Biển hiệu - Bản chất và mối quan hệ với quyền sở hữu nhãn hiệu và tên thương mại
Nhãn hiệu, tên thương mại không được
trùng hoặc tương tự với biển hiệu: Giải thích
rõ quyền của người thứ ba trong quá trình
xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu tại Điều 112
Luật SHTT năm 20055, cụ thể:
Chủ sở hữu biển hiệu có quyền yêu cầu
hủy đơn đăng ký hoặc văn bằng bảo hộ nhãn
hiệu xác lập sau với điều kiện biển hiệu đạt
được sự nổi tiếng trên toàn lãnh thổ hoặc
việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu có dấu
hiệu gây nhầm lẫn với nội dung biển hiệu đã
tồn tại trước; trừ trường hợp việc xác lập
quyền sở hữu nhãn hiệu ngay tình.
Cho phép sử dụng biển hiệu cho chi
nhánh, vì một chủ thể kinh doanh được
quyền có nhiều biển hiệu ở nhiều địa phương
khác nhau. Vì việc sử dụng và khai thác biển
hiệu không chỉ nhằm mục đích công bố ra
công chúng về sự tồn tại mà còn là sự quảng
bá hình ảnh của doanh nghiệp.
Không quảng cáo trên biển hiệu. Xét về
bản chất, biển hiệu là dấu hiệu dùng phân
biệt các chủ thể kinh doanh trong cùng phạm
vi khu vực kinh doanh, vì thế nội dung trên
biển hiệu chỉ được thể hiện các thông tin cần
thiết về chủ thể kinh doanh.
Mở rộng quyền của chủ sở hữu biển
hiệu. Có thể công nhận quyền sở hữu biển
hiệu là quyền tài sản. Có thể bổ sung quy
định cho phép chủ sở hữu thực hiện các giao
dịch liên quan đến quyền sở hữu biển hiệu.
Chế tài vi phạm biển hiệu: chủ sở hữu
biển hiệu có quyền yêu cầu bồi thường nếu
việc sử dụng biển hiệu khi chưa có sự đồng
ý hoặc việc sử dụng gây nhầm lẫn về chủ thể
kinh doanh6.
Về mặt lý luận, việc phân biệt rõ ràng
giữa các quyền sở hữu công nghiệp như nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại với biển hiệu
sẽ giúp cơ quan quản lý và cơ quan chuyên
môn khác dễ dàng xử lý các tình huống phát
sinh trong tương lai. Bên cạnh đó, việc thừa
nhận quyền sở hữu biển hiệu làm tăng thêm
giá trị tài sản vô hình của các chủ thể kinh
doanh, cũng như quyền ngăn cấm việc sử
dụng gây nhầm lẫn đối với các dấu hiệu trình
bày trên biển hiệu
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biển hiệu - Bản chất và mối quan hệ với quyền sở hữu nhãn hiệu và tên thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIÏÍN HIÏåU - BAÃN CHÊËT VAÂ MÖËI QUAN HÏå
VÚÁI QUYÏÌN SÚÃ HÛÄU NHAÄN HIÏåU VAÂ TÏN THÛÚNG MAÅI
TrầN Lê ĐăNg PhươNg*
1. Pháp luật thực định về biển hiệu
Giống như tên thương mại, biển hiệu
trong thực tế là yếu tố cấu thành sản nghiệp
thương mại và có chức năng phân biệt với
các đối thủ cạnh tranh khác. Biển hiệu trước
tiên là một dấu hiệu phải được thể hiện ra
bên ngoài và nhìn thấy được. Vì thế, một
biển hiệu chỉ được đặt tại trụ sở doanh
nghiệp khi đáp ứng các điều kiện sau:
Tính hợp pháp: Pháp luật Việt Nam quy
định các điều kiện theo đó một dấu hiệu có
thể được công nhận là biển hiệu khi đáp ứng
các yêu cầu về nội dung được quy định tại
khoản 1 Điều 34 Luật Quảng cáo năm 2012,
cụ thể phải có “Tên cơ quan chủ quản trực
tiếp (nếu có); tên cơ sở sản xuất, kinh doanh
theo đúng giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; và địa chỉ, điện thoại”. Bên cạnh đó,
pháp luật không thừa nhận xác lập quyền đối
với việc sử dụng thực tế biển hiệu. Vì thế,
việc lựa chọn một biển hiệu không được trái
với các quy định của pháp luật, cụ thể là đảm
bảo tính mỹ quan. Một biển hiệu được công
nhận là tồn tại hợp pháp chỉ khi được treo tại
trụ sở của chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên,
pháp luật chưa đề cập đến nội dung biển hiệu
không được xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khác trong kinh
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* TS. Đại học An Giang.
Biển hiệu trong kinh doanh đóng vai trò truyền tải thông tin về chủ thể
kinh doanh ra công chúng, hay nói cách khác, chỉ đích danh chủ thể
chịu trách nhiệm pháp lý về hoạt động sản xuất kinh doanh có trụ sở
hoạt động gắn biển hiệu. Bên cạnh đó, biển hiệu còn đóng vai trò thông
tin nên chủ thể kinh doanh cố gắng tận dụng lợi thế này để truyền tải
tất cả thông tin liên quan đến sản phẩm, dịch vụ mà họ đang kinh
doanh, nhưng từ đó có thể phát sinh những tình huống vi phạm quyền
sở hữu đối với tên thương mại hoặc nhãn hiệu hàng hóa.
doanh nói riêng và trật tự xã hội nói chung.
Ví dụ, một cửa hiệu kinh doanh thực phẩm
chức năng sử dụng dấu chữ thập quy ước cho
các sản phẩm dược, việc sử dụng này sẽ gây
nhầm lẫn cho người tiêu dùng, vì họ tin rằng
chủ thể này đang kinh doanh sản phẩm có
khả năng chữa được bệnh; hoặc nội dung
biển hiệu có dấu hiệu tương tự hoặc trùng với
nhãn hiệu hàng hóa đã tồn tại trước đó.
Tính phân biệt: Biển hiệu thể hiện thông
tin phân biệt các chủ thể kinh doanh trong
cùng lĩnh vực và cùng khu vực kinh doanh
với nhau. Hơn nữa, nội dung biển hiệu phải
thể hiện được sự phân biệt với chính chủ thể
kinh doanh, có nghĩa là không được thể hiện
các từ ngữ miêu tả, khẳng định vị thế của
chính chủ thể kinh doanh. Quy định của Điều
34 Luật Quảng cáo năm 2012 đã thu hẹp nội
dung của khoản 3 Điều 23 Nghị định số
103/2009 của Chính phủ ngày 6/11/2009 ban
hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hóa công cộng, cụ thể một
biển hiệu chỉ được thể hiện tên đầy đủ của
chủ thể kinh doanh đã đăng ký và thông tin
liên hệ (địa chỉ và số điện thoại). Với quy
định này, Luật Quảng cáo năm 2012 tạo
được sự phân biệt giữa nội dung quảng cáo
và sự tồn tại về mặt pháp lý của chủ thể kinh
doanh. Tuy nhiên, thông tin về địa chỉ thể
hiện trên biển hiệu, theo chúng tôi là nội
dung không cần thiết. Bởi lẽ, theo quy định
tại khoản 2 Điều 23 Nghị định số
103/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày
6/11/2009 ban hành Quy chế hoạt động văn
hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công
cộng, việc sử dụng biển hiệu chỉ được xem
là hợp pháp khi được treo ngay trụ sở của
chủ thể kinh doanh. Còn theo khoản 4 Điều
17 Luật Quảng cáo năm 2012, biển hiệu
được hiểu là phương tiện quảng cáo và vô
hình trung được sử dụng không chỉ tại trụ sở
của chủ thể kinh doanh, mà còn được khai
thác ở những phạm vi địa lý khác. Như vậy,
quy định về nội dung biển hiệu trong Luật
Quảng cáo năm 2012 có sự mâu thuẫn. Sự
mâu thuẫn này có thể tạo ra những hệ lụy
trong công tác quản lý hoạt động quảng cáo,
cũng như khai thác quyền sở hữu trí tuệ
(SHTT) đối với biển hiệu.
2. Mối quan hệ giữa biển hiệu với quyền
sở hữu nhãn hiệu và tên thương mại
Biển hiệu với tên thương mại: Theo
khoản 21 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, “Tên
thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân
dùng trong hoạt động kinh doanh để phân
biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với
chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực
và khu vực kinh doanh” và có thể được thể
hiện trong biển hiệu (theo khoản 6 Điều 124
Luật SHTT). Nhưng, Luật SHTT năm 2005
lại không có điều khoản nào định nghĩa về
biển hiệu. Bên cạnh đó, Điều 34 Luật Quảng
cáo năm 2012 có ghi nhận, biển hiệu chỉ
được thể hiện tên của cơ sở sản xuất kinh
doanh theo giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, quy định này có thể hình dung tên
thương mại và biển hiệu có những đặc điểm
pháp lý gần giống nhau:
Thứ nhất, nội dung biển hiệu và tên
thương mại đều phải là các đối tượng hợp
pháp, có nghĩa là tên của chủ thể kinh doanh
phải được đăng ký trước.
Thứ hai, cả hai đối tượng đều thể hiện
tên gọi của chủ thể trong giao dịch kinh
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Điều 34. Biển hiệu của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh
1) Biển hiệu phải có các nội dung sau:
b) Tên cơ sở sản xuất, kinh doanh theo đúng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
doanh nhằm hướng đến sự phân biệt với các
chủ thể khác.
Thứ ba, một chủ thể kinh doanh không
được sử dụng hơn một tên thương mại hoặc
biển hiệu. Bởi lẽ, theo quy định của Luật
Quảng cáo năm 2012, biển hiệu phải thể hiện
tên của chủ thể kinh doanh đã đăng ký với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền1.
Tuy nhiên, pháp luật không quy định bắt
buộc doanh nghiệp phải có tên thương mại
và quyền sở hữu tên thương mại chỉ phát
sinh dựa trên cơ sở sử dụng hợp pháp2,
ngược lại pháp luật quy định bắt buộc mỗi
chủ thể kinh doanh phải gắn biển hiệu trước
trụ sở kinh doanh (Điều 32 Nghị định số
155/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu
tư). Tên thương mại được công nhận là
quyền sở hữu công nghiệp, yếu tố cấu thành
sản nghiệp thương mại, ngược lại biển hiệu
chỉ là công cụ thể hiện tài sản đó ra bên ngoài
đối với công chúng, mặc dù biển hiệu cũng
đóng vai trò thu hút khách hàng và thể hiện
sự phân biệt các chủ thể kinh doanh trong
cùng lĩnh vực hoặc cùng phạm vi; hơn nữa,
phạm vi bảo hộ đối với tên thương mại được
Luật SHTT năm 2005 khẳng định một cách
rõ ràng trong phạm vi khu vực kinh doanh và
trong lĩnh vực kinh doanh3, ngược lại pháp
luật quảng cáo không đề cập phạm vi bảo hộ
đối với biển hiệu. Như vậy, trong trường hợp
một chủ thể sử dụng biển hiệu có chứa đựng
tên thương mại vượt ra khỏi khu vực kinh
doanh có quyền ngăn cấm các chủ thể khác
sử dụng hoặc khai thác tên thương mại trùng
hoặc tương tự không? Đây là vấn đề mà pháp
luật về quảng cáo và SHTT chưa đề cập đến.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu tên thương mại
có quyền yêu cầu chấm dứt việc sử dụng tên
thương mại hoặc khởi kiện ra tòa án khi chưa
có sự đồng ý của họ.
Biển hiệu với nhãn hiệu hàng hóa : Theo
khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005, nhãn
hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau,
nhãn hiệu có vai trò là thông tin về nguồn
gốc xuất xứ của hàng hóa mà nó thể hiện.
Ngược lại, biển hiệu thể hiện sự tồn tại của
chủ thể kinh doanh được pháp luật công
nhận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
một chủ thể có thể sử dụng tên cùng một đối
tượng là tên doanh nghiệp, tên thương mại
và nhãn hiệu hàng hóa. Hơn nữa, pháp luật
Việt Nam không cấm việc dùng các dấu hiệu
cấu thành biển hiệu đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa, vì nhãn hiệu không yêu cầu phải có tính
mới như một số quyền sở hữu công nghiệp
khác. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu hàng
hóa có thể được thể hiện trên biển hiệu; việc
phân biệt các đối tượng quyền SHTT là
không quá khó khăn đối với chủ thể trong
kinh doanh; ngược lại đối với người tiêu
dùng, việc phân biệt các đối tượng này
không phải là dễ dàng.
Luật SHTT năm 2005 thừa nhận phạm
vi bảo hộ của quyền sở hữu nhãn hiệu trên
toàn lãnh thổ, vì thế việc khai thác và bảo hộ
nhãn hiệu được công nhận ở phạm vi tương
xứng. Ngược lại, một biển hiệu chỉ được
thừa nhận trong khu vực kinh doanh nhất
định, cụ thể là địa phương nơi có trụ sở của
chủ thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều này có thể hình dung trong thực
tế một sản phẩm mang nhãn hiệu A (đồng
thời là tên thương mại, tên doanh nghiệp)
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Điểm b khoản 3 Điều 6 Luật SHTT năm 2005.
3 Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT năm 2005.
được ghi trên biển hiệu và treo nhiều nơi trên
toàn quốc. Vậy, trong trường hợp này cơ
quan có thẩm quyền sẽ xác định đối tượng
thể hiện trên biển hiệu thuộc loại nào. Giả sử
tại một địa phương T, một chủ thể sử dụng
biển hiệu cùng là tên A nhằm mục đích phân
biệt chủ thể kinh doanh, trong trường hợp
này chủ sở hữu nhãn hiệu A có quyền ngăn
cấm việc sử dụng và khai thác dấu hiệu A
hay không? Chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền
khởi kiện nếu việc sử dụng nhằm kinh doanh
sản phẩm trùng hoặc tương tự; ngược lại chủ
sở hữu dấu hiệu A không thể ngăn cấm người
khác sử dụng biển hiệu, vì phạm vi bảo hộ
của biển hiệu chỉ trong phạm vi địa phương
doanh nghiệp có trụ sở.
Xét về bản chất, việc sử dụng biển hiệu
cũng có thể nhằm mục đích tiêu thụ sản
phẩm, ngay cả khi trên nội dung biển hiệu
không thể hiện những thông tin sản phẩm
kinh doanh, bởi lẽ người tiêu dùng có thể
nhận biết sản phẩm thông qua các dấu hiệu
chỉ chủ thể kinh doanh.
Sử dụng biển hiệu trước khi một nhãn
hiệu hàng hóa có dấu hiệu tương tự hoặc
trùng được xác lập: Quy định của pháp luật
về quyền SHTT không cho phép chủ sở hữu
nhãn hiệu được xác lập sau có quyền ngăn
cấm việc khai thác biển hiệu đã tồn tại trước.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là một khi
biển hiệu của doanh nghiệp được khai thác
và đạt đến mức độ nổi tiếng vượt ra khỏi
phạm vi khu vực kinh doanh đã đăng ký, có
thể trở thành biển hiệu nổi tiếng trong toàn
lãnh thổ, việc một chủ thể khác đăng ký nhãn
hiệu hàng hóa có các yếu tố trùng hoặc tương
tự với biển hiệu nổi tiếng sẽ dễ gây nhầm lẫn
về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa. Hơn
nữa, trong trường hợp này có thể xem việc
đăng ký nhãn hiệu nhằm mục đích lợi dụng
sự nổi tiếng của dấu hiệu đã tồn tại trong
thực tế. Tuy nhiên, pháp luật chưa công nhận
việc xác lập quyền sở hữu đối với biển hiệu,
nên chủ thể có biển hiệu khó có căn cứ khởi
kiện chủ thể khác có hành vi sử dụng các nội
dung trên biển hiệu của họ.
Sử dụng biển hiệu trùng hoặc tương tự
với nhãn hiệu hàng hóa đã được xác lập
trước: Tất nhiên việc sử dụng biển hiệu chỉ
được thực hiện trong phạm vi khu vực kinh
doanh của chủ thể kinh doanh. Hơn nữa, biển
hiệu nhằm phân biệt các chủ thể kinh doanh
với nhau; ngược lại nhãn hiệu là dấu hiệu
phân biệt hàng hóa của chủ thể này với chủ
thể khác. Như vậy, trong chừng mực nhất
định, việc sử dụng biển hiệu có dấu hiệu
trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu có thể
không phải là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Hơn nữa, quy định tại Điều 17 Luật
Quảng cáo năm 2012 công nhận biển hiệu
chỉ là một phương tiện quảng cáo, quy định
này vô hình trung cho phép một chủ thể bất
kỳ có quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của
chủ thể khác nhằm mục tiêu thu hút khách
hàng. Bởi lẽ, theo giải thích tại khoản 1 Điều
2 Luật Quảng cáo năm 2012, nội dung biển
hiệu trong trường hợp này nhằm mục đích
thông báo ra công chúng việc kinh doanh các
sản phẩm có thể của chính chủ thể kinh
doanh hoặc sản phẩm đã đăng ký nhãn hiệu
của chủ thể khác. Ví dụ, một chủ thể sử dụng
biển hiệu với các yếu tố thể hiện việc kinh
doanh các sản phẩm điện thoại APPLE, việc
trình bày biển hiệu trong trường hợp này
phát sinh các tình huống pháp lý sau:
Thứ nhất, ngay trong cửa hàng có bán
điện thoại của APPLE và rõ ràng đây không
phải là hành vi xâm phạm nhãn hiệu của
APPLE, vì nội dung của biển hiệu nhằm
thông báo với công chúng là cửa hàng có bán
sản phẩm của APPLE.
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Thứ hai, cửa hàng không có bán các sản
phẩm của hãng APPLE hoặc đã từng kinh
doanh sản phẩm của APPLE, việc sử dụng
nội dung biển hiệu này nhằm mục tiêu thu
hút khách hàng, những người có nhu cầu sử
dụng điện thoại nói chung.
Cả hai tình huống pháp lý trên đều sử
dụng nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể khác
vào mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, trong
tình huống thứ nhất, nếu ngoài việc kinh
doanh sản phẩm của APPLE, cửa hàng còn
bán nhiều loại điện thoại khác, hành vi sử
dụng nhãn hiệu trong trường hợp này có thể
xem là hợp pháp. Ngược lại, trong tình
huống thứ hai, chủ sở hữu nhãn hiệu phải
chứng minh việc sử dụng nhãn hiệu là hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Luật SHTT năm 2005 cho phép chủ sở
hữu nhãn hiệu khởi kiện hành vi sử dụng các
dấu hiệu tương tự hoặc trùng với nhãn hiệu
đã đăng ký và xem việc sử dụng bất hợp
pháp này là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh4. Ngược lại, pháp luật thực định không
quy định việc sử dụng các dấu hiệu tương tự
hoặc trùng với biển hiệu là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, mặc dù việc sử dụng
các dấu hiệu trên biển hiệu của chủ thể khác
cũng nhằm mục đích tiêu thụ hàng hóa hoặc
dịch vụ.
Như vậy, rõ ràng nhãn hiệu hàng hóa
nhằm mục đích phân biệt sản phẩm dịch vụ
của các chủ thể khác nhau; tên thương mại
và biển hiệu nhằm phân biệt chủ thể kinh
doanh khác nhau. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, tên thương mại và biển hiệu có
thể là dấu hiệu dùng phân biệt sản phẩm dịch
vụ và có chức năng thu hút khách hàng,
nghĩa là hai đối tượng này đóng vai trò của
nhãn hiệu hàng hóa.
3. Một số kiến nghị
Thực tế tồn tại các quy định không thống
nhất về nội dung biển hiệu là tiền đề phát
sinh các tình huống tranh chấp trong tương
lai với một số quyền sở hữu công nghiệp, cụ
thể là tên thương mại và nhãn hiệu hàng hóa;
hoặc việc sử dụng biểu hiện có thể gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng. Vì thế, cần thiết
phải bổ sung một số quy định điều chỉnh việc
xác lập và sử dụng biển hiệu, cụ thể như sau:
Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với
biển hiệu: Theo quy định của pháp luật thực
định, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động
sản xuất, kinh doanh phải có biển hiệu riêng
và phân biệt với các chủ thể khác trong cùng
khu vực và lĩnh vực kinh doanh. Chủ thể
kinh doanh chỉ được quyền khai thác biển
hiệu khi đã hoàn tất các thủ tục với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, một biển
hiệu sau khi đăng ký và đưa vào khai thác
thương mại có thể được người tiêu dùng thừa
nhận như là dấu hiệu có chức năng phân biệt
với nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp
khác. Trong trường hợp này, biển hiệu trở
thành một yếu tố cấu thành sản nghiệp
thương mại. Vì thế, pháp luật Việt Nam cần
bổ sung quy định về quyền sở hữu biển hiệu
bao gồm các yếu tố thể hiện trên biển hiệu,
vì chính các dấu hiệu này là yếu tố giúp
khách hàng dễ dàng nhận dạng và phân biệt
với các dấu hiệu của chủ thể khác.
Nội dung thể hiện trên biển hiệu: Pháp
luật SHTT cần bổ sung quy định giải quyết
xung đột giữa các quyền sở hữu công nghiệp
và biển hiệu. Theo đó, cần xác định lại nội
dung được thể hiện trên biển hiệu, chẳng hạn
như chủ thể kinh doanh chỉ có quyền giới
thiệu về tên riêng hoặc tên thương mại trên
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Điều 129 và Điều 130 Luật SHTT năm 2005.
biển hiệu. Nội dung của một biển hiệu phải
đảm bảo tính phân biệt và hợp pháp:
Thứ nhất, biển hiệu không được dùng
các dấu hiệu mang tính chất mô tả, hoặc từ
ngữ thông thường chỉ hàng hóa dịch vụ kinh
doanh. Như vậy, nội dung thể hiện trên biển
hiệu phải thể hiện được sự phân biệt với sản
phẩm dịch vụ mà chủ thể đang kinh doanh.
Thứ hai, dấu hiệu dùng đăng ký biển
hiệu phải không trùng hoặc tương tự với biển
hiệu đã được khai thác cho cùng loại sản
phẩm dịch vụ trong cùng phạm vi khu vực
kinh doanh và không được trùng hoặc tương
tự với tên thương mại và nhãn hiệu hàng hóa
của chủ thể khác. Việc bổ sung quy định này
nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng các yếu tố
màu sắc đã được đăng ký nhãn hiệu hàng
hóa, hoặc được sử dụng dưới danh nghĩa tên
thương mại của chủ thể khác nhằm mục đích
thu hút khách hàng.
Nhãn hiệu, tên thương mại không được
trùng hoặc tương tự với biển hiệu: Giải thích
rõ quyền của người thứ ba trong quá trình
xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu tại Điều 112
Luật SHTT năm 20055, cụ thể:
Chủ sở hữu biển hiệu có quyền yêu cầu
hủy đơn đăng ký hoặc văn bằng bảo hộ nhãn
hiệu xác lập sau với điều kiện biển hiệu đạt
được sự nổi tiếng trên toàn lãnh thổ hoặc
việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu có dấu
hiệu gây nhầm lẫn với nội dung biển hiệu đã
tồn tại trước; trừ trường hợp việc xác lập
quyền sở hữu nhãn hiệu ngay tình.
Cho phép sử dụng biển hiệu cho chi
nhánh, vì một chủ thể kinh doanh được
quyền có nhiều biển hiệu ở nhiều địa phương
khác nhau. Vì việc sử dụng và khai thác biển
hiệu không chỉ nhằm mục đích công bố ra
công chúng về sự tồn tại mà còn là sự quảng
bá hình ảnh của doanh nghiệp.
Không quảng cáo trên biển hiệu. Xét về
bản chất, biển hiệu là dấu hiệu dùng phân
biệt các chủ thể kinh doanh trong cùng phạm
vi khu vực kinh doanh, vì thế nội dung trên
biển hiệu chỉ được thể hiện các thông tin cần
thiết về chủ thể kinh doanh.
Mở rộng quyền của chủ sở hữu biển
hiệu. Có thể công nhận quyền sở hữu biển
hiệu là quyền tài sản. Có thể bổ sung quy
định cho phép chủ sở hữu thực hiện các giao
dịch liên quan đến quyền sở hữu biển hiệu.
Chế tài vi phạm biển hiệu: chủ sở hữu
biển hiệu có quyền yêu cầu bồi thường nếu
việc sử dụng biển hiệu khi chưa có sự đồng
ý hoặc việc sử dụng gây nhầm lẫn về chủ thể
kinh doanh6.
Về mặt lý luận, việc phân biệt rõ ràng
giữa các quyền sở hữu công nghiệp như nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại với biển hiệu
sẽ giúp cơ quan quản lý và cơ quan chuyên
môn khác dễ dàng xử lý các tình huống phát
sinh trong tương lai. Bên cạnh đó, việc thừa
nhận quyền sở hữu biển hiệu làm tăng thêm
giá trị tài sản vô hình của các chủ thể kinh
doanh, cũng như quyền ngăn cấm việc sử
dụng gây nhầm lẫn đối với các dấu hiệu trình
bày trên biển hiệu n
24
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 04(308) T2/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 “Điều 112. Ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ
Kể từ ngày đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp đến trước ngày ra quyết
định cấp văn bằng bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở
hữu công nghiệp về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ đối với đơn đó. Ý kiến phải được lập thành văn bản kèm
theo các tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh”.
6 Theo điểm a khoản 1 Điều 130 Luật SHTT năm 2005, việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh
doanh được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Xét về bản chất, biển hiệu thể hiện thông tin về chủ thể kinh
doanh, nên việc sử dụng biển hiệu khi chưa được phép của chủ sở hữu có thể gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh và nên
xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_hieu_ban_chat_va_moi_quan_he_voi_quyen_so_huu_nhan_hieu.pdf