm được sự cân bằng giữa hai
lợi ích có tính cạnh tranh này.
5Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
9 Điều 4 CPPCG (1948)
10 Xem, ví dụ Süheyla Aydin v. Turkey (25660/94), ECtHR ngày 24/52005.
11 Điều 1(3) Hiến chương UN.
12 Điều 8 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR).
13 A. L. Ciampi, ‘State Cooperation with the ICC and Human Rights’, in M. Politi and F. Gioia (eds), The
international Criminal Court and National Jurisdictions, Aldershot: Ashgate Publishing Limited, 2008,
p.108.
2. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự quốc tế
Lịch sử phát triển quyền con người cho
thấy xu hướng bảo vệ các bị cáo đối mặt với
hình phạt. Do đó, nhiều quyền cơ bản đã
sớm được pháp luật ghi nhận để đạt được sự
bảo vệ đó. Tuy nhiên, ý tưởng trao quyền
cho tội phạm quốc tế đã gặp nhiều ý kiến
phản đối bởi tính chất và hậu quả của tội
phạm này. Điều này cho thấy khó khăn trong
việc đảm bảo xét xử công bằng cho các bị
cáo trong các phiên tòa hình sự quốc tế.
Hiến chương của Toà án quân sự quốc
tế (IMT) ghi nhận quyền của các bị cáo được
đảm bảo quyền xét xử công bằng14. Sau đó,
các quyền cơ bản của một cá nhân trong
TTHS đã được quy định trong UDHR15,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR)16 và các văn kiện nhân
quyền khu vực.
2.1. Bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự quốc tế
Trong báo cáo về việc thành lập ICTY,
Tổng thư ký UN đã lưu ý rằng, “điều quan
trọng là tòa án quốc tế phải hoàn toàn tôn
trọng các chuẩn mực được quốc tế công
nhận liên quan đến quyền của bị cáo và các
chuẩn mực này được quy định tại Điều 14
Công ước năm 1966 về quyền dân sự chính
trị (ICCPR)17. Trên cơ sở đó, quy chế của cả
hai tòa án adhoc và các Công ước Genève
năm 1949 đều quy định về các bảo đảm và
các quyền tương tự cho những người bị buộc
tội18, trong đó các quyền con người căn bản
phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh19.
Hiện nay, việc bảo đảm những quyền
con người cơ bản đã được áp dụng trong tố
tụng tại phiên tòa của Tòa án Hình sự quốc
tế, cũng như trong thủ tục TTHS của quốc
gia. Thẩm phán tham gia phiên toàn của tòa
án quốc tế phải đảm bảo phiên tòa công bằng
được tiến hành đối với bất kỳ bị cáo nào
được đưa ra trước tòa. Những đảm bảo này
phải được giải thích theo tiêu chuẩn tiên tiến
được cập nhật thường xuyên.
Trong việc giải thích các quyền của bị
cáo, ICTR đã tuyên bố rằng, các phiên tòa
phải áp dụng ICCPR như một phần của luật
quốc tế nói chung. Tuy nhiên, tòa không phải
áp dụng các điều ước quốc tế khu vực hoặc
luật án lệ được phát triển bởi các cơ quan
nhân quyền khu vực bởi vì chúng không
ràng buộc đối với tòa án20. ICTY cũng bác
bỏ việc áp dụng án lệ của Tòa án nhân quyền
châu Âu (ECHR) và cho rằng, “ở một số
khía cạnh nhất định, ICTY có thể so sánh với
Số 7(407) - T4/20206 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
14 Điều 16, Hiến chương của Toà án quân sự quốc tế đi kèm với thỏa thuận về truy tố và trừng phạt các tội
phạm chiến tranh chủ đạo của trục châu Âu ký tại London ngày 8/8/1945,
IHL.NSF/FULL/350?OpenDocument.
15 Điều 1 và Điều 10 UDHR.
16 Điều 9, Điều 14, Điều 15 ICCPR, trên
17 Báo cáo của Tổng thư ký về các khía cạnh thành lập một tòa án quốc tế về việc truy tố những người chịu
trách nhiệm đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế được thực hiện trên lãnh thổ
Nam Tư (cũ), UN DOC S/25704 (1993), đoạn 106.
18 Điều 21 Quy chế ICTY, Điều 20 Quy chế ICTR; Xem thêm, Điều 3 chung (1)(d) các Công ước Genève
(I), (II), (III), và (IV) năm 1949; Điều 75, Nghị định thư không bắt buộc (I) và Điều 6 Nghị định thư không
bắt buộc (II) năm 1977 của các Công ước Genève năm 1949.
19 Điều 4(2) ICCPR; Điều 15(2) ECHR; Điều 27(2) Công ước Châu Mỹ về quyền con người (AmCHR);
Điều 22(2) Công ước chống tra tấn (CAT); Điều 1 CPPCG (1948).
20 Barayagwiza, (ICTR-97-19), Decision, ngày 3/11/1999.
một tòa án quân sự - tòa có quyền hạn chế
về thủ tục tố tụng và các quy tắc khoan dung
hơn về chứng cứ”21.
Khác với ICTY và ICTR, Quy chế ICC
quy định chi tiết hơn về quyền của nghi
phạm và của bị cáo22. Quy chế ICC không
công nhận bất kỳ văn kiện nhân quyền quốc
tế nào là nguồn luật được áp dụng tại ICC,
mà chỉ tuyên bố, “việc áp dụng và giải thích
luật theo Điều 21 phải phù hợp với quyền
con người đã được quốc tế công nhận”23.
Việc Quy chế Rome không đề cập đến một
văn kiện cụ thể nào đã tạo ra tình hình tương
tự như với các tòa án Hình sự quốc tế khác.
Quyền con người thường được ICC giải
thích mở rộng bằng phương pháp mục đích
luận và ICC còn viện dẫn đến các tiền lệ của
ECHR và Tòa án nhân quyền Liên châu Mỹ
để củng cố phán quyết24. Như vậy, khó có
thể khẳng định rằng, các tòa án quốc tế có
đủ khả năng bảo vệ cao nhất cho bị cáo, bởi
vì các tòa này được tự do lựa chọn những
điều khoản nào trong luật nhân quyền mà họ
phải áp dụng.
2.2. Thực tiễn bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự quốc tế
Quyền của bị cáo bắt nguồn từ một
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự là suy
đoán vô tội. Nguyên tắc này được nêu tại
Điều 14 (2) ICCPR và được thừa nhận tại
Điều 66 Quy chế ICC, Điều 20 (3) Quy chế
ICTR và Điều 21 (3) Quy chế ICTY. Theo
quy định này, các cơ quan công quyền có
nghĩa vụ phải loại bỏ “định kiến về kết quả
của một phiên tòa”25. ECHR đã phán quyết
rằng, quy định này yêu cầu các công chức
không được “tuyên bố chính thức rằng ai đó
có tội”26, trừ khi có quyết định của tòa án.
Tuy nhiên, chuyển đổi cách giải thích này
sang trật tự quốc tế là khá khó khăn. Vấn đề
đầu tiên, ai được coi là “công chức” trong
luật pháp quốc tế? Ngay cả khi giả định rằng
các cơ quan chính của UN có thể được coi
là “công chức” thì vấn đề tiếp theo nảy sinh
là việc xem xét một nghị quyết của Hội đồng
Bảo an, trong đó khẳng định trách nhiệm của
một hoặc một số người đối với tội phạm
quốc tế. Ví dụ, trong Nghị quyết số 1034,
“cần lưu ý rằng [ICTY] đã ban hành [...] bản
cáo trạng chống lại các nhà lãnh đạo người
Serbia ở Bosina là Radovan Karadzic và
Ratko Mladic” về trách nhiệm trực tiếp và
cá nhân của họ vì phạm tội ác chống lại
người Hồi giáo Bosnia ở thị trấn
Srebrenica”27. Việc ban hành Nghị quyết này
bị coi là vi phạm giả định vô tội. Bởi vì,
Nghị quyết số 1034 không sử dụng thuật ngữ
“bị cáo” khi đề cập đến trách nhiệm của hai
nhà lãnh đạo người Serbia ở Bosina. Ngăn
chặn định kiến đối với các loại tội ác này là
khá khó khăn. Các quốc gia, các nạn nhân
và báo chí thường chỉ rõ những người phải
chịu trách nhiệm trước khi có bất cứ tòa án
nào có cơ hội để đưa ra phán quyết về nội
dung của vụ án. Ở cấp quốc gia, bị cáo có
khả năng khởi kiện để yêu cầu điều chỉnh lại
7Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
21 Tadic’ (IT-94-1), Decision on the Prosecutor’s Motion Requesting Protective Measures for Victims and
Witnesses, ngày 10/8/1995, đoạn 28.
22 Điều 55, Điều 66, Điều 67 Quy chế ICC.
23 Điều 21(3) Quy chế Rome.
24 Lubanga (ICC-01/04-01/06), ngày 10/2/2006 đoạn 12 và Lubanga (ICC-01/04-01/06), ngày 15/3/2006,
đoạn 97.
25 Bình luận chung về Điều 14 ICCPR. Xem UN Doc. A/39/40 (1984), tr.143–147.
26 Krause v. Switzerland, ECHR 1978, đoạn 37; Allenet de Ribemont v. France, ECHR 1995, đoạn 37–41.
27 Security Council Resolution 1034, UN Doc. S/1995/1034 (1995), đoạn 7.
các tuyên bố vi phạm giả định vô tội. Tuy
nhiên, một biện pháp khắc phục như vậy
không tồn tại ở cấp độ quốc tế.
Tại phiên tòa của Tòa án Hình sự quốc
tế, hầu hết các thảo luận liên quan đến giả
định vô tội đã tập trung vào vấn đề phóng
thích tạm thời và tạm giam để điều tra. Như
là một hệ quả của nguyên tắc suy đoán vô
tội, các văn kiện về quyền con người đều ghi
nhận bị cáo có quyền được phóng thích
trong lúc chờ phiên tòa xét xử28. Do đó, việc
tạm giam bắt buộc trước khi có phiên tòa xét
xử là trái với luật quốc tế về quyền con
người29. Nhưng Các Quy tắc về thủ tục và
chứng cứ (RPE) của các tòa án hình sự quốc
tế vận hành trên cơ sở tạm giam là nguyên
tắc và phóng thích là ngoại lệ30. Mặc dù một
số thẩm phán phản đối thực tiễn này đã
tuyên bố rằng việc phóng thích tạm thời phải
là nguyên tắc và việc tạm giam chỉ nên duy
trì trong các trường hợp hết sức cần thiết31,
nhưng dường như khi bị cáo chuyển sang
các tòa án hình sự quốc tế để xét xử, thì bị
cáo vẫn bị giam giữ trong suốt thời gian xét
xử và việc phóng thích tạm thời chỉ được
ban cấp cho một vài trường hợp ngoại lệ32.
Việc giam giữ tạm thời có thể được biện
minh trong một số trường hợp nhất định,
chẳng hạn như, khi bị cáo có khả năng bỏ
trốn hoặc khi bị cáo cố gắng can thiệp vào
các cuộc điều tra bằng cách thay đổi bằng
chứng hoặc gây áp lực cho nhân chứng33.
Giam giữ tạm thời được áp dụng chỉ khi
không có các biện pháp khác (ví dụ như bảo
lãnh hoặc quản chế). Tại các tòa án hình sự
quốc tế, lập luận chính chống lại việc phóng
thích tạm thời là sự thiếu hợp tác từ phía các
quốc gia và nguy cơ bị cáo sẽ thoát khỏi việc
bị xét xử bằng cách trốn sang một quốc gia
không hợp tác. Tuy nhiên, cơ sở cho việc
giam giữ tạm thời tiến triển theo thời gian và
việc giam giữ chính đáng có thể trở nên độc
đoán khi cơ sở để biện minh cho việc tạm
giữ đó không còn tồn tại. Vì lý do này, việc
giam giữ tạm thời phải được xem xét lại một
cách thường xuyên34. Nếu việc giam giữ là
để tránh bất kỳ sự can thiệp nào của bị cáo
đối với các cuộc điều tra thì việc tạm giam
trước khi xét xử sẽ không còn cơ sở nữa khi
các cuộc điều tra đã chấm dứt.
Thời gian là một vấn đề cốt lõi trong tố
tụng hình sự quốc tế. Điều 9 (3) và Điều 14
(3) (c) ICCPR đều yêu cầu về thời gian xét
xử không chậm trễ, đặc biệt là khi bị cáo đã
bị giam giữ tạm thời35. Điều 14 ICCPR
không nêu rõ giới hạn thời gian xét xử
Số 7(407) - T4/20208 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
28 Các quan điểm kết luận của Ủy ban nhân quyền về Argentina, ngày 3/11/2000, UN Doc.
CCPR/CO/70/ARG, đoạn 10; Các quan điểm kết luận của Ủy ban nhân quyền về Italy, 24/4/2006, UN
Doc. CCPR/C/ITA/CO/5, đoạn 14; Wemhoff v. Germany, ECHR 1968, đoạn12.
29 Ilijkov v. Bulgaria, ECHR 2001, đoạn 84-85.
30 Điều 65(A) RPE của ICTY; Điều 65(A) RPE của ICTR; Điều 118 RPE của ICC.
31 Hadzihasanovic et al. (IT-01-47), Thông cáo báo chí ngày 13/11/2001.
32 Các con số chủ yếu về các vụ tại ICTY xem trên pro-
coview; về ICTR xem trên về ICC xem tại Jean-Pierre Bemba
Gombo (ICC-01 / 05-01 / 08-475).
33 Michael and Brian Hill v. Spain (526/1993), Report of the Human Rights Committee, vol. 2, UN Doc.
A/52/40, đoạn 12.3.
34 Shafiq v. Australia (1324/2004), ngày 31/10/2006, Report of the Human Right Committee, vol. 2, UN Doc.
A/62/40, đoạn 7.2.
35 Report of the Human Rights Committee, vol. 1, UN Doc. A/62/40 (2007), đoạn 72.
nhưng độ dài thời gian tổng thể phải là hợp
lý. Tính hợp lý được đánh giá dựa trên từng
trường hợp cụ thể, có tính đến sự phức tạp
của vụ án, hành vi của bị cáo và sự nỗ lực
của chính quyền. Các vụ án được giải quyết
tại các tòa án quốc tế đặc biệt phức tạp nên
các phiên tòa ở cấp quốc tế có thể đòi hỏi
nhiều thời gian hơn ở cấp trong nước nhưng
trên thực tế tổng thời gian xét xử tại các tòa
án quốc tế dường như vượt quá yêu cầu mà
luật quốc tế về quyền con người đã đặt ra.
Một số chậm trễ có thể là do hành vi của bị
cáo nhưng trong một số trường hợp, sự chậm
trễ là do công tố viên hoặc chính tòa án gây
ra. Ví dụ, sự chậm trễ trong việc chỉ định
thẩm phán và xét xử do nghỉ Giáng sinh36.
Hệ quả là, hầu hết các bị cáo đã bị giam giữ
vài năm và thậm chí, một số bị cáo đã chết
trước khi có phán quyết cuối cùng37.
Chiến lược hoàn thiện của các tòa án
quốc tế adhoc không cải thiện tình hình.
Việc các tòa án quốc tế chuyển một vụ án tới
cơ quan tài phán quốc gia theo Điều 11 bis
RPE của các tòa án adhoc đã làm tăng thêm
thời gian tố tụng và tạo thành sự bất lợi chỉ
với các bị cáo - những người vẫn bị giam giữ
một khi vụ án của họ được chuyển sang tòa
án quốc gia và quá trình tố tụng phải bắt đầu
lại. Ví dụ, vụ án Mejakic đã được chuyển
đến Bosnia & Herzegovina38. Tất cả các bị
cáo đã bị tạm giam vài năm tại ICTY nhưng
khi kiểm tra tính hợp lý của việc tạm giam
họ, tòa án quốc gia đã từ chối xem xét thời
gian những người đó bị giam giữ trước khi
vụ án được chuyển giao39. Về cơ bản, quy
định của Điều này là trái với các giải thích
về quyền con người, trong đó nêu rõ thời hạn
được xem xét để đánh giá tính hợp lý của
việc giam giữ các bị cáo là kể từ ngày bị
bắt40. Hơn nữa, lập luận của Tòa án Hiến
pháp Bosnia & Herzegovina dựa trên nguy
cơ bị cáo bỏ trốn41 là không thỏa đáng. Bởi
vì, các tòa án quốc gia có các phương tiện để
đảm bảo sự hiện diện của bị cáo tại phiên
tòa. Do đó, hầu hết các bị cáo đã mất nhiều
năm bị giam giữ tại ICTY mà không được
xét xử, một số đã tự nguyện từ bỏ và không
có cơ hội được trả tự do khi vụ án của họ
được chuyển sang tòa án quốc gia. Ngay cả
khi số lượng thời gian này được khấu trừ từ
bản án cuối cùng thì việc kéo dài thời gian
tạm giam vẫn vi phạm các quyền cơ bản của
bị cáo.
Một vấn đề khác liên quan đến quá trình
tuyên án. Một nguyên tắc của luật hình sự là
bị cáo không buộc phải làm chứng chống lại
chính mình42 nhưng phải được đảm bảo cơ
hội trình bày tất cả các bằng chứng để có thể
9Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
36 Barayagwiza (ICTR-97-19), Decision, 3 November 1999 đoạn 68.
37 Xem vụ truy tố cựu Tổng thống Serbia, S. Milosevic, (IT-02-54); Schabas, The UN International Criminal
Tribunals, tr.521- 522.
38 Mejakic´ et al. (IT-02-65-AR11bis.1), Decision on Joint Defence Appeal against Decision on Referral
under Rule 11bis, ngày 7/4/2006.
39 Tòa án Hiến pháp của Bosnia và Herzegovina, Željko Mejakic´ and Dušan Fuštar (AP 2499/06), đệ đơn
kháng cáo chống lại Phán quyết của Tòa án Bosnia và Herzegovina, Số H-KRN-06/200 ngày 27/6/2006,
và Phán quyết của Tòa án Bosnia và Herzegovina, số H-KRN-06/200 ngày 09/6/2006 và ngày 20/10/2006.
40 Nevmerzhitsky v. Ukraine, ECHR 2005, đoạn 134.
41 Tòa án Hiến pháp của Bosnia và Herzegovina, Kháng cáo của Željko Mejakic´ and Dušan Fuštar (AP
2499/06), ngày 20/10/2006, đoạn19.
42 Điều 14(3)(g) ICCPR.
43 Tadic´ (IT-94-1-T), ngày 14/7/1997.
được miễn hoặc giảm trách nhiệm của họ.
Thực tế, việc phán xét tội phạm và việc
tuyên án các bị cáo không phải là các phiên
điều trần riêng biệt nên điều này dường như
vi phạm nguyên tắc thứ hai nêu trên. Ban
đầu, các phiên điều trần riêng biệt được tổ
chức tại ICTY43 nhưng RPE đã được sửa đổi
để cho phép xác định phạm tội và bản án
trong một phán quyết duy nhất44. Quy chế
ICC quy định về một phán quyết duy nhất
nhưng cho phép một phiên điều trần riêng về
việc tuyên án nếu bị đơn hoặc Công tố viên
đặc biệt yêu cầu điều đó45. Tuy nhiên, việc
lựa chọn giữa một phiên điều trần duy nhất
hoặc các phiên điều trần riêng biệt phụ thuộc
chủ yếu vào truyền thống pháp lý được xem
xét. Các quốc gia theo truyền thống common
law thường ủng hộ các phiên điều trần riêng
biệt, tòa án của các quốc gia theo truyền
thống civil law thường đưa ra phán quyết kết
tội và kết án trong cùng một bản án. Đối với
Tòa án Hình sự quốc tế, cả hai truyền thống
pháp lý đều thích hợp.
2.3. Kiểm soát vi phạm quyền con
người trong tố tụng hình sự quốc tế
Tòa án Hình sự quốc tế là tổ chức chịu
trách nhiệm chính trong việc bảo vệ quyền
con người trong TTHS quốc tế. Tuy nhiên,
câu hỏi được đặt ra là một bị cáo có thể đệ
đơn lên cơ quan nhân quyền quốc tế để
chống lại Tòa án Hình sự quốc tế vì đã vi
phạm các quyền cơ bản của bị cáo hay
không? Câu trả lời là không, vì trong trường
hợp này, chủ thể vi phạm là một tổ chức liên
quốc gia, trong khi cơ chế của các cơ quan
nhân quyền quốc tế chỉ hướng tới các quốc
gia thành viên của các văn kiện liên quan46.
Luật án lệ của các cơ quan nhân quyền quốc
tế cũng chỉ rõ rằng, về phương diện chủ thể,
chúng chỉ có thẩm quyền đối với các quốc
gia thành viên47.
Trên thực tế, một số bị cáo trước Tòa án
Hình sự quốc tế đã cố gắng kiến nghị tới các
cơ quan nhân quyền quốc tế để chống lại các
quốc gia thành viên Điều ước quốc tế về
quyền con người và có quan hệ với Tòa án
Hình sự quốc tế. ECHR đã phán quyết rằng,
quốc gia vẫn phải chịu trách nhiệm về vi
phạm Công ước châu Âu về quyền con
người khi ủy quyền hoặc hợp tác với các tổ
chức liên quốc gia48.
Trong khi bị canh giữ tại cơ sở tạm giam
của UN ở Lahay, cựu Tổng thống Nam Tư
Milosevic đã nộp đơn chống lại Hà Lan.
Milosevic lập luận rằng, là quốc gia mà
ICTY tiến hành thủ tục tố tụng nên Hà Lan
chịu trách nhiệm về việc ICTY vi phạm các
quyền cơ bản của Milosevic49. Đơn đệ trình
Số 7(407) - T4/202010 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
44 Điều 85 và Điều 87 RPE của ICTY và ICTR.
45 Điều 76(2)(3) Quy chế ICC (2. Trừ khi Điều 65 được áp dụng và trước khi kết thúc việc xét xử, Hội đồng
sơ thẩm tự mình có thể, và theo yêu cầu của Trưởng Công tố hoặc của bị cáo, phải mở một phiên tòa riêng
để xem xét bất kỳ chứng cứ hoặc ý kiến bổ sung nào liên quan đến bản án phù hợp với quy định của Quy
tắc về thủ tục và chứng cứ.
46 Điều 1 Nghị định thư không bắt buộc của ICCPR; Điều 1 Công ước châu Âu về quyền con người.
47 Report of the Working Group on Arbitrary Detention, UN Doc. E/CN.4/2003/8 (2002), para. 60;
Confédération Française Démocratique du Travail v. the European Communities and alternatively their
member states, ECHR 1978.
48 Bosphorus Hava Yollari Tuzim Ve Ticaret AS (Bosphorus Airways) v. Ireland, ECHR 2005, đoạn
155-156.
49 Milosevic´ v. The Netherlands, ECHR 2002.
50 Naletilic´ v. Croatia, ECHR 2000.
11Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đã bị ECHR bác bỏ với lý do là người nộp
đơn đã không sử dụng hết tất cả các biện
pháp khắc phục tại chỗ trước khi nộp đơn lên
Tòa. Việc bác bỏ thủ tục này (trên cơ sở áp
dụng yêu cầu về việc đã vận dụng hết các
biện pháp khắc phục tại chỗ) khó có thể che
giấu sự khó khăn và dè dặt của ECHR khi
giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa các
quốc gia thành viên Công ước châu Âu về
quyền con người và các tòa án hình sự quốc
tế. Một bị cáo khác tại ICTY là Naletilic.
Naletilic đã đệ đơn lên ECHR để phản đối
việc Croatia chuyển bị cáo sang tòa án quốc
tế để xét xử. Trong trường hợp này, ECHR
đã công nhận sự khác biệt giữa chế độ pháp
lý về dẫn độ sang một quốc gia thứ ba với
chế độ chuyển giao cho các tòa án hình sự
quốc tế. ECHR kết luận rằng, quy chế và các
quy tắc tố tụng của tòa án quốc tế đã đưa ra
“tất cả các bảo đảm cần thiết bao gồm cả bảo
đảm về sự vô tư và độc lập”50. Trường hợp
này có thể được so sánh với luật án lệ về
“nguyên tắc bảo vệ tương đương”; theo đó,
khi một tổ chức bảo vệ quyền con người và
với tổ chức đó, một quốc gia thành viên đang
hợp tác thì có thể cho rằng không có vi phạm
nào xảy ra51.
Một ví dụ khác liên quan đến việc
ECHR từ chối đơn thỉnh cầu của hai nguyên
đơn từ Kosovo. Nguyên đơn yêu sách rằng,
các quốc gia thành viên của ECHR tham gia
trong KFOR (một lực lượng gìn giữ hòa bình
do NATO lãnh đạo) và lực lượng NATO ở
Kosovo sẽ phải chịu trách nhiệm về hành
động và sự thiếu trách nhiệm của họ đối với
sự vi phạm các quyền được bảo vệ bởi Công
ước. Đáng lưu ý là trong vụ việc này, ECHR
đã không từ chối các thỉnh cầu trên cơ sở
thiếu thẩm quyền theo lãnh thổ (rationae
loci), mà là theo chủ thể (rationae
personae). ECHR kết luận như sau:
Do các hoạt động được tiến hành trên cơ
sở nghị quyết của Hội đồng Bảo an UN theo
Chương VII Hiến chương UN, nhằm bảo
đảm hòa bình và an ninh quốc tế và bởi vì
tính hiệu quả của các hoạt động đó dựa vào
sự hỗ trợ từ các quốc gia thành viên nên
Công ước châu Âu về quyền con người
không thể được hiểu theo cách mà sẽ đặt các
hành vi và sự thiếu trách nhiệm của các bên
ký kết dưới sự giám sát của tòa án, bởi vì các
hành vi đó vốn đã được bảo đảm bởi nghị
quyết của Hội đồng Bảo an UN và xảy ra
trước hoặc trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ đó52.
Tuy nhiên, do ICTY và ICTR được
thành lập trên cơ sở nghị quyết của Hội đồng
Bảo an UN, nên quan điểm nêu trên dường
như đặt ra một ngoại lệ đối với nguyên tắc
quốc gia phải chịu trách nhiệm khi hợp tác
với một tổ chức quốc tế. Trong trường hợp
này, kết luận đó sẽ ngăn cản bị cáo khởi kiện
thành công ra ECHR.
Vấn đề này có thể khác nếu liên quan
đến ICC. Do ICC được thành lập trên cơ sở
điều ước nên vẫn có thể áp dụng nguyên tắc
truyền thống; theo đó, quốc gia vẫn phải chịu
trách nhiệm đối với các vi phạm xảy ra trong
quá trình hợp tác của quốc gia với một tổ
chức quốc tế. Tuy nhiên, theo Điều 13(2)
Quy chế ICC, Hội đồng Bảo an UN cũng có
quyền đệ trình một vụ việc tới tòa. Do đó,
tùy thuộc vào vụ việc, bị cáo sẽ bị phân biệt
đối xử. Ví dụ, nếu vụ việc của bị cáo được
51 Bosphorus Hava Yollari Tuzim Ve Ticaret AS (Bosphorus Airways) v. Ireland, ECHR 2005, đoạn 165.
52 Behrami and Behrami v. France and Saramati v. France, Germany and Norway, ECHR 2007, đoạn 149.
Hội đồng Bảo an đệ trình tới ICC, thì bị cáo
sẽ không được viện dẫn ra trước các cơ quan
nhân quyền việc vi phạm các quyền của bị
cáo, trong khi về mặt lý thuyết, bị cáo khác
sẽ có cơ hội đó.
Cuối cùng, các phán quyết của tòa án
quốc tế phải dựa vào quốc gia để thi hành án.
Vì vậy, những người bị giam giữ trong các
nhà tù quốc gia có quyền được hưởng sự bảo
vệ của các văn kiện quốc tế về quyền con
người mà quốc gia là thành viên và những
người đó cũng có thể kiến nghị tới các cơ
quan nhân quyền. Các quốc gia có quyền
quyết định tiếp nhận vào lãnh thổ mình
những người đã bị kết án, nếu không có quốc
gia nào sẵn sàng tiếp nhận thì Hà Lan sẽ chịu
trách nhiệm đảm nhận vai trò này53. Một tình
huống đặc biệt đã xảy ra trong vụ Ignace
Bagilishema - người đã được tha bổng
nhưng vẫn bị giam giữ vì không có quốc gia
nào sẵn sàng cấp tị nạn cho bị cáo. Nhóm
công tác về báo cáo giam giữ tùy tiện đã
quyết định rằng “trường hợp này sẽ vẫn có
thể được phép, vì việc giam giữ liên tục
không phải do Tòa án Hình sự quốc tế mà là
do sự không hợp tác từ phía các quốc gia”
và trong tương lai, Nhóm sẽ giải quyết vấn
đề về sự bất hợp tác đó của các quốc gia54.
3. Thay cho lời kết
Theo luật quốc tế về quyền con người,
nếu quốc gia không thực thi quyền con
người ở cả cấp độ trong nước và quốc tế (bao
gồm không thực thi nghĩa vụ truy tố, xét xử
tội phạm) thì quốc gia phải chịu trách nhiệm
trước các cơ quan nhân quyền quốc tế55.
Điều này có nghĩa là người thực hiện hành
vi vi phạm quyền con người và bị coi là tội
phạm quốc tế có thể không bị trừng phạt. Về
phương diện này, Luật Hình sự quốc tế bổ
sung, tăng cường bảo vệ quyền con người
bằng quy định về trách nhiệm hình sự cá
nhân và thiết lập Tòa án Hình sự quốc tế để
đảm bảo công lý được thực hiện cho nạn
nhân.
Bên cạnh đó, một số quyền con người là
tuyệt đối, không thể bị tước bỏ trong mọi
hoàn cảnh. Vì vậy, các quyền cơ bản của cá
nhân bị truy tố trước Tòa án Hình sự quốc tế
cần được bảo vệ. Tuy nhiên, phân tích ở trên
cho thấy, không thể khẳng định, Tòa án Hình
sự quốc tế có đủ khả năng bảo vệ các quyền
con người cho bị cáo. Bởi lẽ, các tòa này
được tự do lựa chọn những điều khoản nào
trong luật nhân quyền mà họ phải áp dụng.
Hơn nữa, do định kiến với tội ác quốc tế
hoặc do sự thiếu hợp tác của các quốc gia,
bị cáo có khả năng bị vi phạm quyền được
suy đoán vô tội hoặc bị giam giữ không có
cơ sở, kéo dài thời gian tạm giam, không có
cơ hội được trình bày bằng chứng để có thể
được miễn hoặc giảm trách nhiệm
Để khắc phục hạn chế này và đảm bảo
không xảy ra vi phạm quyền con người trong
tố tụng hình sự tại các phiên tòa thì cần tăng
cường trách nhiệm tôn trọng các quyền của
bị cáo. Chúng tôi cho rằng, nếu hình sự hóa
trực tiếp các vi phạm quyền con người theo
luật hình sự quốc tế là mức độ bảo vệ cao
nhất đối với quyền con người, thì chỉ khi tôn
trọng quyền con người của các bị cáo trong
các phiên tòa hình sự quốc tế mới có thể đạt
được khát vọng công lý đúng đắn n
Số 7(407) - T4/202012 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
53 W. A. Schabas, An Introduction to the International Criminal Court, p.320.
54 Report of the Working Group on Arbitrary Detention, 16 December 2002, UN Doc. E/CN.4/2003/8,
đoạn 52.
55 See, for example, Khashiyev v. Russia, Isayeva, Yusopova and Bazayeva v. Russia, ECHR 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_ve_quyen_con_nguoi_trong_luat_hinh_su_quoc_te.pdf