Bình luận một số quy định về thử tục rút gọn trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

ông xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn Trong Phần thứ tư của Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về TTRG, chúng ta chỉ có thể tìm thấy một điều luật duy nhất quy định thủ tục về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG (Điều 319 Bộ luật TTDS năm 2015). Điều này có nghĩa rằng, nếu đương sự, Viện kiểm sát không đồng ý với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG của Tòa án thì được quyền khiếu nại, kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định đó. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định, hoặc giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, hoặc hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Nói cách khác, đương sự cũng như Viện kiểm sát không có quyền khiếu nại hay kiến nghị lần hai lên cấp cao hơn. Có thể nhận thấy, đây là một điều khoản về khiếu nại, kiến nghị dành riêng cho TTRG với thủ tục giải quyết khiếu nại cũng rút gọn, khi chỉ quy định một thời gian rất ngắn để giải quyết (03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị). Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra là nếu một vụ án thỏa mãn những điều kiện để áp dụng TTRG nhưng Tòa án lại không áp dụng để giải quyết theo TTRG, thì liệu đương sự, Viện kiểm sát có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị hay không? Theo khoản 2 Điều 316 Bộ luật TTDS năm 2015: “những quy định của Phần này được áp dụng để giải quyết vụ án theo TTRG; trường hợp không có quy định thì áp dụng những quy định khác của Bộ luật này để giải quyết vụ án”. Rải rác trong BLDS năm 2015 là các điều luật quy định về khiếu nại, kiến nghị đối với các quyết định và hành vi tố tụng của người, cơ quan tiến hành tố tụng như Điều 140 về khiếu nại, kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Điều 194 về khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện Tuy nhiên, những điều luật như vậy chỉ quy định về việc khiếu nại, kiến nghị cho những trường hợp cụ thể mà không áp dụng được cho TTRG.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận một số quy định về thử tục rút gọn trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Kinh tế - Luật (VNU-HCM) trong đề tài mã số: CS/2016-11. 42 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 1. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định các điều kiện để tòa án giải quyết vụ án dân sự theo TTRG. Theo đó, tòa án sẽ giải quyết theo TTRG nếu hội đủ các điều kiện sau: vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo TTRG hoặc các đương sự đã BÒNH LUÊÅN MÖÅT SÖË QUY ÀÕNH VÏÌ THUÃ TUÅC RUÁT GOÅN TRONG BÖÅ LUÊÅT TÖË TUÅNG DÊN SÛÅ NÙM 2015* Nguyễn Thị Hồng Nhung** ** TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Thông tin bài viết: Từ khóa: thủ tục rút gọn, điều kiện áp dụng, khiếu nại, kiến nghị Lịch sử bài viết: Nhận bài: 24/08/2016 Biên tập: 16/09/2016 Duyệt bài: 24/10/2016 Article Infomation: Keywords: shortcut procedure, condition of application, complain, request. Article History: Received: 24 Aug. 2016 Edited: 16 Sep. 2016 Approved: 24 Oct. 2016 Tóm tắt: Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 đã được Quốc hội khoá 13 ban hành ngày 25/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, trừ một số quy định liên quan đến Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Việc đưa những quy định về thủ tục rút gọn (TTRG) vào Bộ luật TTDS năm 2015 là phù hợp với xu hướng chung của thế giới trong việc rút ngắn thời gian giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong dân sự, bảo vệ kịp thời các lợi ích chính đáng, từ đó giúp phát triển giao thương kinh tế và duy trì ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, cũng giống như TTRG trong tố tụng hình sự, các thẩm phán vẫn chưa mặn mà lắm với thủ tục này trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Bài viết nêu một số điểm hạn chế trong quy định về TTRG của Bộ luật TTDS năm 2015. Abstract: The Civil Procedure Code of 2015 was enacted on 25 November 2015 by the National Assembly of promotion 13 and came into force on 1st July 2016, except some provisions related to the Civil Code of 2015 which will come into force from 1st January 2017. The regconition of the shortcut procedure in the Civil Procedure Code of 2015 complies with the common trend of the world in shortening the time for resolution of civil cases, in order to protect well legal interests for the development of economics and the stability of the society. However, like the shortcut procedure in the penal procedure, judges in Viet Nam still ignore this shortcut procedure in resolution of civil cases. This article points out some limitations in this procedure according to the Civil Procedure Code of 2015. 43 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản. Liên quan đến các điều kiện áp dụng TTRG, chúng tôi thấy nổi lên những vấn đề như sau: Thứ nhất, về điều kiện vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng. Đây là điều kiện mang tính chất định tính, phụ thuộc rất nhiều vào sự phán xét chủ quan của thẩm phán. Vậy như thế nào là một “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng” để từ đó thẩm phán có thể vận dụng tốt nhất quy định này? Theo chúng tôi, đó là những vụ án mà thẩm phán có thể xác định một cách dễ dàng sự thật khách quan và đánh giá dễ dàng các chứng cứ, từ đó có thể đưa ra kết luận một cách thuận lợi. Tuy nhiên, dù hiểu theo cách này hay cách khác thì để phán xét tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ án, thẩm phán cũng phải dựa trên những dấu hiệu nhất định. Ví dụ, tranh chấp về một hợp đồng vay tài sản mà trong đó các bên đã có hợp đồng vay cụ thể, tài sản đã được trao cho bên vay đúng hạn, đúng số lượng và có bằng chứng xác thực về những vấn đề đó như hợp đồng vay, giấy tờ xác nhận bên cho vay đã giao tài sản cho bên vay. Để xác định đây là vụ án đơn giản hay không, liệu chúng ta có thể dựa trên các dấu hiệu như bản chất rõ ràng của mối quan hệ dân sự (đây là quan hệ vay tài sản), số lượng đương sự liên quan (chỉ có nguyên đơn - người cho vay, và bị đơn - người vay), bị đơn đã thừa nhận hành vi nhận tiền và thừa nhận nghĩa vụ trả tiền, chứng cứ rõ ràng (hợp đồng vay, biên bản giao nhận tiền có chữ ký của các bên), các bên đều có địa chỉ liên lạc rõ ràng? Nếu đánh giá tính chất của vụ án dân sự theo cách trên, vô hình trung, chúng ta đã đề cập đến các dấu hiệu khác cũng là điều kiện để áp dụng TTRG. Do đó, chúng tôi cho rằng điều kiện “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng” không phải là một dấu hiệu tốt để nhận dạng tính đơn giản của vụ án, mà chỉ có thể đánh giá tính đơn giản của vụ án thông qua các điều kiện tiếp theo sau trong Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015. Thứ hai, về điều kiện đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Điều kiện này có thể được hiểu là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đều không phủ nhận nghĩa vụ của mình đối với nhau, để từ đó có thể giúp thẩm phán thấy được sự đơn giản trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ hay chỉ cần thừa nhận nghĩa vụ cơ bản? Ví dụ, trong vụ án tranh chấp về đòi nhà cho thuê, bên thuê đã thừa nhận mình có thuê nhà từ bên cho thuê, nghĩa vụ phải trả lại nhà cho bên cho thuê, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do gây hư hỏng nhà, nhưng lại không đồng ý số tiền bồi thường mà bên kia yêu cầu. Vấn đề đặt ra là trong trường hợp này, đương sự có được xem là đã thừa nhận nghĩa vụ hay không? Có hai quan điểm xoay quanh khi bàn luận về nội dung này. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu nói đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ thì nghĩa vụ ở đây phải được hiểu là toàn bộ nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ trả lại nhà thuê và bồi thường thiệt hại theo đúng số tiền mà bên cho thuê đã yêu cầu. Nếu hiểu theo cách này thì trường hợp ví dụ nêu trên không thoả mãn điều kiện để áp dụng TTRG. Trong khi đó, quan điểm thứ hai lại cho rằng, chỉ cần thừa nhận nghĩa vụ cơ bản, đó là nghĩa vụ trả lại nhà thuê và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, mà không xét đến yếu tố số tiền bồi thường thiệt hại đã được đương sự thừa nhận hay chưa. Số tiền bồi thường cụ thể như thế nào sẽ do tòa án quyết định. Nếu hiểu theo cách này thì vụ án trên thỏa mãn được điều kiện về “đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”1. Thứ ba, về điều kiện các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng. Địa chỉ nơi cư trú của cá nhân và trụ sở của pháp nhân được quy định rõ trong các văn bản pháp luật. Cụ thể, nơi cư trú của cá nhân được quy định trong BLDS năm 2015 1 Xem: Phạm Thị Hồng Đào (Văn phòng luật sư Thạnh Hưng), Thủ tục rút gọn theo quy định Bộ luật TTDS năm 2015, đăng ngày 21/6/2016, 44 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT và Luật Cư trú năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2013; còn địa chỉ trụ sở của pháp nhân cũng được quy định trong BLDS năm 2015 và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo Điều 40 BLDS năm 2015, nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó đang sinh sống. Trong khi đó, khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2013 cũng quy định nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Đó là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Còn nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định trên thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống. Như vậy, với tính chất là luật riêng, Luật Cư trú đã làm rõ khái niệm nơi cư trú của công dân là cá nhân được nhắc đến trong BLDS và thống nhất về quan điểm cho rằng nếu không có nơi thường trú và tạm trú thì nơi cư trú là nơi đang sinh sống. Đối với pháp nhân, địa chỉ tru ̣sở của pháp nhân là địa chỉ nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân (Điều 79 BLDS năm 2015). Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng đã khẳng định đây là địa chỉ thường trú của doanh nghiệp. Địa chỉ trụ sở này phải được pháp nhân đăng ký khi thành lập. Như vậy, nếu căn cứ vào những quy định trên thì không khó khi xác định nơi cư trú, trụ sở của đương sự về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, cần hiểu điều kiện về nơi cư trú, trụ sở “rõ ràng” theo hướng nào để có thể giải quyết vụ án theo TTRG lại là điều cần phải bàn luận. Ví dụ, khi Toà án thụ lý vụ án, bị đơn có mặt tại nơi cư trú và nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ nơi cư trú của bị đơn như đã biết cho Toà án. Nhưng sau đó, trong quá trình chuẩn bị xét xử theo TTRG thì bị đơn đã rời khỏi nơi cư trú. Vậy trường hợp này có được xem là đương sự có nơi cư trú, trụ sở “rõ ràng” hay không để thoả mãn điều kiện tiếp tục giải quyết vụ án theo TTRG? Theo khoản 2 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015, đối với vụ án lao động đã được thụ lý, giải quyết theo TTRG mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa án thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ, và như vậy Tòa án vẫn giải quyết vụ án đó theo TTRG. Quy định này có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau. Với cách thứ nhất, từ quy định trên, chúng ta có thể suy ngược lại rằng đối với các vụ án khác, không phải vụ án lao động, khi đương sự rời khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo thì tòa án không giải quyết vụ án này theo TTRG nữa. Nói cách khác, tòa án sẽ chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách này thì sẽ mâu thuẫn với khoản 3 của cùng điều luật, bởi lẽ, theo quy định tại khoản 3 thì việc đương sự rời khỏi địa chỉ nơi cư trú không nằm trong các điều kiện xuất hiện tình tiết mới để Toà án quyết định chuyển vụ án từ TTRG sang thủ tục thông thường. Còn đối với cách hiểu thứ hai, chúng ta có thể áp dụng tương tự pháp luật cho các vụ án khác, không phải vụ án lao động (Điều 45 Bộ luật TTDS năm 2015), nghĩa là Toà án sẽ vẫn giải quyết vụ án đó theo TTRG. Tuy nhiên, cách hiểu này cũng không hợp lý, bởi lẽ, hiểu theo cách này thì các nhà lập pháp không cần thiết kế riêng một ngoại lệ như vậy cho các vụ án lao động như tại khoản 2. Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, vẫn chưa có cách nhìn nhận đúng về điều kiện này, do vậy, cần sự hướng dẫn cụ thể hơn từ các nhà làm luật. Thứ tư, về việc chuyển vụ án từ TTRG sang thủ tục thông thường. Khoản 3 Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, nếu xảy ra các trường hợp sau đây thì tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường: phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; 45 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 06(334) T3/2017 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện uỷ thác tư pháp. Tóm lại, theo điều luật trên, đây là những tình tiết mới có thể làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng TTRG trong giải quyết vụ án dân sự do mất đi tính chất đơn giản của vụ án. Về vấn đề này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của nhà lập pháp đối với các trường hợp phát sinh tình tiết mới làm mất đi điều kiện để áp dụng TTRG, ngoại trừ ba điều kiện liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu phản tố hoặc độc lập. Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật TTDS năm 2015, đương sự, người đại diện của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền yêu cầu tòa án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời với mục đích giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, chứng cứ và đảm bảo thi hành án. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên tòa do một thẩm phán quyết định (Điều 112 Bộ luật TTDS năm 2015) trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn (Điều 133 Bộ luật TTDS năm 2015). Pháp luật TTDS cũng quy định những trường hợp khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm để tránh sự lạm quyền (Điều 136 Bộ luật TTDS năm 2015). Vì thế, việc cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu xét về thủ tục hay bản chất không làm cho vụ án thêm phức tạp, hoặc làm kéo dài thêm thời gian giải quyết vụ án, và do vậy, không làm mất đi tính chất đơn giản của vụ án dân sự. Đối với hai trường hợp còn lại là xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu phản tố hoặc độc lập, chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, tự bản thân các trường hợp này không đương nhiên làm cho vụ án phức tạp hơn để chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường2. Theo đó, nếu các đương sự vẫn thừa nhận nghĩa vụ của họ đối với nhau, tài liệu chứng cứ rõ ràng để Tòa án có thể tìm ra dễ dàng sự thật khách quan và vẫn đáp ứng đầy đủ những điều kiện để áp dụng TTRG thì vụ án vẫn không bị mất đi tính chất đơn giản để Toà án có thể áp dụng TTRG và cho ra bản án trong thời gian sớm nhất nhằm giải quyết quyền lợi chính đáng và cấp thiết của đương sự. Nói tóm lại, các nhà làm luật nên cho phép Tòa án tự phán xét độ phức tạp của các tình tiết mới xuất hiện để quyết định chuyển vụ án sang thủ tục thông thường mà không quy định sẵn 03 trường hợp trên, như điều kiện hiển nhiên làm tăng độ phức tạp của tình tiết vụ án. 2. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định không xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn Trong Phần thứ tư của Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về TTRG, chúng ta chỉ có thể tìm thấy một điều luật duy nhất quy định thủ tục về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG (Điều 319 Bộ luật TTDS năm 2015). Điều này có nghĩa rằng, nếu đương sự, Viện kiểm sát không đồng ý với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG của Tòa án thì được quyền khiếu nại, kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định đó. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết định, hoặc giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, hoặc hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Nói cách khác, đương sự cũng như Viện kiểm sát 2 Xem: Phạm Thị Hồng Đào (Văn phòng luật sư Thạnh Hưng), Thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật TTDS năm 2015, tlđd. 46 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không có quyền khiếu nại hay kiến nghị lần hai lên cấp cao hơn. Có thể nhận thấy, đây là một điều khoản về khiếu nại, kiến nghị dành riêng cho TTRG với thủ tục giải quyết khiếu nại cũng rút gọn, khi chỉ quy định một thời gian rất ngắn để giải quyết (03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị). Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra là nếu một vụ án thỏa mãn những điều kiện để áp dụng TTRG nhưng Tòa án lại không áp dụng để giải quyết theo TTRG, thì liệu đương sự, Viện kiểm sát có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị hay không? Theo khoản 2 Điều 316 Bộ luật TTDS năm 2015: “những quy định của Phần này được áp dụng để giải quyết vụ án theo TTRG; trường hợp không có quy định thì áp dụng những quy định khác của Bộ luật này để giải quyết vụ án”. Rải rác trong BLDS năm 2015 là các điều luật quy định về khiếu nại, kiến nghị đối với các quyết định và hành vi tố tụng của người, cơ quan tiến hành tố tụng như Điều 140 về khiếu nại, kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Điều 194 về khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện Tuy nhiên, những điều luật như vậy chỉ quy định về việc khiếu nại, kiến nghị cho những trường hợp cụ thể mà không áp dụng được cho TTRG. Bên cạnh đó, Điều 499 Bộ luật TTDS năm 2015, mở đầu cho Chương XLI về khiếu nại, tố cáo trong TTDS nằm trong Phần thứ mười của Bộ luật TTDS năm 2015 quy định rằng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong TTDS của cơ quan, người tiến hành TTDS khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nếu có kháng cáo, kháng nghị và các quyết định tố tụng khác do người tiến hành TTDS ban hành nếu có khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo quy định tại Chương này mà được giải quyết theo quy định của các chương tương ứng của Bộ luật TTDS. Nói cách khác, chỉ khi các quyết định hay hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự thì việc khiếu nại của đương sự mới thuộc phạm vi điều chỉnh của Chương này. Như vậy, câu hỏi đặt ra trong trường hợp này là liệu việc không áp dụng TTRG để giải quyết vụ án dù vụ án đáp ứng đủ các điều kiện để tiến hành giải quyết theo TTRG có được xem là quyết định hay hành vi trái pháp luật của Tòa án nói chung và của thẩm phán nói riêng hay không? Như đã bàn luận ở trên, các điều kiện để áp dụng TTRG mà Bộ luật TTDS năm 2015 quy định phần nhiều mang tính chất định tính, do vậy, việc có áp dụng TTRG để giải quyết vụ án hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự phán xét của thẩm phán; khó có thể nói việc không giải quyết vụ án theo TTRG là trái pháp luật. Như vậy, căn cứ vào những lập luận trên, đương sự rất khó hoặc có thể nói là không thể áp dụng những quy định tại Chương XLI Phần thứ mười của Bộ luật TTDS năm 2015 để thực hiện quyền khiếu nại của mình đối với việc Tòa án không xét xử vụ án theo TTRG. Bên cạnh đó, nếu vận dụng điều khoản này để giải thích theo hướng chấp nhận quyền khiếu nại của đương sự thì vô hình trung chúng ta đã bỏ qua quyền kiến nghị của Viện kiểm sát. Nói tóm lại, Bộ luật TTDS năm 2015 đã bỏ quên quyền khiếu nại và kiến nghị của đương sự, Viện kiểm sát đối với việc Tòa án không áp dụng TTRG trong giải quyết các vụ án dân sự nếu đương sự, Viện kiểm sát cho rằng vụ án đó đáp ứng đủ điều kiện để tiến hành xét xử theo TTRG. Theo chúng tôi, việc bỏ ngỏ quy định về quyền khiếu nại, kiến nghị nêu trên, kèm theo những quy định về điều kiện áp dụng TTRG còn nhiều tranh cãi là một trong những nguyên nhân khiến các thẩm phán không “nhiệt tình” với việc áp dụng TTRG trong xét xử. Thiết nghĩ, cần có những hướng dẫn cụ thể giải quyết những vấn đề này để TTRG trở nên phổ biến, thực sự đi vào đời sống nhằm hiện thực hoá “ý đồ” của các nhà làm luật khi xây dựng TTRG - một trong những giải pháp để giảm tải cho Tòa án cũng như giải quyết nhanh chóng yêu cầu chính đáng của người dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbinh_luan_mot_so_quy_dinh_ve_thu_tuc_rut_gon_trong_bo_luat_t.pdf
Tài liệu liên quan