Bệnh mù mắt do liên cầu khuẩn gây ra ở cá bớp nuôi tại Khánh Hòa
Với các chủng liên cầu khuẩn đã phân lập
được từ cá bớp bị bệnh mù mắt, trước mắt, việc
xác định độ nhạy cảm với kháng sinh của các
chủng vi khuẩn này là cơ sở khoa học để đưa ra
phát đồ điều trị bệnh mù mắt ở cá bớp. Về lâu
dài, những nghiên cứu tiếp theo về tính tương
dồng kháng nguyên giữa các chủng vi khuẩn
này là cơ sở khoa học cho việc chọn chủng vi
khuẩn nguyên liệu làm vaccine phòng bệnh mù
mắt góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá bớp phát
triển bền vững ở Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bệnh mù mắt do liên cầu khuẩn gây ra ở cá bớp nuôi tại Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
BỆNH MÙ MẮT DO LIÊN CẦU KHUẨN GÂY RA
Ở CÁ BỚP NUÔI TẠI KHÁNH HÒA
BLINDNESS CAUSED BY STREPTOCOCCUS IN
COBIA CULTURED IN KHANH HOA PROVINCE
Trần Vĩ Hích¹, Nguyễn Thi Tường Hạnh², Nguyễn Thị Kim Cúc³
Ngày nhận bài: 8/5/2018; Ngày phản biện thông qua: 12/6/2018; Ngày duyệt đăng: 25/6/2018
TÓM TẮT
Bệnh do liên cầu khuẩn gây ra là một trong những bệnh nguy hiểm ở nhiều loại cá nuôi. Nghiên cứu này
mô tả các chủng liên cẩu khuẩn được phân lập từ cá bớp nuôi ở Khánh Hòa bị bệnh mù mắt. Dựa vào đặc điểm
hình thái và sinh hóa, tất cả các chủng phân lập đều được xác định là S. iniae. Kết quả giải trình tự gen 16S
rDNA của 4 chủng phân lập cũng cho thấy sự tương đồng đến 100% với trình tự của các chủng S. iniae có sẵn
trên Genbank (độ dài đoạn gen được so là 493 – 500bp.) Độc lực của các chủng phân lập khá cao. Liều gây
chết 50% quần đàn cá bớp khi tiêm S. iniae vào xoang bụng biến động từ 103,6 – 104,6 CFU/cá trong thời gian
7 ngày. Mười hai ngày sau khi cảm nhiễm, không thể phân lập được S. iniae từ những cá thí nghiệm còn lại.
Từ khóa: Cá bớp, liên cầu khuẩn, độc lực, LD50
ABSTRACT
Streptococcosis is one of the most serious diseases in a variety of fi sh species. This study describes the
streptococcus isolated from blind cobia culture in Khanh Hoa province. All isolated strains were identifi ed as
S. iniae by morphological and biochemical tests. The 16S rRNA sequences of the 4 S. iniae isolates showed
100% similarities to reference sequences from Genbank (NCBI) based on the 493-500 bp. The virulence of the
isolates is high. Experimental challenge of cobia via intraperitoneal injection resulted the LD50 ranging from
103.6 – 104.6 CFU/fi sh within a seven days period. Twelve days after challenge, S. iniae can not be isolated
from any organism of surviving cobia.
Keywords: Cobia, streptococcus, virulence, LD50
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá bớp (Rachycentron canadum) là loài có
gía trị kinh tế cao, tốc độ tăng trưởng nhanh,
chất lượng thịt cao. Cá có khả năng thành thục
và sinh sản trong các lồng nuôi, đồng thời lại
có thể thích nghi với các loại thức ăn công
nghiệp. Do đó chúng được xem là một đối
tượng phù hợp cho nuôi trồng thủy sản. Với
khả năng chống chịu sóng gió khá tốt, cá bớp
được xem là đối tượng có tiềm năng lớn cho
việc phát triển nghề nuôi lồng xa bờ và những
vùng biển mở.
Ở Khánh Hòa, nghề nuôi cá bớp bắt đầu phát
triển vào nửa cuối những năm 2000 từ những
thành công ban đầu trong việc nuôi cá bớp
trong lồng của Công ty Marine Farm. Khoảng
ba năm trở lại đây, những thành công công việc
cho sinh sản nhân tạo cá bớp đã thúc đẩy nghề
nuôi cá bớp phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự
bùng phát của dịch bệnh đã và đang gây những
thiệt hại nghiêm trọng cho nghề nuôi cá bớp
thương phẩm trong đó lở loét và mù mắt là hai
triệu chứng thường được ghi nhận ở cá bệnh.
Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về
nguyên nhân và phương pháp phòng trị dịch
bệnh được thông báo.
Kết quả nghiên cứu của Liao và các cộng
tác viên năm 2004 đã chỉ ra bệnh do liên cầu
khuẩn (Streptococcosis) là một trong những
bệnh xảy ra phổ biến ở cá bớp nuôi tại Đài Loan.
Một trong những dấu hiệu bệnh lý của cá bớp
mắc bệnh do liên cầu khuẩn gây ra là mù mắt
¹ Trung tâm Nghiên cứu Giống và Dịch bệnh, trường Đại học Nha Trang
² Trung tâm Giống thủy sản Quảng Nam
³ Viện Công nghệ Sinh học & Môi trường, trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
và bơi không định hướng. Nghiên cứu của Lý
Văn Khánh và các cộng sự năm 2015 lại chỉ ra
rằng dịch bệnh đã xảy ra ở 70% lồng nuôi cá
bớp tại Hòn Ngang, Kiên Giang trong đó có đến
48% lồng nuôi xuất hiện triệu chứng mù mắt.
Ở Khánh Hòa, khoảng tháng 11 - tháng 2 hàng
năm, dịch bệnh mù mắt ở cá bớp nuôi thường
xuyên xảy ra và gây thiệt hại nghiêm trọng cho
nghề nuôi cá bớp thương phẩm. Tỉ lệ chết của
cá bớp nuôi trong khoảng thời gian này có thể
lên đến 100% trong đó mù mắt là biểu hiện
thường xuyên xảy ra ở các mẫu bệnh phẩm.
Mục đích của nghiên cứu này là xác định một
số đặc điểm sinh hóa và độc tính của các chủng
S. iniae thu được từ cá bớp bị bệnh mù mắt
nuôi tại Khánh Hòa.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Cá bớp nuôi tại Khánh Hòa và liên cầu
khuẩn phân lập được từ cá bớp bị bệnh mù mắt.
2. Phương pháp nghiên cứu.
2.1 Phương pháp thu mẫu cá và phân lập vi khuẩn
48 cá bớp được thu từ 8 đàn cá bị bệnh mù
mắt nuôi tại Cam Ranh và Vạn Ninh được
thu và vận chuyển sống về Trung tâm Nghiên
cứu Giống và Dịch bệnh Trường Đại học Nha
Trang để phân tích. Ghi nhận những thay đổi
lâm sàng của cá bệnh và sự xuất hiện của ký
sinh trùng ký sinh trên cá. Quan sát sự có mặt
của vi khuẩn ở các tiêu bản phết tổ chức lách,
thận và não sau khi nhuộm gram và phân lập vi
khuẩn từ 3 tổ chức chính là não, gan và thận cá
bệnh trên 3 môi trường tryptic soy agar (TSA,
Merk, Gemany) bổ sung 1,5% NaCl, TCBS
(Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose Agar,
Merk, Germany) và KF streptococcus agar
(KF, Merk, Gemany). Vi khuẩn được nuôi cấy
ở 28ºC trong 24h, sau đó nuôi cấy thuần trên
môi trường TSA và lưu giữ trong môi trường
TSB (tryptic soy broth, Merk, Germany) bổ
sung 1,5% NaCl và 20% glycerol ở -80ºC.
2.2 Phương pháp định danh vi khuẩn
Các cầu khuẩn gram dương âm tính với 2
phản ứng catalase và oxidase được định danh
dựa trên các phản ứng sinh hóa theo hệ thống
định danh của Bergey. Các đặc điểm sinh hóa
của các chủng vi khuẩn phân lập được xác định
bằng kit API20 STREP (bioMerieux, France)
với chủng chuẩn S. iniae ATCC 29178 là chủng
đối chứng. Sử dụng phương pháp giải trình tự
16s rDNA và so sánh với các trình tự có sẵn
trên blast search để khẳng định tên của chủng
vi khuẩn cần định danh
2.3 Phương pháp xác định độc lực của chủng
vi khuẩn phân lập
Ba chủng vi khuẩn CR050417, CR120517,
VN180517 được lựa chọn để khảo sát độc lực.
Thí nghiệm xác định độc lực của mỗi chủng
được tiến hành với 7 nghiệm thức. Mỗi nghiệm
thức gồm 10 cá khỏe mạnh không bị nhiễm S.
iniae được nuôi trong bể composite 250 L chứa
200L nước biển có độ mặn 30-32ppt sục khí liên
tục. Tất cả cá ở 6 nghiệm thức thí nghiệm đều
được tiêm vi khuẩn vào xoang bụng với mật độ
tằng dần từ 101 CFU/cá ở nghiệm thức 1 cho
đến 106CFU/cá ở nghiệm thức 6. Ở nghiệm
thức đối chứng, cá được tiêm 0,1ml nước muối
sinh lý vào xoang bụng. Trong suốt quá trình
thí nghiệm, nhiệt độ nước duy trì ở 29ºC nhờ
máy điều hòa, cá được cho ăn hàng ngày theo
nhu cầu với thức ăn của Uni President. Theo
dõi hoạt động cá và thay nước hằng ngày. Quan
sát, ghi nhận mọi biểu hiện bất thường của cá
thí nghiệm và số lượng cá chết, cá biểu hiện
mù mắt cho đến khi thí nghiệm kết thúc. Liều
gây chết 50% được xác định vào thời điểm sau
5 ngày mà không có cá thí nghiệm nào chết
dựa vào phân tích probit của phần mềm SPSS
STATISTICS ver.19.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN.
1. Kết quả kiểm tra lâm sàn cá bớp bị bệnh
mù mắt.
Kết quả phân tích 48 mẫu bệnh phẩm thu
được từ 8 đàn cá bớp nuôi tại Khánh Hòa bị
bệnh mù mắt đã ghi nhận một số dấu hiệu đi
kèm khi cá bị bệnh mù mắt như: cá chuyển màu
sậm trước khi chuyển sang màu xám và sọc
trắng chạy dọc thân cá mờ dần. Đây là dấu hiệu
cơ bản để nhận biết cá bị mù mắt mà không cần
quan sát mắt của cá. Các dấu hiệu xơ vây, mòn
đuôi, xuất huyết ở miệng, nắp mang, gốc vây
hoặc ở thân cũng được nhìn thấy (Hình 1).
34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
Kí sinh trùng kí sinh ở cá đôi lúc cũng được
tìm thấy ở những mẫu bệnh phẩm (Bảng 1).
Một số kí sinh xuất hiện ở cá bệnh là trùng
bánh xe, trùng loa kèn, trùng quả dưa, sán lá
đơn chủ, sán lá song chủ và giun tròn.
Giải phẫu nội quan bên trong cơ thể thấy
Hình 1. Một số dấu hiệu bệnh lý bên ngoài cá bớp bị nhiễm S. iniae
(A: thân sẫm màu, xuất huyết đuôi; B: mắt lồi và xuất huyết; C: mắt bị đục)
Bảng 1. Nguồn phân lập các chủng S. iniae từ cá bớp nuôi tại Khánh Hòa
Ghi chú: Mô phân lập gồm gan (G), thận (T), não (N).
(a) Trùng bánh xe, (b) Trùng loa kèn, (c) trùng quả dưa
(*) Sán lá song chủ, (**) sán lá đơn chủ, (***) giun tròn
gan có màu nhợt nhạt, xuất huyết, thận sau
sưng to, ngoài ra một số mẫu có dấu hiệu khác
như tích dịch xoang bụng, lách sẫm màu hay
sung (Hình 2)
Tất cả các tiêu bản phết mô tươi cho thấy sự
tồn tại chủ yếu dạng cầu khuẩn đơn độc, xếp cặp
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35
hoặc chuỗi ngắn ở các nội quan như gan, thận,
lách và não cá. Rải rác còn bắt gặp các vi khuẩn
dạng que hoặc phảy khuẩn ở thận và lách của cá
(Hình 3).
2. Kết quả phân lập vi khuẩn từ cá bớp bị
bệnh mù mắt.
Kết quả phân lập vi khuẩn cho thấy thận
của tất cả mẫu cá đều nhiễm cầu khuẩn gram
dương, có khả năng dung huyết, đường kính
khuẩn lạc nhỏ hơn 1mm sau 24h nuôi cấy trên
môi trường TSA. Vi khuẩn có xu hướng tạo
thành chuỗi dài khi nuôi cấy trong môi trường
lỏng (Hình 4).
Hình 2. Dấu hiệu bệnh lý bên trong cá bớp nhiễm S. iniae
(A: gan xuất huyết; B: gan sưng, tích dịch xoang bụng;
C: lách sẫm màu; D: hậu thận sưng).
Hình 3. Mẫu phết nhuộm Gram từ não (A) và thận (B) cá bị mù mắt. (Độ phóng đại 400 lần)
Hình 4. Mẫu phết nhuộm Gram từ não (A) và thận (B) cá bị mù mắt. (Độ phóng đại 400 lần)
Đặc điểm sinh hóa của 8 chủng vi khuẩn
phân lập từ các nguồn cá bệnh khác nhau cho
thấy đều có những tương đồng. và trùng khớp
với tất cả các phản ứng sinh hóa được ghi nhận
từ chủng tham chiếu ATCC 29178 (Bảng 2).
Sự khác biệt về đặc điểm sinh hóa ở các chủng
này so với đối chứng chỉ thể hiện ở 3 phản ứng
là L-arginine, Starch và D-sorbitol (SOR).Tuy
nhiên, sự khác biệt này cũng đã được đề cập
trong các nghiên cứu của nhiều nghiên cứu
trước như Bromage et al. 1999,Trần Vĩ Hích
và cs, 2013. Mặt khác phản ứng L-arginine và
starch không được xem là căn cứ định danh
trong hệ thống phân loại của Bergey. Vì thế kết
quả này cho thấy cả 8 chủng vi khuẩn phân lập
đều là vi khuẩn S. iniae.
Kết quả giải trình tự gen 16s rDNA của
4 chủng vi khuẩn VN080317, CR050417,
CR120517 và VN180517 với độ dài 493-500 bp
cũng cho thấy sự tương đồng đến 100% về trình
36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
Hình 5. Kết quả định danh bằng phương pháp giải trình tự gen 16S rDNA của các
chủng phân lập (từ trên xuống lần lượt là VN080317, CR050417, CR120517 và VN180517.
Bảng 2. Một số đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa của các chủng vi khuẩn phân lập được so với
chủng tham chiếu ATCC 29178 và Bergey
(1:VN080317; 2: CR110317; 3: VN180317; 4: CR050417; 5: VN110417, 6: CR210417, 7: CR120517; 8:
VN180517; 9: chủng ATCC 29178; 10: Bergey)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 37
tự gen khi so sánh với các trình tự gen của vi
khuẩn S. iniae có sẵn trên Genbank (NCBI).
3. Xác định độc lực vi khuẩn S. iniae phân lập
từ cá bệnh
Kết quả thu được từ thí nghiệm cảm nhiễm
ngược các chủng vi khuẩn S. iniae cho thấy
cá bắt đầu chết sau khi tiêm vi khuẩn S. iniae
vào xoang bụng 24h. Tỷ lệ chết tích lũy tăng
dần cho đến ngày thứ 7 thì dừng hẳn. Ở nhóm
đối chứng không có bất kì hiện tượng chết nào
xảy ra, cá khỏe mạnh và hoạt động bơi lội bình
Hình 5. Tỉ lệ chết tích lũy của cá bớp sau khi tiêm vi khuẩn S. iniae
thường cho đến khi kết thúc thí nghiệm
Dấu hiệu bệnh lý của cá thí nghiệm cũng
thể hiện tương tự như cá nhiễm S. iniae ở
ngoài tự nhiên. Trước khi chết cá thường
chuyển màu đen sậm và bơi lội bất thường.
Các dấu hiệu mòn vây, xuất huyết ngoài da,
gan hoặc sưng thận cũng được tìm thấy ở cá
thí nghiệm. Dấu hiệu mù mắt ở cá thí nghiệm
được biểu lộ rõ vào ngày thứ 4 sau khi cảm
nhiễm. Liều gây chết 50% quần đàn cá bớp
khi tiêm vi khuẩn VN180517, CR050417 và
CR120517 vào xoang bụng lần lượt là 103,6,
104,3 và 104,6CFU/cá (Hình 5).
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu về bệnh do
S. iniae gây ra ở nhiều loài cá khác nhau nhưng
cho đến nay hầu như vẫn chưa có báo cáo chính
thức về độc lực của vi khuẩn S. iniae ở cá bớp
trừ nghiên cứu của Nguyễn Trường Phúc năm
2011 khi làm khóa luận tốt nghiệp đại học cho
biết LD50 của vi khuẩn này đối với cá bớp là
3,18 x 106CFU/cá. Báo cáo của Trần Vĩ Hích
38 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
và các cộng sự năm 2013 đã xác định nồng độ
vi khuẩn S. iniae gây chết 50% quần đàn cá
chẽm bằng cách khi tiêm vào xoang bụng là
104,8 - 105,8CFU/cá trong khi nghiên cứu tương
tự ở cá đù đỏ của Mmanda và các cộng sự năm
2014 cho biết LD50 là 9,65 x 106CFU/cá. So
sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả này
thì rõ ràng độc lực của các chủng S. iniae phân
lập ở cá bớp nuôi tại Khánh Hòa khá cao.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Vi khuẩn S. iniae là tác nhân gây ra bệnh
mù mắt ở cá bớp nuôi tại Khánh Hòa. Độc lực
của các chủng vi khuẩn phân lập được khá cao
với liều vi khuẩn gây chết 50% quần đàn cá
bớp là 103,6 - 104,6CFU/cá khi cảm nhiễm vào
xoang bụng.
2. Kiến nghị
Với các chủng liên cầu khuẩn đã phân lập
được từ cá bớp bị bệnh mù mắt, trước mắt, việc
xác định độ nhạy cảm với kháng sinh của các
chủng vi khuẩn này là cơ sở khoa học để đưa ra
phát đồ điều trị bệnh mù mắt ở cá bớp. Về lâu
dài, những nghiên cứu tiếp theo về tính tương
dồng kháng nguyên giữa các chủng vi khuẩn
này là cơ sở khoa học cho việc chọn chủng vi
khuẩn nguyên liệu làm vaccine phòng bệnh mù
mắt góp phần thúc đẩy nghề nuôi cá bớp phát
triển bền vững ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lý Văn Khánh, Lê Quốc Việt, Võ Nam Sơn, Trần Thanh Sơn, Nguyễn Văn Hiển và Trần Ngọc Hải, 2015.
Hiện trạng kỹ thuật của nghề nuôi cá lồng ở quần đào Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Khoa
học, Trường Đại học Cần Thơ. Trang 97 – 104.
2. Nguyễn Trường Phúc, 2011. Tìm hiểu bệnh mù mắt ở cá bớp nuôi lồng tại Khánh Hòa. Luận văn tốt nghiệp
kỹ sư ngành Bệnh học Thủy sản, Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang.
Tiếng Anh
3. Bromage E.S., Thomas A. and Owens L. (1999) Streptococcus iniae, a bacterial infection in barramundi
Lates Calcarifer. Disease of aquatic organisms, 36:177-181.
4. Hich Tran Vi, Quyen Vu Dang Ha, Dung Nguyen Huuand Heidrun Inger Wergeland (2013). Experimental
Streptococcus iniae infecton in barramundi (Lates calcarifer) cultured in Vietnam. International journal of
aquatic science. 4(1), pp.3-12
5. Liao I.C., Huang T.S., Tsai W.S. Hsueh C.M., Chang S.L. and Leano E.M. 2004. Cobia culture in Taiwan:
current status and problems. Aquaculture 237 155 – 165.
6. Mmanda FP, Zhou S, Zhang J, Zheng X, An A, Wang G. 2014. Massive mortality associated with
Streptococcus iniae infection in cage – cultured red drum (Sciaenops ocellatus) in Eastern China. African
Journal of Microbiology Research. 8(16):1722 – 1729.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- benh_mu_mat_do_lien_cau_khuan_gay_ra_o_ca_bop_nuoi_tai_khanh.pdf