hực tế cho thấy, thực tiễn cuộc sống
là môi trường sinh động, nguồn nguyên liệu
đa dạng, phong phú nhất đối với đại biểu
Quốc hội. Do đó, phải có cơ chế để đại biểu
Quốc hội nói chung và nữ đại biểu nói riêng
có thể đi khắp mọi miền đất nước nhằm nắm
bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Từ đó sẽ giúp họ có được những ý kiến sắc
sảo; làm đại biểu phải biết: đi nhiều, nghe
nhiều, nói nhiều và viết nhiều.
Thứ hai, điều kiện tái cử đối với đại
biểu nữ cần mở rộng theo hướng ưu tiên.
Thực tế cho thấy, các đại biểu Quốc hội nói
chung cũng như các nữ đại biểu nói riêng
thường hoạt động sắc sảo, sôi nổi, chất lượng
hơn khi hoạt động từ nhiệm kỳ thứ hai trở đi.
Ví dụ, đại biểu Trần Thị Hoa Ry là người
trẻ nhất trong Quốc hội khóa X, để có được
hình ảnh một nữ đại biểu tranh luận, chất
vấn “tới cùng” ở nghị trường thì phải đến
nhiệm kỳ thứ hai trở đi. Đại biểu H’Luộc
Nơr Tơr (Đăk Lăk), Huỳnh Thị Hường
(Quảng Nam), Nguyễn Thị Vân Lan (thành
phố Đà Nẵng) rất sắc sảo ở nghị trường
nhưng cũng phải từ nhiệm kỳ thứ hai.
Thứ ba, bản lĩnh chính trị và năng lực
thực hành là điều kiện tiên quyết đối với chất
lượng hoạt động của nữ đại biểu Quốc hội.
Là đại biểu Quốc hội, dù Đảng viên
hay người ngoài Đảng cũng phải tu dưỡng,
rèn luyện cho mình một bản lĩnh chính trị
vững vàng đủ sức nắm vững chủ trương
đường lối của Đảng, đồng thời phải có đủ
năng lực để biến chủ trương đường lối thành
chính sách pháp luật của Nhà nước.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận án: Quyền khởi kiện, thời hiệu, căn cứ thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÌNH LUẬN ÁN: QUYỀN KHỞI KIỆN, THỜI HIỆU,
CĂN CỨ THU HỒI GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐÃ CẤP
Tóm tắt:
Trong thực tiễn, để giải quyết một vụ án dân sự, cần phải nghiên
cứu tổng thể các vấn đề pháp lý liên quan, từ pháp luật tố tụng đến
pháp luật nội dung. Vụ án phân chia di sản thừa kế dưới đây là
một ví dụ. Bài viết tập trung bình luận, phân tích các vướng mắc
và đề xuất hoàn thiện pháp luật đặt ra trong vụ án, bao gồm: (i)
quyền khởi kiện; (ii) thời hiệu khởi kiện vụ án liên quan đến yêu
cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp và (iii) Căn
cứ thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp.
Nguyễn Thuỳ Trang*
Võ Văn Bình**
* Thẩm phán, Phó Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai
* TS. LS. Đoàn Luật sư TP. Hà Nội
Abstract
In practice, to solve a civil case, it is required to review the
overall legal issues related, from procedural law to content law.
The inheritance division case below is an example. This article is
to focus on commenting, analyzing the obstacles and improving
relevent legal principles mentioned in the case below: (i) rights
to sue; (ii) statute of limitations for initiation of a lawsuit and (iii)
Conditions for the revocation of the Land use right certificate
(LURC) has been granted.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền khởi kiện, thời hiệu khởi
kiện, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 27/05/2019
Biên tập : 02/06/2019
Duyệt bài : 08/06/2019
Article Infomation:
Keywords: Rights to sue, statute of
limitations for initiation of a lawsuit, the
granted LURC
Article History:
Received : 27 May 2019
Edited : 02 Jun. 2019
Approved : 08 Jun. 2019
1. Tóm tắt nội dung vụ án
Ngày 8/7/1993, ông K được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN
QSDĐ) số 00070 đối với diện tích 258 m2
đất vườn và 225 m2 đất ở. Ngày 5/9/2002,
Ông K đã làm đơn xin tặng cho quyền sử
dụng đất (SDĐ) đối với hai thửa đất trên cho
ông A (là con trai của ông K). Sau khi đo
đạc, lập Biên bản xác định ranh giới và Biên
bản xét duyệt hồ sơ đăng ký đất đai, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác định ông A có
đủ điều kiện được cấp GCN QSDĐ. Ngày
29/7/2003, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện
T cấp GCN QSDĐ cho ông A. Tính đến thời
điểm cấp GCN QSDĐ cho ông K năm 1993
và cấp GCN QSDĐ cho ông A năm 2003
theo văn bản tặng cho quyền SDĐ, không có
phát sinh tranh chấp.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 18(394) T9/2019
Ngày 24/4/2017, bà B (chị gái cùng
cha khác mẹ của ông K) khởi kiện yêu cầu
Tòa án thu hồi và hủy GCN QSDĐ đã cấp
cho ông A (năm 2003) và yêu cầu chia di
sản thừa kế đối với hai thửa đất nêu trên.
Theo bà B, hai thửa đất trên là di sản thừa
kế do ông X (bố đẻ của ông K và bà B để
lại). Theo hồ sơ vụ án, ông X đã chết từ năm
1979. Bà B không cung cấp được bất kỳ giấy
tờ nào chứng minh quyền SDĐ là tài sản của
ông X ngoại trừ một văn bản hoà giải tại địa
phương giữa ông K và bà B có dòng chữ
“nguồn gốc đất cha ông để lại”. UBND xã
có văn bản xác nhận dòng chữ trên được ghi
lại căn cứ vào lời khai của các bên. Hồ sơ địa
chính tại địa phương liên quan đến hai thửa
đất nêu trên không có tên ông X.
2. Vấn đề pháp lý cơ bản đặt ra trong vụ án
2.1 Quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng
dân sự (TTDS)
Điều 186 Bộ luật TTDS năm 2015 quy
định về quyền khởi kiện vụ án “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa
án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình”. Khoản 5 Điều
189 Bộ luật TTDS năm 2015 “Kèm theo đơn
khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng
minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi
kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách
quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy
đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có
để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi
kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu,
chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ án”.
Về chứng cứ, khoản 1 Điều 91 Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định: “1. Đương sự có
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao
1 Điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP.
2 Điểm b, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án nhân dân tối cao.
nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp”.
Căn cứ quy định trên, quyền khởi kiện
của nguyên đơn phải đảm bảo các điều kiện
cơ bản: (i) Quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Đối
với điều kiện (i), người khởi kiện không
có quyền khởi kiện khi không nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình
hoặc cho cơ quan, cá nhân mà mình làm đại
diện1, trừ một số trường hợp đặc biệt do pháp
luật quy định2. Đồng thời, quyền, lợi ích bị
xâm phạm hoặc tranh chấp phải “hợp pháp”.
Tuy nhiên, pháp luật TTDS chưa hướng dẫn
cụ thể thế nào là “hợp pháp” để Tòa án căn
cứ vào đó tiếp tục thụ lý vụ án hoặc trả lại
đơn khởi kiện; (ii) Tranh chấp chưa được
giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có
hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp luật có
quy định khác; (iii) Người khởi kiện phải
cung cấp chứng cứ chứng minh cho việc giả
thiết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm và yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp.
Trong vụ án đã nêu, chúng tôi tập trung
vào điều kiện (i). Trong đơn khởi kiện, bà B
yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên,
căn cứ vào chứng cứ do Tòa án thu thập,
xác minh từ UBND xã và huyện, các tài liệu
khác do bà B cung cấp, không có tài liệu
nào ghi nhận quyền SDĐ là tài sản của ông
X hoặc do ông X quản lý, sử dụng, trừ Biên
bản hòa giải do UBND xã H tổ chức có ghi
lời khai của các bên trong đó có câu “nguồn
gốc đất do cha ông để lại”. Đối với quyền
SDĐ, tính hợp pháp về nguồn gốc đất được
xác định trên cơ sở hồ sơ địa chính, đăng
ký xác nhận của địa phương và/ hoặc quyết
định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
SDĐ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do
vậy, lời khai của các bên trong Biên bản hòa
giải nêu trên cần kết hợp với các chứng cứ
khác theo quy định của pháp luật đất đai mới
có cơ sở pháp lý.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 18(394) T9/2019
Một trong những căn cứ để xác định
“quyền khởi kiện” của nguyên đơn là yêu
cầu Tòa án bảo vệ “quyền, lợi ích hợp pháp”.
Do vậy, trong quá trình xem xét vụ án, Tòa
án cần phải thu thập, đánh giá toàn bộ các
chứng cứ để xác định yêu cầu khởi kiện có
đảm bảo điều kiện “hợp pháp” hay không.
Trong vụ án đã dẫn, bà B yêu cầu phân chia
di sản thừa kế nhưng toàn bộ các chứng cứ
trong hồ sơ vụ án đều không thể hiện hai
mảnh đất trên là di sản thừa kế. Nếu không
chứng minh được quyền SDĐ là di sản thừa
kế, thì yêu cầu khởi kiện phân chia di sản
thừa kế của bà B liệu có vi phạm điều kiện
“hợp pháp”?
Theo chúng tôi, chứng minh yếu tố
“hợp pháp” đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn,
là một trong những điều kiện cần thiết để
Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục
chung hoặc trả lại đơn khởi kiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật TTDS
năm 2015 “1. Thẩm phán trả lại đơn khởi
kiện trong các trường hợp sau đây: a) Người
khởi kiện không có quyền khởi kiện theo
quy định của Điều 186 và Điều 187 Bộ
luật này hoặc không có đủ năng lực hành
vi TTDS”. Để tránh trường hợp đương sự
lợi dụng “quyền khởi kiện” để đưa ra các
yêu cầu khởi kiện không có căn cứ, cần
có hướng dẫn về “quyền khởi kiện” theo
hướng Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện nếu
không có chứng cứ chứng minh yêu cầu
khởi kiện có căn cứ và hợp pháp. Ví dụ, đối
với di sản thừa kế là quyền SDĐ, thì phải
có các giấy tờ chứng minh quyền SDĐ là
tài sản của người chết. Nếu không có bất kỳ
chứng cứ nào chứng minh quyền SDĐ là tài
sản của người chết, thì sẽ không có cơ sở
để xác định quyền SDĐ là di sản thừa kế.
Trường hợp này, chúng tôi cho rằng, cần căn
cứ Điều 186 và điểm a, khoản 1 Điều 192
Bộ luật TTDS năm 2015 để trả lại đơn khởi
kiện. Đồng thời, pháp luật TTDS cần hướng
dẫn thế nào là “quyền, lợi ích hợp pháp của
mình” trên cơ sở kết hợp quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 04/2017/NQ-
HĐTP của Hội đồng Thẩm phán - Tòa án
nhân dân tối cao (TANDTC) và căn cứ xác
lập quyền sở hữu hoặc các quyền khác theo
quy định của pháp luật dân sự, pháp luật đất
đai, pháp luật kinh doanh bất động sản, các
ngành luật khác có liên quan để ngăn chặn
tình trạng lạm dụng “quyền khởi kiện” nhằm
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, biến chủ sở hữu tài sản hoặc
người có quyền lợi hợp pháp trở thành bị
đơn dân sự từ những đơn khởi kiện không
có căn cứ pháp luật.
2.2 Xác định thời hiệu khởi kiện theo quy
định pháp luật TTDS và tố tụng hành
chính (TTHC)
Trong vụ án tồn tại 2 loại thời hiệu
khởi kiện:
(1) Thời hiệu khởi kiện giải quyết việc
phân chia di sản thừa kế
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định: “1. Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản,... hết thời hạn
này thì di sản thuộc về người đang quản lý
di sản đó”. Bên cạnh đó, tại Phần 1 Giải đáp
01/GĐ-TANDTC năm 2018 của TANDTC
quy định, đối với trường hợp thừa kế mở
trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện
chia di sản thừa kế là bất động sản được thực
hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh
Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị
quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội
đồng Thẩm phán - TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa
kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính
từ ngày 10/9/1990.
Căn cứ quy định trên, tính đến thời
điểm bà B nộp Đơn khởi kiện (24/4/2017),
yêu cầu chia di sản thừa kế vẫn trong thời
hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, bên cạnh yêu cầu
khởi kiện phân chia di sản thừa kế, bà B còn
yêu cầu thu hồi và hủy GCN QSDĐ đã cấp.
Vì vậy, trong vụ án này cần phải xem xét
đồng thời thời hiệu khởi kiện theo quy định
của pháp luật dân sự và thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính.
(2) Thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính là GCN QSDĐ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 18(394) T9/2019
Đối với thời hiệu khởi kiện quyết định
hành chính là GCN QSDĐ, hiện nay có hai
cách giải thích:
Cách giải thích thứ nhất, thời hiệu
khởi kiện yêu cầu Tòa án thu hồi và hủy
GCN QSDĐ là 01 (một) năm kể từ ngày
nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính3. Ngày 19/9/2016, Chánh án TANDTC
có Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC giải đáp
một số vấn đề về TTHC, TTDS; trong đó có
giải thích: “GCN QSDĐ là quyết định hành
chính. Như vậy, khi cơ quan có thẩm quyền
cấp GCN QSDĐ cho một chủ thể nào đó,
mà đương sự trong vụ án dân sự cho rằng
việc cấp giấy đó là không đúng quy định,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ thì họ
có quyền yêu cầu Tòa án hủy GCN QSDĐ
đó trong cùng một vụ án dân sự theo Điều 34
Bộ luật TTDS năm 2015”.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Bộ luật
TTDS năm 2015 quy định: “1. Khi giải
quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy
quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong
vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải
quyết; 2. Quyết định cá biệt quy định tại
khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban
hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng
một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên
quan đến quyết định này thì phải được Tòa
án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự
đó”. Về thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính, Điều 5 Thông tư liên tịch (TTLT) số
01/2014/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP
giữa TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao và Bộ Tư pháp (TTLT 01/2014) hướng
dẫn thi hành Điều 32a của Bộ luật TTDS đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ
sung một số Điều của Bộ luật TTDS ngày
3 Điểm a, khoản 2 Điều 116, Luật TTHC năm 2015.
4 Tham khảo:
Co-ap-dung-thoi-hieu-yeu-cau-huy-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-hay-khong-1179/
5 Tham khảo:
Co-ap-dung-thoi-hieu-yeu-cau-huy-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-hay-khong-1179/
06/01/2014 quy định: “không áp dụng thời
hiệu quy định trong pháp luật TTHC khi
xem xét yêu cầu hủy quyết định cá biệt rõ
ràng trái pháp luật”4 .
Cơ sở pháp lý đối với cách giải thích
thứ nhất: Khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)
năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016) quy định “VBQPPL hết hiệu
lực thì VBQPPL quy định chi tiết thi hành
văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”.
Theo quy định trên, khi Bộ luật TTDS năm
2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 hết hiệu
lực thi hành thì TTLT 01/2014 cũng đồng
thời hết hiệu lực. Vì vậy, kể từ thời điểm Bộ
luật TTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành
thì không thể áp dụng Điều 5 TTLT 01/2014
để xác định “không áp dụng thời hiệu quy
định trong pháp luật TTHC khi xem xét yêu
cầu hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp
luật”5. Điều này có nghĩa, cùng với sự ra đời
của Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, Luật
TTHC năm 2015, Bộ luật TTDS năm 2015,
cần phải xác định khởi hiệu khởi kiện quyết
định hành chính theo quy định tại điểm a,
khoản 2, Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
Cách giải thích thứ hai: Không áp
dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu hủy
GCN QSDĐ. Trước khi Bộ luật TTDS năm
2015 có hiệu lực thì việc giải quyết yêu cầu
hủy GCN QSDĐ Tòa án hai cấp không xem
xét đến việc còn thời hiệu hay không theo
quy định tại Điều 5 TTLT số 01/2014.
Cơ sở pháp lý đối với cách giải thích
thứ hai: GCN QSDĐ là quyết định hành
chính, do vậy sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh
của pháp luật hành chính và TTHC. Tuy
nhiên, GCN QSDĐ không đứng độc lập mà
là chứng thư pháp lý xác nhận quyền của
người SDĐ và là một trong những điều kiện
để quyền SDĐ trở thành đối tượng của giao
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 18(394) T9/2019
dịch dân sự. Xét trên phương diện dân sự,
GCN QSDĐ không đơn thuần là quyết định
hành chính mà còn là tài sản của người SDĐ.
Đó là tài sản gắn với các thông tin về thửa
đất cụ thể và phải đảm bảo các điều kiện để
được cấp theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định. Khi bị thu hồi GCN QSDĐ thì
hậu quả pháp lý kéo theo là quyền của người
SDĐ sẽ bị chấm dứt. GCN QSDĐ là cơ sở
để xác định người SDĐ hợp pháp và gắn với
tài sản là quyền SDĐ. Do vậy, xét về yếu tố
tài sản, giá trị của GCN QSD không chỉ là
một tờ giấy dưới dạng vật lý đơn thuần mà
gắn bó mật thiết với giá trị quyền SDĐ. Do
vậy, yêu cầu thu hồi GCN QSDĐ sẽ đồng
thời liên quan đến quyết định hành chính,
quyền sở hữu và tranh chấp về quyền SDĐ.
Nếu chỉ xét trên phương diện hành chính,
thì thời hiệu khởi kiện là 01 (một) năm.
Nhưng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu
bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp BLDS
năm 2015, luật khác có liên quan có quy
định khác và tranh chấp về quyền SDĐ
thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu
khởi kiện theo quy định của pháp luật dân
sự6. Do vậy, cần tách bạch hai loại thời hiệu
khởi kiện liên quan đến yêu cầu hủy GCN
QSDĐ theo hướng: (1) Thời hiệu khởi kiện
quyết định hành chính theo quy định của
pháp luật TTHC được áp dụng đối với vụ án
hành chính; (2) Trường hợp giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến yêu cầu hủy GCN
QSDĐ, cần phải xem xét thời hiệu khởi kiện
theo thủ tục TTDS và pháp luật dân sự về
yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, tranh chấp về
quyền SDĐ. Mặt khác, bản chất của Điều 5
TTLT số 01/2014 nhằm giải quyết xung đột
pháp luật trong việc xác định thời hiệu khởi
kiện đối với yêu cầu hủy GCN QSDĐ giữa
pháp luật TTHC và pháp luật TTDS. Hiện
nay, mặc dù Bộ luật TTDS 2015 đã có hiệu
lực, tuy nhiên chưa có văn bản hướng dẫn
thay thế Điều 5 TTLLT số 01/2014.
Chúng tôi đồng thuận với cách giải
thích thứ hai. Đồng thời, để đảm bảo quyền
6 Khoản 1, khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015.
lợi cho người SDĐ, các đương sự trong vụ
án dân sự, tính tuân thủ và trách nhiệm của
cơ quan nhà nước trong quá trình cấp, hủy
GCN QSDĐ, chúng tôi cho rằng, cần ban
hành văn bản hướng dẫn về thời hiệu khởi
kiện liên quan đến yêu cầu hủy GCN QSDĐ
đã cấp theo hướng “Thời hiệu khởi kiện yêu
cầu hủy GCN QSDĐ trong vụ án hành chính
là 01 năm theo quy định tại điểm a, khoản
2 Điều 116 Luật TTHC năm 2015. Không
áp dụng thời hiệu khởi kiện yêu cầu hủy
GCN QSDĐ khi giải quyết vụ án theo thủ
tục TTDS quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 34 Bộ luật TTDS năm 2015”. Trong
thời gian chưa có văn bản hướng dẫn, Tòa
án cần ban hành văn bản giải đáp pháp luật
theo hướng vẫn tiếp tục áp dụng Điều 5
TTLT số 01/2014 khi giải quyết yêu cầu hủy
GCN QSDĐ trong vụ án dân sự.
2.3 Điều kiện thu hồi GCN QSDĐ đã cấp
2.3.1 Bình luận về điều kiện cấp GCN
QSDĐ cho ông K và ông A
Theo điểm d, khoản 2 Điều 106 Luật
Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi Giấy
chứng nhận đã cấp trong trường hợp “Giấy
chứng nhận không đúng thẩm quyền, không
đúng đối tượng SDĐ, không đúng diện tích
đất, không đủ điều kiện được cấp, không
đúng mục đích SDĐ hoặc thời hạn SDĐ hoặc
nguồn gốc SDĐ theo quy định của pháp luật
đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy
chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền
SDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
theo quy định của pháp luật đất đai”.
Căn cứ quy định trên, chúng tôi cho rằng:
(1) Về thẩm quyền: Khoản 2, Điều 36
Luật Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung
năm 1998, năm 2001) quy định “...UBND
cấp huyện, quận, thị xã, TP thuộc tỉnh cấp
GCN QSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân”.
Căn cứ quy định trên, GCN QSDĐ cấp
cho ông A do UBND huyện T cấp là đúng
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 18(394) T9/2019
(2) Về nguồn gốc SDĐ: GCN QSDĐ
do UBND huyện T cấp theo Quyết định số
960/QĐ-UBND ngày 29/7/2003 trên cơ sở
“Đơn xin cho quyền sở hữu nhà và quyền
SDĐ” ngày 5/9/2002 của ông K (Đơn đã có
xác nhận của UBND xã H).
Ông K là người SDĐ hợp pháp đối với
thửa đất được ghi nhận trong GCN QSDĐ
00070 ngày 8/7/1993, cụ thể:
(i) Tại thời điểm tặng cho (ngày
5/9/2002), ông K đã được UBND huyện T
cấp GCN QSDĐ số 00070/ QSDĐ/CA/12
ngày 8/7/1993;
(ii) Về nguồn gốc đất theo GCN QSDĐ
số 00070/QSDĐ/CA/12 ngày 8/7/1993 do
UBND huyện T cấp cho ông K: Căn cứ hồ
sơ địa chính, ông K là người trực tiếp quản
lý, sử dụng ổn định, lâu dài đối với thửa đất
có các thông tin được ghi trong GCN QSDĐ
đã cấp. Đồng thời, ông K là người thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ tài chính trong quá trình
SDĐ, đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được
cấp GCN QSDĐ. Trong quá trình quản lý,
SDĐ, ông K và ông A đã và đang thực hiện
nghiêm túc, đầy đủ các nghĩa vụ của người
SDĐ (được thể hiện qua các chứng cứ bị
đơn nộp tại Tòa án như biên lai nộp thuế đất;
biên bản hòa giải khi tranh chấp xác định
mốc ranh giới năm 2016...)
Trước thời điểm ông K được cấp GCN
QSĐ nêu trên, không có bất kỳ tài liệu nào
chứng minh quyền SDĐ đối với thửa đất
nêu trên là của ông X hay người nào khác,
đồng thời trong hồ sơ địa chính của UBND
xã không có tài liệu nào thể hiện nguồn gốc
đất của hai thửa đất này.
Bên cạnh đó, trong Đơn xin xác nhận
của bà B ngày 15/11/2016 gửi UBND xã H
và bà Trưởng thôn, xã H, huyện T, thành phố
H, các bên đều xác nhận ông X sinh năm
1914 và đã mất năm 1979. Theo các thông
tin nêu trên, có ba vấn đề đã được làm sáng
tỏ: Một là, ông X không có tên trong bất kỳ
văn bản, hồ sơ địa chính nào liên quan đến
thửa đất nêu trên. Do vậy, việc bà B khẳng
định thửa đất này là di sản thừa kế của bố
đẻ - tức ông X là không có cơ sở pháp lý;
Hai là, ông X đã mất từ năm 1979 và tại
thời điểm năm 1979, thửa đất trên chưa
được cấp GCN QSDĐ hay được ghi vào sổ
địa chính của chính quyền địa phương. Điều
này chứng minh ông K là người quản lý,
sử dụng ổn định và thực hiện các nghĩa vụ
của người SDĐ cho đến thời điểm được cấp
GCNQSDĐ (ngày 8/7/1993). Có nghĩa, ông
K là người đầu tiên được pháp luật ghi nhận
là người SDĐ hợp pháp đối với hai thửa đất
nêu trên; Ba là, trong suốt quá trình SDĐ,
kê khai, đăng ký làm GCN QSDĐ cho ông
K và ông A, không có bất kỳ tranh chấp hay
đơn khiếu nại, khiếu kiện về đất đai.
Từ các lý do trên, có cơ sở để xác định
việc cấp GCN QSDĐ cho ông K có nguồn
gốc từ việc SDĐ ổn định, lâu dài, có công
tôn tạo, tu bổ đất đai và tuân thủ đầy đủ các
nghĩa vụ về đất đai đối với các thửa đất nêu
trên và ông X không có bất kỳ mối liên hệ
nào với thửa đất nêu trên.
(3) Về điều kiện và thủ tục tặng cho
quyền SDĐ: Ông K đã thực hiện đúng quy
định của pháp luật, hai thửa đất đã được cấp
GCN QSDĐ, văn bản tặng cho quyền SDĐ
đã có xác nhận của UBND xã H.
Ông A nhận tặng cho quyền SDĐ tại
thời điểm ngày 5/9/2002. Mặc dù Luật Đất
đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung các năm
1998, 2001) không quy định về việc tặng
cho quyền SDĐ, tuy nhiên, theo quy định
tại Khoản 1 Điều 11 Nghị định số 84/2007/
NĐ-CP và điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật Đất
đai năm 2003, pháp luật đã thừa nhận các
giao dịch tặng cho quyền SDĐ trước ngày
01/7/2004. Cụ thể: Khoản 1 Điều 11 Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP về việc cấp GCN
QSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền SDĐ,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai quy định về trường hợp
cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp
đã chuyển quyền SDĐ nhưng chưa thực
hiện thủ tục chuyển quyền theo quy định:
“Trường hợp người đang SDĐ do nhận
chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho
quyền SDĐ hoặc nhà ở gắn liền với quyền
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 18(394) T9/2019
SDĐ ở (sau đây gọi là người nhận chuyển
quyền) trước ngày 01/7/2004 mà chưa được
cấp Giấy chứng nhận nhưng có giấy tờ về
việc chuyển quyền SDĐ có chữ ký của bên
chuyển quyền (không có xác nhận của cơ
quan có thẩm quyền về việc chuyển quyền)
thì không phải thực hiện thủ tục chuyển
quyền SDĐ, người nhận chuyển quyền nộp
hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận theo quy
định tại khoản 1 Điều 135 hoặc khoản 1
Điều 136 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP”
và Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 quy định
về các trường hợp cấp GCN QSDĐ: “1. Hộ
gia đình, cá nhân đang SDĐ ổn định, được
UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không
có tranh chấp mà có một trong các loại giấy
tờ sau đây thì được cấp GCN QSDĐ và
không phải nộp tiền SDĐ:... c) Giấy tờ hợp
pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc
tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà
tình nghĩa gắn liền với đất”.
(4) Về trình tự, thủ tục thông báo công
khai trước khi cấp GCN QSDĐ do UBND
huyện T cấp theo Quyết định số 960/QĐ-
UBND ngày 29/7/2003
Trước khi tiến hành cấp GCN QSDĐ
cho ông A, Hội đồng đăng ký đất đai của
UBND xã H đã tiến hành kiểm tra, xác định
ranh giới thửa đất theo hiện trạng SDĐ (được
thể hiện tại Biên bản xác định ranh giới thửa
đất ngày 31/10/2002, Sơ đồ thửa đất). Việc
tiến hành đo đạc, lập sơ đồ thửa đất, Biên bản
xác định ranh giới thửa đất được UBND xã
tiến hành đo đạc công khai, có xác nhận của
các chủ SDĐ liền kề. Trên cơ sở kết quả đo
đạc, xác định ranh giới, mốc giới hiện trạng
SDĐ thực tế tại thời điểm đo đạc, UBND
xã H đã lập Biên bản xét duyệt đơn đăng ký
đất đai của ông A ngày 21/11/2002. Trong
Biên bản xác định: “Hiện trạng SDĐ ổn định
và không có tình trạng tranh chấp, khiếu nại
về đất đai”. Đồng thời, UBND xã H đã ra
Thông báo số 16/TB-UB ngày 15/6/2003
về việc công khai hồ sơ đăng ký đất đai và
Biên bản ngày 26/6/2003 về việc thông báo
công khai kết quả xét duyệt đơn xin đăng ký
quyền SDĐ, trong đó nêu rõ “Thời gian công
khai hồ sơ là 10 ngày (kể từ ngày 15/6/2003
đến ngày 26/6/2003). Trong thời gian trên,
UBND xã, thị trấn đã tiếp nhận 0 (không)
đơn khiếu nại của người SDĐ, trong đó đã
thẩm tra, giải quyết 0 (không) đơn”.
Như vậy, trong suốt thời gian tiến
hành đo đạc, xác định ranh giới, mốc giới
thửa đất, thông báo công khai hồ sơ đăng
ký, không có bất kỳ khiếu nại, tranh chấp
nào liên quan đến việc cấp GCN QSDĐ cho
ông A.
(5) Về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính của người SDĐ đối với Nhà nước
Trong quá trình SDĐ, ông K và ông
A đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính
của người SDĐ đối với Nhà nước. Điều này
được chứng minh qua văn bản, Tờ trình của
UBND xã H về các trường hợp đủ điều kiện
cấp GCN QSDĐ, cụ thể:
Trong Tờ trình số 16/TT-UB của
UBND xã H gửi UBND huyện T về việc đề
nghị cấp GCN QSDĐ ngày 30/6/2003 có
liệt kê danh sách 34 trường hợp đủ điều kiện
cấp ngay GCN QSDĐ, và danh sách này
có tên ông A và thửa đất có đặc điểm được
ghi nhận theo các Biên bản đăng ký, sơ đồ
thửa đất đã nêu. Trên cơ sở Tờ trình số 16/
TT-UB, Phòng Địa chính nhà đất và đô thị,
UBND huyện T, thành phố H đã có Tờ trình
số 148/ĐC-NĐ&ĐT ngày 18/7/2003 đề
nghị UBND huyện T cấp GCN QSDĐ cho
34 trường hợp đủ điều kiện được cấp GCN
QSDĐ. Ngày 29/1/2003, UBND huyện T đã
ban hành Quyết định số 960/QĐ-UBND về
việc cấp GCN QSDĐ cho 34 trường hợp nêu
trên, trong danh sách được cấp có ông A.
Để hoàn tất thủ tục được cấp GCN
QSDĐ, bên cạnh việc tuân thủ trình tự, thủ
tục, hồ sơ và điều kiện chuyển quyền theo
quy định pháp luật, người SDĐ phải hoàn
tất các nghĩa vụ tài chính về đất đai. Theo
các hồ sơ địa chính đã cấp, ông K và ông A
đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính
đối với các thửa đất nêu trên trong suốt quá
trình SDĐ.
2.3.2 Một số lưu ý
Từ các phân tích tại (1), (2), (3), (4) và
(5) mục 2.3.1, có một số lưu ý đối với điều
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 18(394) T9/2019
kiện thu hồi GCN QSDĐ đã cấp trong vụ án
trên như sau:
(i) Cần phải xác định có hay không vi
phạm thẩm quyền cấp GCN QSDĐ.
(ii) Xác định nguồn gốc đất
Cần xem xét đồng thời 03 điều kiện:
(1) Quyền SDĐ là di sản thừa kế: đánh giá
toàn diện chứng cứ chứng minh quyền SDĐ
là di sản thừa kế theo quy định của pháp luật
TTDS, dân sự, đất đai và pháp luật khác có
liên quan; (2) GCN QSDĐ được cấp trên
cơ sở người SDĐ ổn định, lâu dài, có công
sức trong việc tôn tạo, đảm bảo giá trị, thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người SDĐ và
không có tranh chấp về quyền SDĐ tính đến
thời điểm được cấp GCN QSDĐ; (3) Cơ sở
pháp lý của việc tặng cho quyền SDĐ.
Trong vụ án trên, mặc dù đương sự chỉ
yêu cầu thu hồi GCN QSDĐ đã cấp cho ông
A (có nguồn gốc từ văn bản tặng cho quyền
SDĐ), nhưng để giải quyết toàn diện vụ án,
Tòa án cần phải xem xét đồng thời cả 03
điều kiện trên.
Nếu đáp ứng điều kiện (1), thì sẽ không
xem xét đến điều kiện thứ (2), (3) và có cơ
sở để thu hồi GCN QSDĐ với lý do “không
đúng đối tượng SDĐ”, vì ông K không phải
là người thừa kế duy nhất đối với mảnh đất
do ông X để lại. Nếu không đáp ứng điều
kiện (1), thì cần phải xem xét tiếp điều kiện
thứ (2) và chỉ được coi là được cấp đúng đối
tượng nếu có đủ chứng cứ chứng minh tại
thời điểm được cấp GCN QSDĐ, ông K đáp
ứng đầy đủ các điều kiện này.
Trường hợp đáp ứng điều kiện (2), thì
phải tiếp tục xét đến điều kiện (3). Các giao
dịch tặng cho quyền SDĐ tại thời điểm Luật
Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung các năm
1998, 2001) có hiệu lực không được pháp
luật công nhận. Tuy nhiên, Luật Đất đai
năm 2003 và các văn bản hướng dẫn tặng
cho quyền SDĐ trước thời điểm Luật Đất
đai năm 2003 có hiệu lực đã thừa nhận giá
trị pháp lý của việc tặng cho quyền SDĐ
trong thời kỳ này. Do vậy, việc xác định
giá trị hiệu lực của một giao dịch liên quan
đến quyền SDĐ không chỉ căn cứ quy định
tại thời điểm xác lập giao dịch mà cần phải
có sự đối chiếu với quy định pháp luật hiện
hành. Cụ thể, tại thời điểm xác lập, giao dịch
không đảm bảo điều kiện có hiệu lực theo
quy định của pháp luật, nhưng lại được pháp
luật hiện hành thừa nhận các giao dịch được
xác lập trong thời điểm đó là hợp pháp.
Trường hợp có đầy đủ chứng cứ chứng
minh việc cấp GCN QSDĐ đáp ứng đồng
thời điều kiện (2) và điều kiện (3), thì có cơ
sở để kết luận việc cấp GCN QSDĐ cho ông
K và ông A là đúng đối tượng.
(iii) Tranh chấp quyền SDĐ
Thứ nhất, việc xác định tranh chấp
quyền SDĐ có phải là cơ sở pháp lý để thu
hồi GCN QSDĐ đã cấp? Theo pháp luật đất
đai, điều kiện “quyền SDĐ không có tranh
chấp” áp dụng với đối với người SDĐ khi
thực hiện chuyển quyền SDĐ. Còn đối với
việc cấp GCN QSDĐ, pháp luật quy định
một số trường hợp nhất định phải tuân thủ
điều kiện trên (khoản 2, khoản 5 Điều 100,
Điều 101 Luật Đất đai năm 2013). Như
vậy, có thể hiểu, nếu pháp luật quy định
“quyền SDĐ không có tranh chấp” là một
trong những điều kiện cấp GCN QSDĐ, thì
khi xem xét điều kiện thu hồi, cần phải xác
minh tại thời điểm cấp GCN QSDĐ có phát
sinh tranh chấp hay không. Việc cấp GCN
QSDĐ sẽ bị coi là vi phạm trình tự, thủ tục
nếu vi phạm điều kiện trên.
Thứ hai, về thời điểm phát sinh tranh
chấp. Trong trường hợp xem xét điều kiện
“tranh chấp quyền SDĐ” thì việc xác định
thời điểm có ý nghĩa quan trọng. Ví dụ,
đối với việc cấp GCN QSDĐ, thì cần giới
hạn đến thời điểm hoàn tất việc cấp GCN
QSĐ. Nếu tranh chấp phát sinh sau thời
điểm này, thì sẽ không bị coi là vi phạm điều
kiện “tranh chấp quyền SDĐ” khi cấp GCN
QSDĐ.
(iv) Nghĩa vụ quản lý, tôn tạo, quản lý
và tài chính với đất đai
Trong giải quyết tranh chấp liên
quan đến quyền SDĐ chưa được cấp GCN
QSDĐ, thì việc xác định các nghĩa vụ trên
có ý nghĩa quan trọng và đảm bảo quyền lợi
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 18(394) T9/2019
cho người quản lý, SDĐ ổn định, lâu dài và
tuân thủ các nghĩa vụ với đất đai, đặc biệt
trong bối cảnh diễn biến giá trị quyền SDĐ
có biến động do điều kiện kinh tế thị trường,
vị trí địa lý, quy hoạch Do vậy, cần đưa
các nội dung trên là một trong những điều
kiện ưu tiên xem xét khi cấp GCN QSDĐ
lần đầu đối với người SDĐ ổn định, lâu dài
và chưa được cấp GCN QSDĐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Bộ luật TTDS năm 2015.
3. Luật TTHC năm 2015.
4. Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 và văn
bản hướng dẫn thi hành.
5. Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC giải đáp một số vấn đề về TTHC, TTDS.
6. Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TANDTC.
7.
giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat-hay-khong-1179/.
HOẠT ĐỘNG CỦA NỮ ĐẠI BIỂU ...
(Tiếp theo trang 37)
Thực tế cho thấy, thực tiễn cuộc sống
là môi trường sinh động, nguồn nguyên liệu
đa dạng, phong phú nhất đối với đại biểu
Quốc hội. Do đó, phải có cơ chế để đại biểu
Quốc hội nói chung và nữ đại biểu nói riêng
có thể đi khắp mọi miền đất nước nhằm nắm
bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Từ đó sẽ giúp họ có được những ý kiến sắc
sảo; làm đại biểu phải biết: đi nhiều, nghe
nhiều, nói nhiều và viết nhiều.
Thứ hai, điều kiện tái cử đối với đại
biểu nữ cần mở rộng theo hướng ưu tiên.
Thực tế cho thấy, các đại biểu Quốc hội nói
chung cũng như các nữ đại biểu nói riêng
thường hoạt động sắc sảo, sôi nổi, chất lượng
hơn khi hoạt động từ nhiệm kỳ thứ hai trở đi.
Ví dụ, đại biểu Trần Thị Hoa Ry là người
trẻ nhất trong Quốc hội khóa X, để có được
hình ảnh một nữ đại biểu tranh luận, chất
vấn “tới cùng” ở nghị trường thì phải đến
nhiệm kỳ thứ hai trở đi. Đại biểu H’Luộc
Nơr Tơr (Đăk Lăk), Huỳnh Thị Hường
(Quảng Nam), Nguyễn Thị Vân Lan (thành
phố Đà Nẵng) rất sắc sảo ở nghị trường
nhưng cũng phải từ nhiệm kỳ thứ hai.
Thứ ba, bản lĩnh chính trị và năng lực
thực hành là điều kiện tiên quyết đối với chất
lượng hoạt động của nữ đại biểu Quốc hội.
Là đại biểu Quốc hội, dù Đảng viên
hay người ngoài Đảng cũng phải tu dưỡng,
rèn luyện cho mình một bản lĩnh chính trị
vững vàng đủ sức nắm vững chủ trương
đường lối của Đảng, đồng thời phải có đủ
năng lực để biến chủ trương đường lối thành
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Nói và làm là tiêu chí chung của mỗi cán
bộ, Đảng viên nhưng đồng thời cũng là tiêu chí
của đại biểu Quốc hội. Bởi vì, khi đã trở thành
đại biểu Quốc hội thì chính hành động của đại
biểu quyết định uy tín của đại biểu.
Tóm lại, làm đại biểu Quốc hội không
khó mà cũng không dễ, không có trường
đào tạo, không có thầy huấn luyện nhưng
vẫn phải làm, còn làm tốt hay không, tròn
trách nhiệm hay không, xứng đáng với lòng
tin của nhân dân hay không phụ thuộc vào
sự phấn đấu của bản thân đại biểu. Do đó,
muốn nâng cao chất lượng hoạt động của nữ
đại biểu ngoài sự vào cuộc của cả hệ thống
còn cần nhận được sự đáp lại từ phía bản
thân mỗi nữ đại biểu Quốc hội
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- binh_luan_an_quyen_khoi_kien_thoi_hieu_can_cu_thu_hoi_giay_c.pdf