Còn rất nhiều lý do dẫn đến sai sót
trong bản án, quyết định dân sự, hành chính.
Dù tòa án có cố gắng bao nhiêu thì số lượng
bản án quyết định bị sửa, hủy trong lĩnh vực
dân sự (ở Việt Nam cũng như các nước trên
thế giới) vẫn rất lớn, xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đáng kể
xuất phát từ tính chất tố tụng, về cách thức
quy định được sửa, hủy bản án, quyết định
của Tòa án.
Chúng ta đều biết vụ việc dân sự là
việc tư của các bên. Không thể lấy tiền
thuế, tiền đóng góp của những người dân
khác đi lo cho việc tư của các bên. Đó là
nguyên lý đi đến nghĩa vụ chứng minh của
đương sự, chứ không phải cơ quan công
quyền đi chứng minh, đi làm thay, nên
pháp luật nhiều nước quy định tòa án hỗ trợ
chỉ có mức độ và rất chặt chẽ. Bên nào
không chứng minh được, không chịu thực
hiện nghĩa vụ chứng minh là thua kiện.
Chính vì thế, có thể nói các nước trên thế
giới không đặt vấn đề BTNN trong lĩnh vực
dân sự.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bình luận quy định về giải quyết bồi thường trong quá trình giải quyết khiếu nại, giải quyết vụ án hành chính, vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Luật BTNN năm 2009 là một bước
tiến lớn trong việc xây dựng pháp luật bảo
đảm thực hiện quyền bình đẳng, sự công
bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Đạo
luật này ràng buộc trách nhiệm của Nhà
nước trước những hành vi trái pháp luật
của những người thi hành công vụ đã gây
thiệt hại cho các chủ thể khác. Có thể coi
Luật BTNN là luật xử lý mối quan hệ giữa
người gây thiệt hại là cơ quan công quyền,
với người dân bị cơ quan công quyền gây
thiệt hại.
Trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, Nhà nước có thể gây thiệt hại cho
BÒNH LUÊÅN QUY ÀÕNH VÏÌ GIAÃI QUYÏËT BÖÌI THÛÚÂNG TRONG QUAÁ TRÒNH
GIAÃI QUYÏËT KHIÏËU NAÅI, GIAÃI QUYÏËT VUÅ AÁN HAÂNH CHÑNH, VUÅ AÁN HÒNH SÛÅ
Tưởng Duy Lượng*
* Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: bồi thường nhà
nước; thương lượng, hòa giải;
thủ tục giải quyết bồi thường;
phạm vi bồi thường nhà nước;
Luật Bồi thường nhà nước.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 22/03/2017
Biên tập: 12/04/2017
Duyệt bài: 18/04/2017
Article Infomation:
Keywords:
state compensations,
negotiations, conciliation,
procedures for compensation
settlement, scope of the state
compensation liability, the
Law on State Compensation
Liability.
Article History:
Received: 22 Mar. 2017
Edited: 12 Apr. 2017
Approved: 18 Apr. 2017
Tóm tắt:
Luật Bồi thường nhà nước (BTNN) năm 2009 đang được sửa đổi, bổ sung.
Bài viết góp ý hoàn thiện Dự thảo về ba vấn đề: quy định về thương lượng,
hòa giải là thủ tục bắt buộc, thủ tục tiền tố tụng; quy định khi giải quyết
khiếu nại, khi xét xử theo tố tụng hành chính (TTHC), tố tụng hình sự
(TTHS) thì đồng thời giải quyết BTTH do hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ gây ra, nếu có yêu cầu; ba là, phạm vi BTNN trong xét xử
án dân sự, hành chính.
Abstract:
The Law on State Compensation Liability of 2009 is being reviewed for
amendments. The article provides recommendations the bill of the Law
(amended), focusing on on three issues: regulations on negotiations,
compulsory conciliation, procedural pre-litigation; regulations on complaint
settlements, proceedings of administrative lawsuits, proceedings of criminal
lawsuits together settlement of damages caused by unlawful acts of persons
performing public duties, if claimed; and third, the regulations on scope of
the state compensation liability in civil and administrative court cases.
người khác. Khi đó Nhà nước, một chủ thể
quyền lực công trở thành chủ thể trong quan
hệ dân sự, nhưng là một chủ thể có nhiều ưu
thế. Do đó, việc xây dựng Luật BTNN chịu
tác động của nhiều yếu tố. Bên cạnh yếu tố
chủ thể bồi thường là chủ thể quyền lực, còn
các yếu tố như: chính trị, kinh tế, xã hội,
thực tiễn và xu thế của thời đại.
Sau một thời gian thi hành, gần đây,
Luật BTNN năm 2009 được đưa vào chương
trình sửa đổi, bổ sung. Khi nghiên cứu Dự
thảo Luật BTNN (sửa đổi, bổ sung) chúng
tôi có một cảm nhận rằng, Dự thảo Luật đã
thực sự đặt người bị thiệt hại vào trung tâm,
song không phải với ý nghĩa là người được
nhận sự ban phát của cơ quan công quyền,
mà là chủ thể được bảo vệ đầy đủ, toàn diện
hơn. Bên cạnh việc bổ sung thêm nhiều
quyền cụ thể, mở rộng phạm vi được bảo vệ,
Dự thảo Luật còn trao cho chủ thể bị thiệt hại
quyền tự quyết nhiều hơn. Đó là tín hiệu
đáng vui mừng cho những người không may
bị người thừa hành công vụ của cơ quan
công quyền xâm phạm trái pháp luật.
Tuy nhiên, mở rộng phạm vi bồi
thường đến mức nào lại không phải theo ý
muốn chủ quan của Nhà nước hay của người
dân, mà phải phù hợp với khả năng tài chính
của Nhà nước, thực tiễn xã hội và mặt nào
đó, không được thoát ly những nguyên tắc
mà luật thực định đang đặt ra. Từ đó, chúng
tôi thấy có những vấn đề cần được trao đổi
như sau:
1. Quy định về giải quyết bồi thường
trong quá trình giải quyết khiếu nại,
trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng
hành chính tại Tòa án
Luật BTNN năm 2009 (Luật năm
2009), đưa ra một thủ tục bắt buộc, đó là giải
quyết bồi thường thiệt hại (BTTH) phải
được cơ quan có thẩm quyền giải quyết
BTTH giải quyết trước, thương lượng là một
thủ tục bắt buộc, nếu trong thời hạn luật quy
định, mà cơ quan này không giải quyết, hoặc
đã giải quyết mà người bị thiệt hại không
đồng ý, thì người bị thiệt hại mới được khởi
kiện ra Tòa án1. Tuy nhiên, thực tiễn thi
hành Luật năm 2009 cho thấy, việc bồi
thường chủ yếu thực hiện theo quy định tại
Điều 22, rất ít trường hợp áp dụng theo quy
định tại Điều 24 (vừa xem xét tính hợp pháp
của hành vi hành chính hoặc quyết định
hành chính, vừa giải quyết BTTH theo Luật
BTNN do hành vi hành chính, quyết định
hành chính trái pháp luật gây ra trong cùng
vụ án).
Mặc dù quy định của Điều 24 Luật
năm 2009 chưa áp dụng nhiều, nhưng thực
tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, khi
xét xử các vụ án hình sự (không thuộc loại
BTNN), ngoài việc quyết định về trách
nhiệm hình sự, Tòa án quyết định luôn trách
nhiệm dân sự trong một phiên tòa, trong một
bản án mà không áp dụng thủ tục thương
lượng, hòa giải. Thực tiễn này minh chứng
cho việc xem xét giải quyết BTNN đồng
thời trong quá trình TTHC, TTHS là hoàn
toàn khả thi.
Trong trường hợp nếu bên bị thiệt hại
khởi kiện vụ án dân sự, mà thẩm phán giải
quyết vụ án dân sự phát hiện vụ án có dấu
hiệu hình sự thì phải chuyển cho cơ quan
điều tra xem xét. Khi cơ quan điều tra khởi
tố vụ án hình sự và bên có hành vi trái pháp
luật bị truy tố trước Tòa án, thì vụ án dân sự
phải được đình chỉ giải quyết, chuyển hồ sơ
vụ án dân sự cho Tòa hình sự để giải quyết
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
1 Điều 24 Luật BTNN năm 2009 quy định người bị thiệt hại và cơ quan tố tụng kết hợp giải quyết BTTH trong TTHC;
Điều 22 quy định: “1.Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường quy định
tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt
hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền theo
quy định tại Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải quyết bồi thường”.
phần dân sự trong vụ án hình sự. Phần dân
sự trong vụ án hình sự chỉ được tách ra khi
chưa có điều kiện chứng minh và phải
không ảnh hưởng đến việc xem xét trách
nhiệm hình sự đối với bị cáo. Khi xây dựng
Bộ luật TTHS, thực tiễn đó đã được thể hiện
trong Bộ luật. Dù Bộ luật BLTT đã sửa đổi,
bổ sung nhiều lần nhưng nguyên tắc đó chưa
bao giờ thay đổi.
Trước khi Luật BTNN có hiệu lực,
trường hợp cán bộ điều tra bức cung, nhục
hình bị truy tố hình sự, thì trong bản án hình
sự, ngoài phần quyết định trách nhiệm hình
sự đối với bị cáo, bản án này cũng đồng thời
giải quyết trách nhiệm dân sự. Tòa án đã vận
dụng quy định của Thông tư số 173 ngày
23/3/1972 của Tòa án nhân dân (TAND) tối
cao về hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài
hợp đồng để xem xét trách nhiệm dân sự của
bị cáo. Mặc dù còn những vướng mắc trong
áp dụng, nhưng Thông tư đã tạo sự thống
nhất trong xét xử. Trách nhiệm dân sự do
hành vi bức cung, nhục hình của người thi
hành công vụ gây ra, thì cơ quan của người
đó có trách nhiệm bồi thường, như bồi
thường tiền chi phí về thuốc men, phục hồi
sức khỏe
Bộ luật Dân sự (BLDS) cũng quy định
trách nhiệm này thuộc về cơ quan công
quyền có người gây thiệt hại. Tuy nhiên,
việc áp dụng quy định này còn nhiều hạn
chế trên thực tế. Có những loại việc người
thi hành công vụ gây thiệt hại, người bị thiệt
hại khởi kiện nhưng không được thụ lý, với
lý do chưa có văn bản hướng dẫn. Từ khi
Luật BTNN năm 2009 có hiệu lực, việc
nhận thức, giải quyết loại việc này đã có
nhiều thay đổi.
Luật TTHS, Luật TTHC cũng bao
hàm quy định về thủ tục xem xét, giải quyết
đồng thời việc BTTH trong những vụ án
hình sự, hành chính.
Điều 30 Bộ luật TTHS năm 2015
quy định: “Việc giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với
việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp
vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề BTTH,
bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh
và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ
án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra
để giải quyết theo thủ tục TTDS”.
Khoản 3 Điều 191 Luật TTHC năm
2016 quy định: “a. tính hợp pháp và có căn
cứ về hình thức, nội dung của quyết định
hành chính hoặc thực hiện một hành vi hành
chính bị kiện e. vấn đề BTTH và vấn đề
khác (nếu có); khoản 2 Điều 193 quy định:
“a. bác yêu cầu khởi kiện; b. chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định
hành chính trái pháp luật; g. buộc cơ
quan, tổ chức BTTH, khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
bị xâm phạm do quyết định hành chính,
hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh trái pháp luật gây ra”.
Tuy nhiên, thực tế xét xử của TAND
trong thời gian qua cho thấy, tòa án đã gặp
nhiều khó khăn khi giải quyết đồng thời. Do
đó, chúng tôi nhận thấy, Dự thảo Luật
BTNN bổ sung Điều 54b theo hướng giải
quyết bồi thường trong quá trình TTHS,
TTHC tại tòa án là hoàn toàn hợp lý, phù
hợp với TTHS, TTHC. Việc bổ sung Điều
54b sẽ giúp cho người dân dễ dàng nhận biết
quyền yêu cầu của mình, đồng thời cũng
buộc cơ quan có trách nhiệm phải giải quyết
đồng thời khi có yêu cầu và các cơ quan này
không còn cơ hội trì hoãn, né tránh, gây khó
dễ cho người bị thiệt hại.
Đối với quy định “cơ quan giải quyết
khiếu nại phải giải quyết bồi thường trong
quá trình giải quyết khiếu nại”, câu hỏi đặt
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
ra ở đây là quy định này có hợp lý hay
không? Thực tiễn xét xử của tòa án cho thấy
có vụ việc nào đã giải quyết bồi thường
đồng thời trong quá trình giải quyết khiếu
nại? Nếu chưa có hoặc có nhưng rất ít là do
nguyên nhân nào? Do nhận thức, do luật
chưa quy định hay những khó khăn, trở ngại
về trình tự, thủ tục, về thu thập tài liệu,
chứng cứ không cho phép giải quyết đồng
thời?
Báo cáo 6 năm thi hành Luật BTNN
năm 2009 không thấy đề cập nội dung nêu
trên. Chúng tôi cũng không có thông tin về
thực tiễn giải quyết bồi thường trong quá
trình giải quyết khiếu nại, nhưng thiết nghĩ,
TTHS, TTHC dù chặt chẽ vẫn kết hợp giải
quyết đồng thời việc BTNN theo yêu cầu
của người bị thiệt hại, thì việc giải quyết
khiếu nại với thủ tục có phần mềm mại hơn,
sẽ không ngăn cản việc giải quyết đồng
thời. Mặt khác, dưới góc độ luật thực định
không những không cấm giải quyết đồng
thời, mà còn cho phép giải quyết bồi thường
khi giải quyết khiếu nại quyết định hành
chính, hành vi hành chính (Điều 31 Luật
Khiếu nại năm 2011).
Tuy vụ án hình sự và việc khiếu nại,
giải quyết khiếu nại theo Luật Khiếu nại có
khác nhau về tính chất, mức độ, về khách
thể, nhưng trong vụ án hành chính và việc
khiếu nại trong Luật Khiếu nại trong nhiều
trường hợp là không khác nhau. Giữa chúng
đều có điểm chung, đó là đều xem xét hành
vi, quyết định trái pháp luật của người thi
hành công vụ có gây thiệt hại cho người
khiếu nại, người khởi kiện vụ án hành chính,
người được coi là bị hại trong vụ án hình sự
hay không.
Trong vụ án hành chính và trong việc
giải quyết khiếu nại, cơ quan giải quyết
khiếu nại đều phải xem xét hành vi hành
chính, quyết định hành chính có trái pháp
luật hay không, còn trong vụ án hình sự, tòa
án phải xem xét hành vi của bị cáo có cấu
thành tội phạm không. Trong quá trình xem
xét, các cơ quan này phải đi đến kết luận
người của cơ quan công quyền có hành vi
trái pháp luật, gây thiệt hại hay không. Dựa
vào kết luận đó để xác định có trách nhiệm
BTNN hay không. Vì vậy, khi giải quyết
khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền cho rằng
việc khiếu nại có căn cứ, thì việc giải quyết
đồng thời yêu cầu BTTH là hoàn toàn logic,
hợp lý và tạo thuận lợi cho người giải quyết
về thu thập thông tin, tài liệu, về xem xét
đánh giá sự việc.
Giải quyết đồng thời việc khiếu nại và
bồi thường có nghĩa là không chia ra các
công đoạn tách rời nhau để bảo đảm tính
liên hoàn, giảm thủ tục, tiết kiệm thời gian,
chi phí cho cả hai bên.
Do đó, việc Dự thảo Luật BTNN bổ
sung điều 54a, 54b không quy định theo
hướng bắt buộc phải thông qua thủ tục đối
thoại, thương thảo việc bồi thường như một
thủ tục tiền tố tụng khi khởi kiện là hợp lý.
Đặc biệt, khi đã thiết kế theo hướng này, Dự
thảo Luật dành cho người bị thiệt hại quyền
lựa chọn các hình thức giải quyết bồi thường
nào họ cho là phù hợp nhất với vụ việc của
họ, là thể hiện sự tôn trọng quyền tự quyết
của người bị thiệt hại, người yếu thế.
Do vậy, chúng tôi đồng tình quan
điểm thể hiện trong Điều 54a, 54b Dự thảo
Luật BTNN và góp ý thêm về kỹ thuật thể
hiện như sau:
a. Điều 54a
Chúng tôi cho rằng, đoạn hai khoản 1
chỉ nên đề cập thời điểm yêu cầu là cùng
thời điểm khiếu nại và thực hiện theo Luật
Khiếu nại là đủ. Vì vậy, đoạn này nên thể
hiện như sau: “Thời điểm yêu cầu bồi
thường được thực hiện đồng thời khi khiếu
nại và theo quy định của Luật Khiếu nại,
Luật khác có liên quan”.
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
b. Điều 54b quy định:
“1. Việc giải quyết vụ án hình sự, vụ
án hành chính có nội dung yêu cầu bồi
thường được thực hiện theo quy định của
pháp luật về TTHS, TTHC.
Thời điểm chấp nhận yêu cầu bồi
thường trong quá trình TTHS là thời điểm
tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình
sự có yêu cầu bồi thường.
Thời điểm chấp nhận yêu cầu bồi
thường trong TTHC tại tòa án là thời điểm
thụ lý vụ án hành chính hoặc thời điểm chấp
nhận việc thay đổi nội dung yêu cầu khởi
kiện vụ án hành chính.
2. Việc xác minh thiệt hại, áp dụng
quy định về thiệt hại được bồi thường trong
quá trình TTHS, TTHC được thực hiện theo
quy định tại Điều 45 và Chương III của Luật
này sau khi thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án đã xác định hành vi trái pháp
luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước.
3. Trường hợp giải quyết yêu cầu bồi
thường trong quá trình TTHS, TTHC có yêu
cầu giải quyết bồi thường, nếu có đủ điều
kiện để chứng minh trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước thì bản án, quyết định của tòa
án còn phải có các nội dung sau đây:
a) Hành vi gây thiệt hại thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
b) Thiệt hại, mức bồi thường, phục hồi
danh dự (nếu có) và việc khôi phục các
quyền, lợi ích hợp pháp khác (nếu có);
c) Cơ quan có trách nhiệm chi trả tiền
bồi thường, thực hiện phục hồi danh dự (nếu
có) và khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp
khác (nếu có).
4. Trường hợp người yêu cầu bồi
thường không đồng ý với nội dung giải
quyết bồi thường trong bản án, quyết định
của tòa án hoặc bản án, quyết định của tòa
án không có nội dung giải quyết bồi thường
thì chỉ được tiếp tục thực hiện quyền yêu cầu
bồi thường theo thủ tục tố tụng.
5. TAND tối cao quy định chi tiết
Điều này”.
Chúng tôi cho rằng, khi đã quy định
về giải quyết bồi thường trong quá trình
TTHS, TTHC thì Dự thảo Luật cần thiết kế
trên cơ sở quy định hiện hành của Bộ luật
TTHS, TTHC.
Theo quy định của Bộ luật TTHS thì
người bị hại, nguyên đơn dân sự có quyền
đề nghị mức bồi thường, biện pháp bảo đảm
bồi thường (điểm g khoản 2 Điều 62; điểm
g khoản 2 Điều 63 Bộ luật TTHS) từ giai
đoạn điều tra. Việc xem xét, chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của người bị thiệt
hại được diễn ra tại phiên tòa. Thời điểm
quyết định (chấp nhận yêu cầu) là khi Hội
đồng xét xử nghị án. Việc công bố bản án tại
phiên tòa chỉ là thời điểm công khai nội
dung đã được Hội đồng xét xử quyết định
khi nghị án.
Đối với vụ án hành chính, khi một
người nhận thấy quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình và cho rằng quyết định
hành chính, hành vi hành chính là trái pháp
luật, họ khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu
tòa án hủy quyết định hành chính, yêu cầu
buộc thực hiện hoặc chấm dứt hành vi hành
chính trái pháp luật. Đồng thời, khi thấy
quyết định hành chính, hành vi hành chính
gây thiệt hại cho mình, họ có quyền thể hiện
yêu cầu đó ngay trong đơn khởi kiện vụ án
hành chính và được quyền thay đổi, bổ sung
yêu cầu của mình cho đến phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng
cứ và đối thoại. Cũng giống như vụ án hình
sự, thời điểm Tòa án chấp nhận hay không
chấp nhận yêu cầu của người bị hại là thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án, chứ không
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
phải thời điểm thụ lý vụ án hành chính như
thể hiện trong Dự thảo Luật. Vì vậy, chúng
tôi đề nghị:
Bổ sung vào khoản 1 quy định:
Trường hợp người bị thiệt hại chưa yêu cầu
giải quyết bồi thường, thì phần bồi thường
được giải quyết theo TTDS.
- Bỏ đoạn hai, đoạn ba khoản 1;
- Bỏ đoạn “có yêu cầu giải quyết bồi
thườngđến của Nhà nước” trong khoản 3;
- Bỏ khoản 4;
Điều 54b được viết lại như sau: Giải
quyết bồi thường trong quá trình TTHS,
TTHC tại Tòa án
1. Việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án
hành chính có nội dung yêu cầu bồi thường
được thực hiện theo quy định của pháp luật
về TTHS, TTHC.
Trường hợp người bị thiệt hại chưa
yêu cầu giải quyết bồi thường, thì phần bồi
thường được giải quyết theo TTDS.
2. Việc xác minh thiệt hại, áp dụng quy
định về thiệt hại được bồi thường trong quá
trình TTHS, TTHC được thực hiện theo quy
định tại Điều 45 và Chương III của Luật này
sau khi thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án đã xác định hành vi trái pháp
luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước.
3. Trường hợp giải quyết yêu cầu bồi
thường trong quá trình TTHS, TTHC thì bản
án, quyết định của Tòa án còn phải có các
nội dung sau đây:
a) Hành vi gây thiệt hại thuộc phạm
vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;
b) Thiệt hại, mức bồi thường, phục hồi
danh dự (nếu có) và việc khôi phục các
quyền, lợi ích hợp pháp khác (nếu có);
c) Cơ quan có trách nhiệm chi trả tiền
bồi thường, thực hiện phục hồi danh dự (nếu
có) và khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp
khác (nếu có).
4. TAND tối cao quy định chi tiết Điều
này.
2. Về quy định tại Điều 52 Dự thảo luật
Điểm a khoản 1 Điều 52 Dự thảo Luật
BTNN quy định: “1. Người yêu cầu bồi
thường có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án
giải quyết yêu cầu bồi thường trong các
trường hợp sau đây:
a. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
người yêu cầu bồi thường nhận được quyết
định giải quyết bồi thường quy định tại Điều
47 của Luật này mà không đồng ý với quyết
định đó hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả
thương lượng thành quy định tại khoản 6
Điều 46 của Luật này mà cơ quan trực tiếp
quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại
không ra quyết định giải quyết bồi thường
hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả thương
lượng không thành quy định tại khoản 7
Điều 46 của Luật này thì có quyền khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường;”
Quy định trên cho thấy, việc khởi
kiện yêu cầu tòa án giải quyết bồi thường
chỉ được thực hiện sau khi đã thực hiện việc
thương lượng. Quy định này là không hợp
lý, chưa đổi mới tư duy theo tinh thần của
Hiến pháp năm 2013, chưa tôn trọng quyền
tự lựa chọn, tự quyết định của người bị thiệt
hại, mâu thuẫn với Điều 54a, 54b và không
phù hợp với một số quy định của Luật Khiếu
nại năm 2011.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị không coi
việc thương lượng là thủ tục tiền tố tụng,
một thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện vụ
án dân sự, đồng thời đề nghị thiết kế lại
điểm a khoản 1 Điều 52 theo hướng sau:
- Một là, khi có văn bản của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền làm căn cứ yêu cầu
bồi thường, thì người bị thiệt hại có quyền
khởi kiện;
23
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
- Hai là, trường hợp thương lượng hòa
giải không thành (trường hợp các bên lựa
chọn phương án thương lượng);
- Ba là, thương lượng hòa giải thành
nhưng ngay sau đó (trước thời điểm quyết
định giải quyết bồi thường có hiệu lực)
không đồng ý với kết quả thương lượng;
- Bốn là, các bên thống nhất tiến hành
thương lượng để giải quyết bồi thường,
nhưng sau đó cơ quan giải quyết bồi thường
không thực hiện thương lượng trong thời
hạn luật quy định, thì người bị thiệt hại đều
có quyền khởi kiện ra tòa án yêu cầu tòa án
giải quyết bồi thường theo TTDS.
3. Về quy định của Chương III
- Khoản 2 Điều 54a, 54b đều viện dẫn
áp dụng quy định của Chương III Luật này.
Tuy nhiên, một số quy định của Chương này
còn chưa thực sự chính xác.
Ví dụ, Điều 22 quy định việc xác định
giá trị thiệt hại “tại thời điểm thụ lý”. Thời
điểm với ý nghĩa là một khoảng thời gian
cực ngắn được xác định một cách chính xác,
nó như là một điểm trong trục thời gian vô
tận. Do đó, việc xác định giá trị các thiệt hại
được bồi thường được tính “tại thời điểm
thụ lý vụ án theo quy định của Bộ luật
TTDS” là không hợp lý vì các lý do sau:
Một là, mục đích của việc xác định giá
trị thiệt hại là nhằm xác định khoản bồi
thường nhằm bù đắp thiệt hại mà họ đã gánh
chịu. Trong khi đó, việc thụ lý mới chỉ là
khởi đầu của quá trình thu thập tài liệu,
chứng cứ xem xét, giải quyết. Từ khi thụ lý
đến khi giải quyết việc bồi thường là quãng
thời gian dài và có nhiều biến động. Chẳng
hạn, một tài sản ở thời điểm thụ lý có trị giá
một trăm triệu đồng, nhưng đến khi giải
quyết bồi thường, giá trị tài sản có thể giảm
hoăc tăng nhiều lần, tùy theo diễn biến của
thị trường. Thực tiễn cho thấy, nếu thời gian
từ khi thụ lý đến khi giải quyết bồi thường
càng cách xa, thì người được bồi thường
nhiều khả năng rơi vào bất lợi do giá cả đã
tăng lên rất nhiều.
Hai là, việc xác định thiệt hại ở thời
điểm thụ lý không bảo đảm tính tương thích
với quy định của Bộ luật TTDS (Bộ luật
TTDS quy định việc xác định, việc định giá
tài sản được tiến hành trong thời gian chuẩn
bị xét xử).
- Khoản 2 Điều 22 và một số điều
khác của Chương III sử dụng thuật ngữ “vụ
án”, “vụ việc” để chỉ về một vụ việc dân sự
là không chính xác, dẫn đến sự chồng chéo.
Bởi lẽ, trong TTDS, thuật ngữ “vụ việc” đã
bao hàm vụ án dân sự, việc dân sự.
- Đoạn cuối của khoản 4 Điều 23 quy
định: “Trường hợp các khoản tiền đó không
phải là khoản vay có lãi thì khoản lãi được
tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền
trong trường hợp không có thỏa thuận quy
định tại BLDS tại thời điểm quy định tại
khoản 2 Điều 22 của Luật này”; đoạn cuối
khoản 5 Điều 23 quy định: “Trường hợp
khoản tiền phạt đó không phải là khoản vay
có lãi thì khoản lãi được tính theo lãi suất
phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp
không có thỏa thuận quy định tại BLDS tại
thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của
Luật này”.
Nội dung của hai quy định nêu trên
đặt ra 3 vấn đề sau đây:
Một là, có phải trả lãi hay không? Nội
dung này đã được quy định rõ trong khoản
4, 5 nêu trên;
Hai là, xác định mức lãi. Mức lãi cũng
đã được đề cập tại khoản 4, 5 theo phương
pháp viện dẫn luật áp dụng. Từ quy định
viện dẫn đó được hiểu là phải áp dụng khoản
4 Điều 466 BLDS, khoản 4 Điều 466 BLDS
viện dẫn áp dụng khoản 02 Điều 468. Như
vậy, vấn đề thứ hai đã được giải quyết;
Ba là, bắt đầu trả lãi từ thời điểm nào,
24
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
đến thời điểm nào? Quy định của khoản 4,
5 Điều 23 chưa thể hiện rõ. Nếu giải thích
theo lời văn “ khoản lãi được tính theo lãi
suất phát sinh do chậm trả tiền tại thời
điểm quy định ở Điều 22 của Luật này” thì
có thể hiểu mức lãi xác định tại thời điểm
thụ lý (lấy thời điểm thụ lý để xác định lãi
cũng cần xem lại, như phân tích ở trên).
Do đó, cần bổ sung về thời điểm bắt
đầu tính lãi từ thời điểm nào đến thời điểm
nào, đồng thời còn phải chịu lãi tiếp, khi
chưa thực hiện nghĩa vụ theo quyết định của
cơ quan có thẩm quyền. Nội dung này sẽ
viện dẫn áp dụng khoản 3 Điều 22, như vậy
điều luật sẽ rõ ràng, đầy đủ hơn.
4. Phạm vi được yêu cầu bồi thường
Khoản 5 Điều 19 Dự thảo Luật quy
định: “ra bản án, quyết định trái pháp luật
TTDS, TTHC hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ án,
vụ việc”.
Khoản 4 Điều 3 quy định: “hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ là
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định
của pháp luật”.
Quy định của khoản 4 Điều 3 cho
thấy, tất cả các bản án, quyết định dân sự,
hành chính bị cải, sửa, hủy một phần hay
toàn bộ sẽ nằm trong phạm vi được coi là:
“thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng
quy định của pháp luật” sẽ phải bồi thường.
Câu hỏi đặt ra ở đây là có phải Dự
thảo Luật đang tiếp cận theo hướng: bản án,
quyết định dân sự, hành chính “có sai” thì
Nhà nước phải bồi thường? Nếu ý tưởng của
Ban soạn thảo là đúng như vậy thì chúng tôi
cho rằng, đó là ý tưởng sai lầm và vô cùng
nguy hiểm bởi các lý do sau đây:
Một là, đối với lĩnh vực quản lý hành
chính mà người thi hành công vụ gây thiệt
hai cho người dân, thì mở biên độ tối đa,
không có vùng cấm, không loại trừ lĩnh vực
nào là cần thiết, nếu khả năng tài chính của
Nhà nước chịu đựng được.
Hai là, trong TTHS, trách nhiệm
chứng minh là thuộc Nhà nước, nếu thực
chất người bị tình nghi chính là thủ phạm,
nhưng Nhà nước không chứng minh được
người bị tình nghi chính là tội phạm thì
không thể kết tội họ. Ngược lại người bị tình
nghi không phải là người thực hiện tội
phạm, nhưng Nhà nước đã áp dụng một loạt
biện pháp xâm phạm đến tài sản, tự do, danh
dự, thậm chí kết án oan họ, hoặc hành vi
phạm tội của tội phạm có mức độ, nhưng họ
đã chịu sự trừng phạt vượt quá mức so với
sai phạm, thì việc Nhà nước bồi thường
những thiệt hại do sai lầm của Nhà nước đã
gây ra cho họ, đó là lẽ công bằng. Dù cơ
quan công quyền phạm sai lầm nhiều, phải
bồi thường nhiều, nhưng số lượng có lớn
bao nhiêu cũng nên thực hiện.
Ba là, trong TTDS, TTHC thì khác,
trách nhiệm chứng minh chủ yếu thuộc
người khởi kiện, người bị khởi kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chứ không
phải trách nhiệm chứng minh là thuộc Nhà
nước (cụ thể là tòa án). Tòa án có thể xử
không đúng với thực chất của vụ kiện (xử
sai so với bản chất quan hệ pháp luật) là do
người khởi kiện, người bị kiện không chứng
minh được. Trong trường hợp này, Nhà
nước (tòa án) không có lỗi, hoặc có lỗi
nhưng không phải là nguyên nhân cơ bản
làm cho việc xử không đúng, nhưng với quy
định nói trên, Nhà nước vẫn phải bồi
thường, vì đã “ra bản án, quyết định trái
pháp luật TTDS, TTHC”.
Ví dụ, A cho B vay tiền không làm
giấy tờ, thời điểm cho vay không ai trực tiếp
chứng kiến, không ai biết ngoài A và B. Chỉ
khi có tranh chấp C được nghe A kể lại việc
A cho B vay tiền, C lại kể cho D nghe.
Đến hạn, B không trả, A đã khởi kiện vụ án
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
dân sự đòi tài sản. B không thừa nhận có vay
tiền của A, mà một mực phủ nhận.
Do A không chứng minh được trước
tòa là B nợ tiền của A, nên Tòa án đã xử bác
yêu cầu của A. Bản án này đã không phản
ánh đúng bản chất quan hệ vay nợ, chúng ta
đang cho đó là một phán quyết sai. Về lý
thuyết, A sẽ được Nhà nước bồi thường. Tuy
nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì không ai biết
bản án đó đã xử sai, trừ A, B và có thể những
nhân chứng được nghe kể lại việc cho vay,
hiểu bản chất thật thà của A, nên tin tưởng
A nói đúng sự thật. Giả thiết sau khi xử, A
có đơn đề nghị giám đốc thẩm, B cắn rứt
lương tâm đã thú nhận sự thật dưới dạng văn
bản và đưa cho A, để A cung cấp cho Tòa
án, cấp giám đốc thẩm đã kháng nghị, xử
hủy bản án với nhận định là Hội đồng xét
xử đã đánh giá tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ không đúng v.v.. Trong trường hợp
này căn cứ vào khoản 4 Điều 3, khoản 5
Điều 19 Dự thảo Luật, A sẽ được Nhà nước
bồi thường;
Bốn là, trên cơ sở nghĩa vụ chứng
minh của đương sự, Bộ luật Tố tụng dân sự
quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra
được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng
cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo
những chứng cứ đã thu thập được có trong
hồ sơ vụ việc” (khoản 4 Điều 91). “Trường
hợp tài liệu chứng cứ đã được giao nộp chưa
bảo đảm đủ cơ sở giải quyết vụ việc thì thẩm
phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài
liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao
nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu,
chứng cứ do tòa án yêu cầu mà không có lý
do chính đáng thì tòa án căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và tòa
án thu thập theo quy định tại Điều 97 để giải
quyết vụ việc dân sự” (khoản 1 Điều 96).
Tuy nhiên, ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào,
các đương sự cũng có quyền giao nộp bổ
sung chứng cứ, khi chứng minh có lý do
chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ trước đó
Tòa án không yêu cầu giao nộp, hoặc tài liệu
chứng cứ mà đương sự không thể biết được
trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ
tục sơ thẩm (khoản 4 Điều 96). Như vậy, sau
khi có các tài liệu, chứng cứ quan trọng
đương sự mới cung cấp thì điều gì sẽ diễn
ra trong giai đoạn phúc thẩm, giai đoạn giám
đốc thẩm? Logic của sự việc sẽ là bản án,
quyết định trước đó sẽ bị cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm sửa, hủy. Vì vậy, các bản án,
quyết định của cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm
đã bị hủy, sửa là những bản án bị coi là
phạm sai lầm nghiêm trọng. Trong trường
hợp này, căn cứ quy định tại khoản 5 Điều
19, Nhà nước phải BTTH.
Còn rất nhiều lý do dẫn đến sai sót
trong bản án, quyết định dân sự, hành chính.
Dù tòa án có cố gắng bao nhiêu thì số lượng
bản án quyết định bị sửa, hủy trong lĩnh vực
dân sự (ở Việt Nam cũng như các nước trên
thế giới) vẫn rất lớn, xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân đáng kể
xuất phát từ tính chất tố tụng, về cách thức
quy định được sửa, hủy bản án, quyết định
của Tòa án.
Chúng ta đều biết vụ việc dân sự là
việc tư của các bên. Không thể lấy tiền
thuế, tiền đóng góp của những người dân
khác đi lo cho việc tư của các bên. Đó là
nguyên lý đi đến nghĩa vụ chứng minh của
đương sự, chứ không phải cơ quan công
quyền đi chứng minh, đi làm thay, nên
pháp luật nhiều nước quy định tòa án hỗ trợ
chỉ có mức độ và rất chặt chẽ. Bên nào
không chứng minh được, không chịu thực
hiện nghĩa vụ chứng minh là thua kiện.
Chính vì thế, có thể nói các nước trên thế
giới không đặt vấn đề BTNN trong lĩnh vực
dân sự.
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 09(337) T5/2017
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
(Xem tiÕp trang 54)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- binh_luan_quy_dinh_ve_giai_quyet_boi_thuong_trong_qua_trinh.pdf