Bộ luật lao động (Sửa đổi) - Cần quy định về xây dựng cơ quan hòa giải tranh chấp lao động quốc gia

hích cơ chế hòa giải tư nhân Việc thiết lập một hệ thống cơ quan hòa giải độc lập từ trung ương đến địa phương là hết sức cần thiết nhằm bù đắp cho thực tế thiếu một cơ quan thống nhất của HGV ở Việt Nam hiện nay. HGV chỉ có thể hoạt động tốt, độc lập trong trường hợp có một cơ quan thống nhất, chịu trách nhiệm quản lý về tổ chức và nghiệp vụ đối với hòa giải. Cần phải có những biện pháp để khuyến khích các cơ chế giải quyết TCLĐ có tính tư nhân như: ghi nhận các cơ chế như vậy trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể (tham khảo kinh nghiệm một số nước khi yêu cầu thỏa ước tập thể phải quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung, nhưng có nước chỉ đòi hỏi thỏa ước tập thể có quy định về giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng thỏa ước hoặc các tranh chấp về lợi ích)14; đẩy mạnh sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý lao động. Bên cạnh việc xây dựng cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia, việc thành lập các cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập theo cơ chế tư nhân cần phải được tính đến những đặc điểm sau: - Là cơ quan dịch vụ mang tính nghề nghiệp được thành lập hợp pháp theo các quy định của pháp luật và có tư cách pháp nhân. Cơ quan này chịu sự quản lý về nghề nghiệp của cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia. - HGV (người làm việc tại cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập) là người có trình độ, tiêu chuẩn HGV, được cấp giấy chứng nhận HGV do cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia cấp. Giấy chứng nhận này như một chứng chỉ nghề nghiệp chỉ được cấp cho người đạt đủ những tiêu chuẩn quy định. - Những HGV thuộc cơ quan hòa giải TCLĐ nằm trong khu vực địa giới hành chính nào có quyền tiếp cận với cơ sở dữ liệu về thỏa ước tập thể tại nơi đó để có thể chủ động liên lạc hay giới thiệu về dịch vụ hòa giải của mình. - Cơ quan hòa giải TCLĐ và HGV có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ hòa giải TCLĐ theo quy định của pháp luật, dựa theo những trình tự tối thiểu, có thể lập những trình tự hòa giải mang đặc trưng riêng và có hiệu quả trong hoạt động hòa giải. - Chi phí cho hoạt động của cơ quan hòa giải TCLĐ theo cơ chế tự quản có thể xây dựng theo mô hình doanh nghiệp. Chi phí cho việc hòa giải có thể do người sử dụng lao động, người lao động là người yêu cầu hòa giải hoặc do hai bên cùng nhau chi trả theo thỏa thuận của mỗi bên.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bộ luật lao động (Sửa đổi) - Cần quy định về xây dựng cơ quan hòa giải tranh chấp lao động quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Bài viết phân tích về tổ chức bộ máy quản lý hòa giải viên (HGV) theo quy định pháp luật một số nước và đề xuất xây dựng cơ quan hòa giải tranh chấp lao động (TCLĐ) quốc gia, hệ thống cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập, đưa ra mô hình cơ quan hòa giải TCLĐ cho Việt Nam. Đào Xuân Hội* Abstract: This articles provides the analysis of the organization of the adjudicator management apparatus in accordance with the laws of a number of countries and proposals for establishment of a national labor dispute resolution body, as well as the establishment of a model for labor dispute settlement for Vietnam. Thông tin bài viết: Từ khóa: Tranh chấp, tranh chấp lao động, hòa giải tranh chấp lao động, cơ quan hòa giải tranh chấp lao động quốc gia, hòa giải viên Lịch sử bài viết: Nhận bài: 09/03/2017 Biên tập: 07/05/2017 Duyệt bài: 16/05/2017 Article Infomation: Keywords: Dispute; labor dispute; resolve of labor disputes, national labor dispute body, adjudicators Article History: Received: 09 Mar. 2017 Edited: 07 May 2017 Appproved: 16 May 2017 * ThS, Phó trưởng Khoa Luật, Đại học Lao động - Xã hội 1. Tổ chức bộ máy quản lý hòa giải viên theo quy định pháp luật một số nước và Việt Nam HGV lao động trên thế giới có hai xu 1 Đặng Đức San, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010. hướng là kiêm nhiệm và độc lập. HGV độc lập là cơ chế được nhiều nước nước áp dụng hơn, như Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, Mỹ, Thụy Điển, Singaprore, Canada, Bỉ1. Để HGV có thể hoạt động CẦN QUY ĐỊNH VỀ XÂY DỰNG CƠ QUAN HÒA GIẢI TRANH CHẤP LAO ĐỘNG QUỐC GIA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG (SỬA ĐỔI) BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 35Số 14(342) T7/2017 độc lập, phải có cơ quan quản lý, sử dụng HGV. Người hòa giải là người thực hiện hòa giải trong sự quản lý của một cơ quan nhất định. Cơ quan quản lý HGV (hay còn gọi là cơ quan hòa giải) là cơ quan thống nhất quản lý hoạt động của HGV, đảm bảo về tổ chức quản lý, nghiệp vụ đối với HGV. Cơ quan này tiếp nhận các yêu cầu hòa giải, cung cấp HGV để thực hiện việc hòa giải. Cơ quan quản lý HGV được thành lập thành một hệ thống từ trung ương tới địa phương và có mối quan hệ nhất định với cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý hòa giải Hệ thống cơ quan hòa giải gồm: Cơ quan hòa giải trung ương có chức năng chủ yếu là thống nhất quản lý, đào tạo và hướng dẫn hoạt động đối với các trung tâm hòa giải và các HGV, một cơ quan thống nhất toàn quốc việc xử lý và quản lý hòa giải các TCLĐ. Cơ quan này có thể gọi là Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia. Pháp luật nhiều nước như Hoa Kỳ, Phần Lan, Na Uy... đều xây dựng cơ quan này. Tại Phần Lan, Na Uy, trách nhiệm chính về hòa giải thường được giao cho Cơ quan hòa giải TCLĐ cấp quốc gia2. Ở Hoa Kỳ, Cơ quan Hòa giải Liên bang (Federal Mediation and Conciliation - FMCS) được thành lập theo Luật Quan hệ Chủ - thợ năm 1947 dưới sự điều hành của Văn phòng Tổng thống Hoa Kỳ3. Cơ quan này có thể là một cơ quan độc lập thuộc hệ thống cơ quan nhà nước như một cơ quan tố tụng đặc biệt chỉ sử dụng cho quan hệ lao động. Cơ quan hòa giải địa phương có thể 2 Đặng Đức San, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, tlđd. 3 T. Hanami & R. Blanpain. (1989). Industrial Conflict Resolution in Market Economies: A Study of Australia, the Fed- eral Republic of Germany, Italy, Japan and the USA,. Kluwer Law and Taxation Publishers. 4 Đặng Đức San, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, tlđd. 5 Đặng Đức San, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, tlđd. 6 Đặng Đức San, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, tlđd. 7 International Labour Office. (1980). Conciliation and Arbitration Procedures in Labour Disputes: A Comparative Study. ILO. gồm các cơ quan hòa giải cấp tỉnh và cơ quan hòa giải cấp huyện. Tại Pháp có Hội đồng hòa giải cấp quận có nhiệm kỳ 5 năm gồm các HGV là những người do đại diện giới chủ doanh nghiệp và người lao động tự bầu ra4, hay như tại Trung Quốc, cơ quan hòa giải gồm hội đồng hòa giải doanh nghiệp, cơ quan chức năng hòa giải được thành lập tại các thị xã, huyện, xã5. HGV làm việc tại những cơ quan này có thể mang trong mình tư cách của một công chức nhà nước, cơ quan hòa giải TCLĐ là cơ quan nhà nước như theo pháp luật của Anh, Malaysia, Isarael6... Cơ quan hòa giải tư là cơ quan hòa giải tồn tại song song với cơ quan hòa giải địa phương nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động hòa giải mang tính tư nhân. Phần lớn các nước có xu hướng vừa duy trì các cơ chế giải quyết TCLĐ của nhà nước, vừa thừa nhận và khuyến khích các cơ chế giải quyết TCLĐ do các bên tranh chấp tự thiết lập7. Nghiên cứu so sánh cho thấy, ở Hoa Kỳ (cũng như ở Anh, Philippines,), cơ chế giải quyết tranh chấp tư nhân đóng vai trò quan trọng hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của nhà nước. Tại Hoa Kỳ, cơ quan trung gian và hòa giải liên bang (Federal Mediation and Conciliation Service) đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các cơ chế giải quyết TCLĐ có tính tư nhân. Hoặc như ở Úc, Bộ trưởng Bộ Lao động (Ministry of Labour) và Tổng Chưởng lý (Attorney - General) đã phối hợp với các tổ chức đại diện của người lao động và người sử dụng lao động để ban hành các hướng dẫn về phòng ngừa và hạn BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 36 Số 14(342) T7/2017 chế TCLĐ8. Hay như ở Philippines, những khiếu nại mà không được giải quyết bằng thương lượng trong vòng 7 ngày từ khi nhận được thì được tự động chuyển đến Cơ quan hòa giải tự nguyện như đã quy định trong Thỏa ước thương lượng tập thể9. Cùng với các quy định về điều kiện bổ nhiệm, thẩm quyền bổ nhiệm HGV lao động cũng góp phần trong việc nêu bật tầm quan trọng của công tác hoà giải cũng như vị thế của người làm công tác hoà giải. HGV lao động do các cơ quan cấp cao lựa chọn dễ tạo được vị thế và uy tín với các bên tranh chấp hơn. Vì lý do này, nhiều quốc gia quy định thẩm quyền bổ nhiệm HGV lao động thuộc về những người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Ở Đan Mạch, HGV được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Lao động thông qua sự giới thiệu của Toà án Lao động; Ở Indonexia, HGV ghi danh tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động được Bộ trưởng Bộ Lao động trao bằng chứng nhận hợp pháp10. Ở một số nước khác, HGV lao động được đích thân người đứng đầu Nhà nước hoặc Nội các Chính phủ bầu (New Zealand, HGV được đề cử bởi Toàn quyền; Ở Nauy, HGV trung ương và cơ sở được chỉ định bởi Nhà Vua; Ở Phần Lan, hai viên chức hoà giải quốc gia được bổ nhiệm bởi Tổng thống, HGV cấp cơ sở được chỉ định bởi Hội đồng Nhà nước)11. Trong khi đó, ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002 và 2006) thì HGV lao động do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm. BLLĐ năm 2012 đã sửa đổi quy định này theo hướng trao quyền bổ nhiệm, 8 International Labour Office. (1980). Conciliation and Arbitration Procedures in Labour Disputes: A Comparative Study. ILO. 9 Vụ Pháp chế, Bộ LĐ-TB&XH, Pháp luật lao động các nước Asean, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010, 10 Trần Hoàng Hải, Pháp luật về giải quyết TCLĐ tập thể - Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011. 11 Trần Hoàng Hải, Pháp luật về giải quyết TCLĐ tập thể - Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (sách chuyên khảo), sđd. bổ nhiệm lại, miễn nhiệm HGV cho cơ quan quản lý nhà nước cao hơn - Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quy định thẩm quyền bổ nhiệm HGV thuộc về Chủ tịch UBND cấp tỉnh sẽ tạo được vị thế và góp phần nâng cao hơn uy tín của HGV với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, để nâng cao vai trò của HGV, cần thiết phải bổ nhiệm HGV cấp tỉnh, cấp quốc gia để tham gia vào những vụ việc tranh chấp lớn, ở những đơn vị sử dụng lao động thuộc thẩm quyền quản lý của đơn vị hành chính cấp tỉnh hoặc những TCLĐ tập thể hoặc những tranh chấp lớn ở tầm quốc gia. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định nhiều và cụ thể về một tổ chức quản lý HGV - cơ quan thống nhất quản lý mọi mặt, mọi hoạt động của HGV một cách chuyên nghiệp, độc lập. Theo quy định tại Điều 11 Thông tư số 08/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) về việc hướng dẫn Nghị định số 46/2013/NĐ- CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của BLLĐ về TCLĐ (sau đây gọi tắt là Thông tư số 08) thì: “Phòng LĐ-TB&XH có trách nhiệm quản lý, lưu trữ hồ sơ, biên bản giải quyết TCLĐ của HGV”. Như vậy, có thể hiểu Phòng LĐ-TB&XH là cơ quan quản lý HGV. Tuy nhiên, đây là cơ quan hành chính với chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực lao động - xã hội. Quản lý HGV Trong pháp luật Việt Nam, quy định về quản lý HGV hiện đang dừng lại ở việc quy định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại HGV, quy định về việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của HGV, miễn nhiệm HGV, chế BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 37Số 14(342) T7/2017 độ báo cáo của HGV và đảm bảo điều kiện hoạt động HGV. Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại HGV được tiến hành theo trình tự thủ tục được quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 46 và khoản 1 Điều 9 Thông tư số 08 có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất, công dân Việt Nam có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật có thể tự đăng ký hoặc được Phòng LĐ-TB&XH, công đoàn cấp huyện, công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất giới thiệu tham gia dự tuyển HGV. Thứ hai, người tự đăng ký hoặc được giới thiệu dự tuyển HGV phải nộp hồ sơ dự tuyển HGV bao gồm: Đơn dự tuyển HGV lao động; sơ yếu lý lịch; giấy chứng nhận sức khoẻ; bản sao các văn bằng, chứng chỉ (nếu có); văn bản giới thiệu tham gia dự tuyển của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Thứ ba, trong các thời hạn do pháp luật quy định cho mỗi loại cơ quan, kể từ ngày hết hạn nhận hồ sơ, Phòng LĐ- TB&XH lập danh sách người đạt tiêu chuẩn báo cáo Chủ tịch UBND cấp huyện. Sau đó, Chủ tịch UBND cấp huyện có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm HGV lao động, đồng thời gửi Giám đốc Sở LĐ-TB&XH để thẩm định và trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Tiếp theo, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH thẩm định và trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định, đồng thời gửi Chủ tịch UYND cấp huyện đã đề nghị bổ nhiệm HGV lao động. Cuối cùng, Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định bổ nhiệm HGV lao động. Thứ tư, sau khi đã bổ nhiệm xong, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH và Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm công khai danh sách HGV lao động để người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và người lao động biết. Đánh giá kết quả thực hiện mức độ hoàn thành nhiệm vụ của HGV lao động được quy định theo Điều 8 Thông tư số 08: Định kỳ hằng năm, Phòng LĐ-TB&XH có trách nhiệm đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của HGV lao động với các nội dung sau: số vụ được cử tham gia hoà giải, số vụ đã tham gia hoà giải, số vụ hoà giải thành, việc chấp hành quy định của pháp luật về giải quyết TCLĐ, việc chấp hành quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện cử tham gia giải quyết TCLĐ. Theo đó, HGV lao động được coi là hoàn thành nhiệm vụ khi đáp ứng được các điều kiện ngoài việc chấp hành các quy định của pháp luật khi giải quyết TCLĐ, chấp hành quyết định về cử tham gia giải quyết tranh chấp của Chủ tịch UBND cấp huyện và hiệu quả đạt trên 50% số vụ hòa giải thành so với số vụ tham gia hoà giải. Miễn nhiệm HGV lao động được quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 46 và Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 08: HGV sẽ bị Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định miễn nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch UBND cấp huyện và Giám đốc Sở LĐ-TB&XH trong hai trường hợp. Một là sự tự nguyện của HGV khi có đơn xin thôi tham gia HGV; hai là bị miễn nhiệm khi không hoàn thành nhiệm vụ trong hai năm liên tục hoặc có các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng uy tín, thẩm quyền, trách nhiệm của mình khi tham gia giải quyết tranh chấp, có hành vi tham nhũng hoặc không vô tư, khách quan hoặc từ chối nhiệm vụ hòa giải từ hai lần trở lên mà không có lý do chính đáng. Chế độ báo cáo của HGV được quy định tại Điều 11 Thông tư số 08. Theo đó, HGV lao động có trách nhiệm báo cáo kết quả hòa giải từng vụ việc hòa giải kèm theo Biên bản các vụ hòa giải cho Phòng LĐ- TB&XH. Bảo đảm điều kiện cho hoạt động hòa giải của HGV lao động được quy định theo Điều 7 Nghị định số 46, trong những ngày BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 38 Số 14(342) T7/2017 được cử để hòa giải TCLĐ, tranh chấp hợp đồng đào tạo nghề, HGV được hưởng chế độ bồi dưỡng như đối với Hội thẩm theo quy định về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết dân sự; được thanh toán công tác phí; được bảo đảm các điều kiện cần thiết về phòng họp, tài liệu, văn phòng phẩm phục vụ hòa giải TCLĐ. Kinh phí hoạt động của HGV lao động do ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định phân cấp quản lý ngân sách hiện hành. Việc lập dự toán, quản lý và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của HGV lao động thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. 2. Xây dựng cơ quan hòa giải tranh chấp lao động cấp quốc gia và hệ thống cơ quan hòa giải độc lập cho Việt Nam 2.1 Xây dựng cơ quan hòa giải TCLĐ cấp quốc gia Việt Nam hiện nay thiếu nhiều quy định liên quan đến cơ quan hòa giải TCLĐ trên toàn quốc và chưa có một cơ quan quốc gia để thống nhất quản lý HGV. Do vậy, cần thiết phải xây dựng một cơ quan thống nhất quản lý hòa giải TCLĐ cấp quốc gia. Có thể gọi là cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia không phải là cơ quan xây dựng hay thực thi pháp luật, vì vậy HGV ở cơ quan này không có vai trò thực thi luật lao động, thanh tra các vấn đề lao động hay hướng dẫn thực hiện luật lao động như các cán bộ lao động - xã hội. Thay vào đó, họ thực hiện việc thống nhất quản lý HGV và sử dụng các HGV để giải quyết các TCLĐ theo thủ tục hòa giải. Những HGV chuyên trách của cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia trước hết là các chuyên 12 Đào Xuân Hội, Giải quyết TCLĐ ở Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ Pháp luật điện tử, năm 2015. gia về quan hệ lao động có kinh nghiệm12. Kinh nghiệm thực tế về quan hệ lao động là tiêu chí quan trọng nhất đối với một HGV. Vì vậy hầu hết các HGV ở cơ quan này cần phải có kinh nghiệm nhất định và đã có nhiều thời gian làm việc ở những môi trường liên quan như pháp luật, quan hệ lao động. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia là cơ quan độc lập cung cấp dịch vụ hòa giải và giải quyết các xung đột khác để quản lý và tăng cường mối quan hệ giữa lao động và người sử dụng lao động. Cơ quan này có thể chịu sự quản lý của các cơ quan hành chính nhưng hoạt động độc lập và được thiết kế để giúp đỡ các bên trong quá trình đàm phán. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia có chức năng thống nhất quản lý HGV và hoạt động hòa giải trong phạm vi cả nước bao gồm cả các HGV và hoạt động hòa giải của các cơ quan hòa giải TCLĐ cấp tỉnh và cơ quan hòa giải TCLĐ cấp huyện cũng như các trung tâm hòa giải TCLĐ tư nhân. Bên cạnh đó, cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia có thể cung cấp HGV để giải quyết tranh chấp theo yêu cầu bởi bất kỳ bên nào liên quan đến việc TCLĐ mà có thể đe dọa đến sức khỏe cộng đồng hoặc sự an toàn, hoặc có thể có tác động đáng kể đến nền kinh tế quốc dân nếu nó gây ra cuộc đình công hoặc “bế xưởng”. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia cũng cung cấp các HGV trong trường hợp tranh chấp khẩn cấp mang tính quốc gia theo quy định pháp luật hoặc nếu các bên có mong muốn, từ danh sách HGV phù hợp. Các thỏa thuận cá nhân và tập thể liên quan đến quan hệ lao động nhất định đều phải có điều khoản giải quyết tranh chấp bắt buộc hoặc cho phép giải quyết một số loại TCLĐ nhất định. Như ở Nhật Bản, hòa giải bắt buộc được áp dụng đối với các doanh BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 39Số 14(342) T7/2017 nghiệp nhà nước13. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng. Thông qua một HGV, cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia đưa ra các chương trình và dịch vụ giải quyết xung đột cho người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở tự nguyện để giảm thiểu hoặc ngăn ngừa các xung đột trong quá trình thương lượng tập thể và tăng cường mối quan hệ giữa các bên. Đây là một quá trình tự nguyện, trong đó các HGV hoạt động như các bên thứ ba trung lập để hỗ trợ cho quá trình giải quyết các vấn đề và bất đồng, thông thường là trong việc thương lượng thỏa ước lao động tập thể giữa người sử dụng lao động và công đoàn đại diện cho người lao động trong các lĩnh vực tư nhân, cộng đồng hay nhà nước. Cơ quan này cũng đóng vai trò hòa giải mang tính phòng ngừa để đưa ra dịch vụ và đào tạo trong các quy trình hợp tác để giúp người lao động và người quản lý xây dựng các mối quan hệ công việc tốt đẹp hơn. Về địa vị pháp lý của cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia, cần đảm bảo sự độc lập của cơ quan này. Cơ quan này không trực thuộc bất kỳ cơ quan hành chính nào từ trung ương đến địa phương, nó hoạt động độc lập giống như một tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính xã hội nghề nghiệp chuyên biệt (tương tự như Trọng tài Thương mại) và thống nhất về tất cả các vấn đề liên quan đến HGV và hòa giải TCLĐ. Tuy vậy, các cơ quan nhà nước có thể có những hỗ trợ đặc biệt về tài chính, cơ chế hoạt động, đặc biệt là trong thời gian đầu mới thành lập. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia cần đảm bảo một số điều kiện sau về địa vị pháp lý và cơ cấu tổ chức: Thứ nhất, đây là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước; 13 Tsukahara Nagaaki, Các phương thức giải quyết TCLĐ ở Nhật Bản., tham luận tại Hội thảo: "Giải quyết các TCLĐ theo pháp luật lao động của Việt Nam và Đức", Hà Nội, 2014. Thứ hai, cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia, các cơ quan hòa giải TCLĐ cấp dưới cần phải thỏa mãn các điều kiện về pháp nhân theo pháp luật hiện nay như: được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ một cách độc lập; Thứ ba, hoạt động hòa giải của các cơ quan này được tiến hành bởi HGV của chính cơ quan hòa giải đó; Thứ tư, hoạt động quản lý của Nhà nước đối với cơ quan này là bằng việc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động, điều kiện thành lập, hoạt động, tiêu chuẩn HGV; bằng việc áp dụng pháp luật, kiểm tra, thanh tra hoạt động; tạo lập các cơ chế bảo đảm cho việc chấp hành các thỏa thuận đạt được tại biên bản hòa giải thành. 2.2 Thiết lập cơ quan hòa giải độc lập khuyến khích cơ chế hòa giải tư nhân Việc thiết lập một hệ thống cơ quan hòa giải độc lập từ trung ương đến địa phương là hết sức cần thiết nhằm bù đắp cho thực tế thiếu một cơ quan thống nhất của HGV ở Việt Nam hiện nay. HGV chỉ có thể hoạt động tốt, độc lập trong trường hợp có một cơ quan thống nhất, chịu trách nhiệm quản lý về tổ chức và nghiệp vụ đối với hòa giải. Cần phải có những biện pháp để khuyến khích các cơ chế giải quyết TCLĐ có tính tư nhân như: ghi nhận các cơ chế như vậy trong pháp luật lao động; quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận về cơ chế giải quyết tranh chấp trong thỏa ước lao động tập thể (tham khảo kinh nghiệm một số nước khi yêu cầu thỏa ước tập thể phải quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung, nhưng có nước chỉ đòi hỏi thỏa ước tập thể có quy BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 40 Số 14(342) T7/2017 định về giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng thỏa ước hoặc các tranh chấp về lợi ích)14; đẩy mạnh sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý lao động. Bên cạnh việc xây dựng cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia, việc thành lập các cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập theo cơ chế tư nhân cần phải được tính đến những đặc điểm sau: - Là cơ quan dịch vụ mang tính nghề nghiệp được thành lập hợp pháp theo các quy định của pháp luật và có tư cách pháp nhân. Cơ quan này chịu sự quản lý về nghề nghiệp của cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia. - HGV (người làm việc tại cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập) là người có trình độ, tiêu chuẩn HGV, được cấp giấy chứng nhận HGV do cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia cấp. Giấy chứng nhận này như một chứng chỉ nghề nghiệp chỉ được cấp cho người đạt đủ những tiêu chuẩn quy định. - Những HGV thuộc cơ quan hòa giải TCLĐ nằm trong khu vực địa giới hành chính nào có quyền tiếp cận với cơ sở dữ liệu về thỏa ước tập thể tại nơi đó để có thể chủ động liên lạc hay giới thiệu về dịch vụ hòa giải của mình. - Cơ quan hòa giải TCLĐ và HGV có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ hòa giải TCLĐ theo quy định của pháp luật, dựa theo những trình tự tối thiểu, có thể lập những trình tự hòa giải mang đặc trưng riêng và có hiệu quả trong hoạt động hòa giải. - Chi phí cho hoạt động của cơ quan hòa giải TCLĐ theo cơ chế tự quản có thể xây dựng theo mô hình doanh nghiệp. Chi phí cho việc hòa giải có thể do người sử dụng lao động, người lao động là người yêu cầu hòa giải hoặc do hai bên cùng nhau chi trả theo thỏa thuận của mỗi bên. 14 Trần Hoàng Hải, Pháp luật về giải quyết TCLĐ tập thể - Kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam (sách chuyên khảo), sđd. 2.3 Mô hình hóa cơ quan quản lý và phát triển HGV Mô hình quản lý HGV, như đã phân tích, cần có một cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia và các cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập cấp huyện hoặc cấp tỉnh. Cơ quan hòa giải TCLĐ quốc gia là một cơ quan độc lập thống nhất quản lý HGV trong cả nước. Tiếp đến là cơ quan hòa giải TCLĐ độc lập cấp tỉnh, thống nhất quản lý HGV cấp tỉnh, có đội ngũ HGV cấp tỉnh để giải quyết TCLĐ tập thể hoặc hòa giải các TCLĐ tại những doanh nghiệp thuộc quản lý của đơn vị cấp tỉnh. Cuối cùng là cơ quan hòa giải TCLĐ cấp huyện và Trung tâm hòa giải lao động tư nhân gồm các HGV cấp huyện, giải quyết TCLĐ cá nhân và tranh chấp tại các doanh nghiệp thuộc quản lý của đơn vị cấp huyện. HGV phải trở thành chuyên nghiệp, không kiêm nhiệm và làm việc toàn thời gian cho các cơ quan hòa giải. Có thể khái quát thành sơ đồ sau: Sơ đồ: Cơ quan quản lý HGV được đề xuất. Cơ quan hòa giải cấp Tỉnh Cơ quan hòa giải Quốc Gia Cơ quan hòa giải cấp Huyện Trung tâm hòa giải lao động tư nhân BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 41Số 14(342) T7/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbo_luat_lao_dong_sua_doi_can_quy_dinh_ve_xay_dung_co_quan_ho.pdf
Tài liệu liên quan