Như vậy, vấn đề BTTH do CCV gây ra
được điều chỉnh rất phức tạp trong pháp luật
thực định Việt Nam. Sự phức tạp này một phần
là do có sự phân biệt CCV thuộc Phòng công
chứng (viên chức nhà nước) và CCV thuộc
VPCC (công chứng tư). Sự phức tạp một phần
còn do sự chồng chéo giữa các văn bản như
Luật Công chứng, BLDS và có sự hiện diện
của nhiều chủ thể trong cùng một vụ việc như
người bị thiệt hại (có thể là người yêu cầu công
chứng hay không yêu cầu công chứng), CCV
gây thiệt hại và tổ chức hoạt động công chứng
được yêu cầu bồi thường.
Do có sự phức tạp nêu trên, khi giải quyết
yêu cầu BTTH do CCV gây ra, chúng ta cần
phân biệt người yêu cầu BTTH là người yêu
cầu công chứng hay người không yêu cầu công
chứng. Đối với trường hợp thứ nhất, chúng ta
áp dụng khoản 5 Điều 32, Luật Công chứng để
xác định trách nhiệm của tổ chức hành nghề
công chứng. Đối với trường hợp thứ hai, chúng
ta áp dụng các quy định về BTTH ngoài hợp
đồng trên cơ sở Điều 604 và Điều 618, 619 hay
Điều 622 BLDS.
Khi thiệt hại do CCV gây ra, không nên áp
dụng Luật TNBTCNN cho dù CCV là công
chức, viên chức. Việc không áp dụng Luật
TNBTCNN tạo ra sự công bằng giữa các
Phòng CCNN và VPCC tư, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc
yêu cầu bồi thường.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
1. Qua các vụ việc cụ thể
Vụ việc thứ nhất: Chiều ngày 05/02/2009,
bà Nga đến Văn phòng Công chứng (VPCC)
Ba Đình đề nghị công chứng hợp đồng chuyển
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở với
tư cách là bên mua với bên bán là vợ chồng
bà Thủy, ông Chín. Sau khi kiểm tra hồ sơ,
CCV đã thụ lý. Do bên bán không đến công
chứng tại trụ sở VPCC (vì đau chân) nên đã
đề nghị CCV tiến hành ký hợp đồng ngoài trụ
sở. Sau khi tiến hành soạn hợp đồng, đến 19h
ngày 05/02/2009, CCV đã đến địa chỉ theo bà
Nga yêu cầu để tiến hành công chứng. Ngày
06/02/2009, CCV đóng dấu tại Văn phòng và
bà Nga đến VPCC để đóng phí công chứng
và nhận 04 bộ hợp đồng bản gốc. Sau khi ký
kết hợp đồng, bà Nga đã giao tiền đầy đủ cho
vợ chồng bà Thuỷ và ông Chín, đồng thời vợ
chồng bà Thuỷ, ông Chín giao lại “sổ đỏ” căn
nhà nói trên. Ngày 20/8/2009, bà Nga đến Văn
phòng đăng ký đất đai Hà Nội để tiến hành
thủ tục sang tên “sổ đỏ” thì được Văn phòng
đăng ký đất đai Hà Nội trả lời rằng, mảnh đất
và căn nhà của bà Thuỷ và ông Chín đã được
bà Thuỷ và ông Chín thế chấp cho Công ty da
giày Hà Nội bằng Hợp đồng công chứng số
01/HĐTC ngày 23/7/2008 của VPCC Ba Đình
cũng do chính CCV Dũng chứng nhận để vay
hai tỉ đồng. Việc thế chấp này chưa được giải
chấp, nên bà Nga không đủ tư cách để thực
hiện việc sang tên “sổ đỏ”. Bà Nga đã có đơn
khiếu nại và yêu cầu BTTH.
Vụ việc thứ hai: Vợ chồng ông Tấn nợ
bà Ri hơn hai tỷ đồng. Cấp sơ thẩm (ngày
03/08/2007), phúc thẩm (ngày 02/11/2007)
đều tuyên vợ chồng ông Tấn phải trả cho bà
Ri số tiền hơn 2,1 tỷ đồng. Vợ chồng ông Tấn
mới trả cho bà Ri được hơn 600 triệu (còn thiếu
(*) TS, Quyền Trưởng khoa Luật dân sự, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
Hệ thống công chứng ở nước ta được chính thức thành lập khi Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/2/1991 về Công chứng nhà nước (CCNN). Từ đó đến khi có Luật Công chứng (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2007), Chính phủ đã có thêm hai lần ban hành các nghị định về công chứng. Đó là Nghị
định số 31/CP ngày 18/5/1996 về Tổ chức và hoạt động CCNN và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000
về công chứng, chứng thực.
Hoạt động công chứng là một hoạt động đặc thù và trong quá trình thực hiện công việc của mình, Công
chứng viên (CCV) có thể gây thiệt hại và vấn đề bồi thường được đặt ra. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý giải
quyết bồi thường thiệt hại (BTTH) và điều kiện để phát sinh trách nhiệm BTTH do CCV gây ra.
Đỗ VăN ĐẠI*
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO CôNG CHỨNG VIÊN GÂY RA
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 457
2011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
khoảng hơn 1,4 tỷ) thì đã có yêu cầu Phòng
công chứng số 1 Tiền Giang công chứng việc
sang nhượng hai căn nhà của mình (đã thế
chấp cho Ngân hàng và Ngân hàng đồng ý cho
chuyển nhượng) cho bà Tuyết và chị Thi. Biết
được việc sang nhượng này nên bà Ri đã có
đơn gửi Phòng công chứng số 1 Tiền Giang để
ngăn chặn không cho sang nhượng. Tuy nhiên,
bà Trúc (CCV) vẫn chứng thực cho vợ chồng
ông Tấn bán hai căn nhà này. Cho rằng hành
vi của CCV gây thiệt hại cho mình, bà Ri kiện
Phòng công chứng số 1 Tiền Giang đòi BTTH
số tiền hơn 1,4 tỷ đồng.
Trong cả hai vụ việc trên, yêu cầu BTTH
đều liên quan đến hành vi công chứng của
CCV.
2. Cơ sở pháp lý giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hại do CCV gây ra
2.1 Không áp dụng Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước
Khi thi hành Luật Công chứng thì trên thực
tế, tồn tại hai hình thức hành nghề công chứng.
Đó là Phòng công chứng và VPCC: Nếu CCV
làm việc trong các Phòng CCNN (là đơn vị sự
nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp) thì họ là viên
chức nhà nước (CCV là công chức hoặc viên
chức nhà nước theo quy định tại Nghị định số
06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010); CCV làm
việc trong các VPCC thì không là công chức
hay viên chức nhà nước.
Nếu CCV tại VPCC gây thiệt hại, chúng
ta không áp dụng các quy định của Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật
TNBTCNN), vì như đã nói, họ không phải là
công chức hay viên chức nhà nước.
Còn đối với CCV tại Phòng công chứng,
thì “Phòng công chứng là cơ quan nhà nước,
do Nhà nước thành lập, CCV là công chức nhà
nước”, nên khi những người này tiến hành công
chứng và gây thiệt hại, vấn đề BTTH được đặt
ra thì có áp dụng Luật TNBTCNN không? Vấn
đề này, khi tham khảo ý kiến của một số CCV
thuộc Phòng công chứng (nhà nước), chúng tôi
đã nhận được câu trả lời là sẽ áp dụng Luật
TNBTCNN.
Trong vụ việc yêu cầu BTTH ở Tiền Giang,
người tiến hành công chứng là CCV của Phòng
CCNN và bản án không viện dẫn bất kỳ quy
định nào của Luật TNBTCNN. Thực tế, Luật
TNBTCNN chỉ có hiệu lực từ ngày 1/1/2010
nên việc Tòa án không viện dẫn Luật này có
thể được giải thích theo hướng Luật chưa có
hiệu lực đối với yêu cầu BTTH.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, cho dù có tồn tại
hoàn cảnh tương tự như vụ việc này và các tình
tiết xảy ra sau khi Luật TNBTCNN có hiệu
lực, chúng ta cũng không thể áp dụng Luật
TNBTCNN trong mối quan hệ với người bị
thiệt hại vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh
quy định “Luật này quy định TNBTCNN đối
với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi
hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý
hành chính, tố tụng, thi hành án”. Ở đây, hành
vi của CCV không phải là hành vi “trong hoạt
động tố tụng, thi hành án”. Do đó, nếu muốn
áp dụng Luật TNBTCNN thì phải chứng minh
được rằng, hành vi của CCV thuộc Phòng
công chứng nằm “trong hoạt động quản lý
hành chính”. Tuy nhiên, rất khó khẳng định
hành vi công chứng là “hoạt động quản lý
hành chính”.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng Luật
TNBTCNN đã có ý kiến cho rằng “phải quy
định thêm nhóm hành vi phải bồi thường trong
lĩnh vực CCNN”1. Trong Điều 13 về “Phạm vi
trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản
lý hành chính”, Luật TNBTCNN có liệt kê các
hành vi trong hoạt động quản lý hành chính có
thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường nhưng
không có hành vi trong lĩnh vực CCNN2. Điều
đó cho thấy, vấn đề có hay không đưa hành vi
trong lĩnh vực CCNN vào Luật TNBTCNN đã
(1) Xem Trọng Mạnh, Công chứng sai, phải bồi thường:
(2) Thực ra khoản 12 Điều 13 Luật TNBTCNN còn quy định “các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định” và có ý kiến
cho rằng khoản này bao gồm cả hoạt động của công chứng.
46 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
được đặt ra trong quá trình xây dựng Luật này,
nhưng các nhà lập pháp đã không đồng ý đưa
hành vi trong lĩnh vực CCNN vào trong Luật
TNBTCNN.
Thứ ba, CCV của các VPCC không là
viên chức nhà nước nên đương nhiên vấn đề
BTTH do hành vi của họ gây ra sẽ không được
điều chỉnh bởi Luật TNBTCNN. Vì thế, nếu
chúng ta áp dụng Luật TNBTCNN cho hành
vi của CCV trong Phòng CCNN thì sẽ tạo ra
sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật
Việt Nam và bất công bằng giữa công chứng
tư và CCNN; thiếu sự bình đẳng giữa hai loại
hình công chứng.
2.2 Áp dụng Luật Công chứng
- Quy định về bồi thường. Khi xây dựng
Luật Công chứng, vấn đề trách nhiệm BTTH
do CCV gây ra đã được nhiều người quan tâm.
Trong Điều 16 về “nghĩa vụ và quyền của
CCV”, Dự thảo (tháng 4/2006) có quy định
“CCV có nghĩa vụ bồi thường theo quy định
của pháp luật, nếu gây thiệt hại”. Với quy định
này thì CCV chịu trách nhiệm trực tiếp về thiệt
hại mà mình gây ra (chính CCV gây thiệt hại
phải BTTH).
Theo Báo cáo (số 1604/UBPL11) thẩm
tra Dự án Luật Công chứng của Ủy ban Pháp
luật Quốc hội khóa XI thì “đối với CCV thuộc
Phòng Công chứng là công chức nhà nước mà
gây thiệt hại, thì theo quy định tại Điều 619
Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS), cơ quan, tổ
chức quản lý cán bộ, công chức phải BTTH do
cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi
thi hành công vụ; nếu cán bộ, công chức đó
có lỗi thì phải có trách nhiệm hoàn trả cho cơ
quan, tổ chức. Do đó, đề nghị cơ quan trình dự
án cần nghiên cứu để quy định lại nội dung này
cho phù hợp với BLDS”, còn đối với CCV của
VPCC, “cần được nghiên cứu để quy định rõ
trong dự thảo Luật nhằm nâng cao trách nhiệm
của CCV cũng như góp phần bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người yêu cầu công chứng khi
có thiệt hại xảy ra do hành vi có lỗi của CCV”.
Trong Tài liệu báo cáo tại Hội nghị đại biểu
Quốc hội chuyên trách tháng 8/2006 và gửi xin
ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã cho biết “nhiều ý kiến
đề nghị cần quy định theo hướng CCV nếu gây
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng thì
trước hết tổ chức hành nghề công chứng phải
bồi thường, sau đó tổ chức hành nghề công
chứng có quyền yêu cầu CCV đã gây thiệt hại
bồi hoàn cho tổ chức hành nghề công chứng
nếu họ có lỗi. Tiếp thu ý kiến đại biểu, chúng
tôi đã chỉnh lý như trong Dự thảo Luật”. Trong
Dự thảo đề ngày 17/10/2006, chúng ta không
thấy quy định như Điều 16 nêu trên mà Điều
33 của Dự thảo về Nghĩa vụ của tổ chức hành
nghề công chứng quy định “BTTH do lỗi mà
CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra
cho người yêu cầu công chứng”. Ở đây, chúng
ta không theo hướng chỉ quy định trách nhiệm
trực tiếp của CCV mà theo hướng quy trách
nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng nơi
CCV làm việc.
Cuối cùng, Luật Công chứng được thông
qua (ngày 29/11/2006) đã không quy định
“CCV có nghĩa vụ bồi thường theo quy định
của pháp luật, nếu gây thiệt hại” mà quy định
tại khoản 5 Điều 32 rằng “tổ chức hành nghề
công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà
Công chứng viên của tổ chức hành nghề công
chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng”.
- Phạm vi của quy định về bồi thường trong
Luật Công chứng. Trong vụ việc yêu cầu BTTH
liên quan đến VPCC Ba Đình, người yêu cầu
bồi thường là người đã yêu cầu công chứng.
Trong Báo cáo giải trình ngày 5/1/2010 gửi
Thanh tra Sở Tư pháp Hà Nội, VPCC Ba Đình
đã nêu “việc chúng tôi có thiếu sót, có lỗi vô ý
đã chứng nhận hợp đồng mua bán đã gây thiệt
hại cho khách hàng. Chúng tôi nghiêm túc rút
kinh nghiệm và sẽ bồi thường thỏa đáng cho
khách hàng theo quy định của pháp luật dân sự
khi có yêu cầu theo quy định tại khoản 5 Điều
32 Luật Công chứng”. Trong văn bản báo cáo
này, VPCC Ba Đình đề cập đến cả Điều 32
Khoản 5 Luật Công chứng và pháp luật về dân
sự nên người đọc rất lúng túng khi xác định
căn cứ để giải quyết vấn đề bồi thường. Pháp
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 477
2011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
luật dân sự ở đây là những quy định nào? Có
phải quy định tại Điều 619 BLDS như Báo cáo
thẩm tra Dự án Luật Công chứng của Ủy ban
Pháp luật Quốc hội khóa XI đã viện dẫn? Việc
bà Nga yêu cầu công chứng và CCV chấp nhận
công chứng phải chăng đã tồn tại quan hệ hợp
đồng và thiệt lại là do công chứng hợp đồng
nên đây là thiệt hại trong hợp đồng?
Trong vụ việc liên quan đến bà Ri, người
yêu cầu bồi thường là bà Ri nhưng bà Ri
không phải là người đã yêu cầu công chứng,
nên không thể viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng: nếu bà Ri có thiệt hại thì thiệt
hại này không phải đã “gây ra cho người yêu
cầu công chứng” như khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng đã quy định. Khi giải quyết yêu
cầu của bà Ri, TAND TP. Mỹ Tho3 không viện
dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng. Theo
chúng tôi, việc Tòa án không viện dẫn khoản
5 Điều 32 Luật Công chứng là đúng vì như đã
nêu ở trên, bà Ri là người cho rằng có thiệt hại
nhưng không là người yêu cầu công chứng.
Qua hai vụ việc trên chúng ta thấy, không
phải cứ có yêu cầu BTTH do hành vi của CCV
gây ra là chúng ta vận dụng các quy định về
BTTH trong Luật Công chứng. Các quy định
về BTTH trong Luật Công chứng chỉ áp dụng
đối với “thiệt hại gây ra cho người yêu cầu
công chứng”.
2.3 Áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự
2.3.1. Trường hợp người bị thiệt hại không
là người yêu cầu công chứng
- Thiệt hại do CCV của Phòng CCNN gây
ra. Khi giải quyết yêu cầu của bà Ri, TAND TP.
Mỹ Tho4 không viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng mà đã viện dẫn một số quy định
của BLDS trong đó có Điều 619 về “BTTH do
cán bộ, công chức gây ra”. Việc Tòa án không
viện dẫn khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng
là đúng: thiệt hại không gây ra cho người yêu
cầu công chứng. Còn đối với việc Tòa án viện
dẫn Điều 619 BLDS, chúng ta có thể lý giải
như sau: Thiệt hại của bà Ri có thể có là thiệt
hại ngoài hợp đồng và là do CCV của Phòng
CCNN (là công chức) gây ra.
- Thiệt hại do CCV của VPCC gây ra. Ví
dụ, ông Thiều qua đời vào tháng 10/2007 để
lại một số tài sản không có di chúc, trong đó có
một thửa đất gần 5.000 m2. Khi những người
thừa kế theo pháp luật làm thủ tục phân chia
di sản thì vợ kế của ông Thiều đi thế chấp đất
trên để vay 170 triệu đồng. Ngày 9/6/2010,
hợp đồng vay tiền của bà đã được CCV của
VPCC Minh Thư (TP. Tân An) chứng nhận.
Về vấn đề này, Trưởng VPCC Minh Thư giải
thích: “Khi đến văn phòng làm thủ tục thì có
hai người (vợ kế của ông Thiều và một người
đàn ông). Cả hai đều xuất trình đầy đủ các giấy
tờ hợp lệ. Hôm đó, do đông khách nên Văn
phòng không phát hiện ra người đàn ông đó
không phải là ông Thiều và đã công chứng để
họ vay tiền. Chúng tôi xin nhận trách nhiệm và
sẽ bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra cho những
người có quyền lợi liên quan”5. Như vậy, phía
VPCC đã chấp nhận nếu có thiệt hại thì sẽ bồi
thường. Trong trường hợp này, chúng ta cũng
không thể áp dụng khoản 5 Điều 32 Luật Công
chứng vì người bị thiệt hại không phải là người
yêu cầu công chứng. Chúng ta cũng không thể
áp dụng Điều 619 BLDS để yêu cầu VPCC bồi
thường vì CCV của VPCC không là “cán bộ,
công chức”.
Theo khoản 1 Điều 26 Luật Công chứng,
“VPCC do một CCV thành lập được tổ chức
và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư
nhân. VPCC do hai CCV trở lên thành lập
được tổ chức và hoạt động theo loại hình công
ty hợp danh”. Như vậy, VPCC có thể là công
ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (thực
tế, có nhiều VPCC do một CCV thành lập
theo loại hình doanh nghiệp tư nhân nhưng lại
có nhiều CCV làm việc). Đối với trường hợp
(3) Bản án số 187/2009/DSST ngày 30/12/2009 của TAND TP. Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang.
(4) Tlđd.
(5) Xem Minh Hiếu, Công chứng cho người chết vay tiền:
chet-vay-tien.htm
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
Văn phòng là công ty hợp danh thì đây là pháp
nhân6 nên chúng ta có thể khai thác Điều 618
BLDS để giải quyết quan hệ bồi thường giữa
người bị thiệt hại và VPCC: theo Điều 618
BLDS, “pháp nhân phải BTTH do người của
mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được
pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã BTTH thì
có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây
thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật”7.
Đối với VPCC là doanh nghiệp tư nhân thì
chúng ta không thể sử dụng Điều 618 vì doanh
nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Khi CCV của doanh nghiệp tư nhân này gây
thiệt hại thì chúng ta có thể sử dụng Điều 622
BLDS theo đó “cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác phải BTTH do người làm công gây
ra trong khi thực hiện công việc được giao”.
Ở đây, CCV gây thiệt hại có thể được coi là
người làm công cho doanh nghiệp tư nhân và
Điều 622 quy định trách nhiệm cho “cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác” với tư cách là
người sử dụng người làm công nên cũng được
áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân (là “chủ thể
khác” trong Điều 622)8.
2.3.2. Trường hợp người bị thiệt hại là
người yêu cầu công chứng
Đối với trường hợp này, như trên đã nêu,
chúng ta áp dụng khoản 5 Điều 32 Luật Công
chứng. Điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ
không sử dụng quy định nào của BLDS.
Thực ra Điều 619 BLDS có hai ý: Ý thứ
nhất liên quan đến người bị thiệt hại và tổ
chức, cơ quan quản lý cán bộ, công chức9. Ý
thứ hai là mối quan hệ giữa cán bộ, công chức
và cơ quan, tổ chức quản lý10. Khoản 5 Điều 32
Luật Công chứng chỉ đề cập đến mối quan hệ
giữa tổ chức hành nghề công chứng và người
bị thiệt hại. Do đó, khoản 5 Điều 32 Luật Công
chứng chỉ thay thế ý thứ nhất của Điều 619
BLDS. Trong quan hệ giữa cán bộ, công chức
và cơ quan, tổ chức quản lý sau khi bồi thường
cho người bị thiệt hại, các quy định trong Điều
619 (ý thứ hai nêu trên) vẫn được áp dụng.
Quy định tại khoản 5 Điều 32 Luật Công
chứng đề cập đến “tổ chức hành nghề công
chứng” nói chung, không giới hạn ở hành vi của
CCV thuộc Phòng CCNN hay thuộc VPCC nên
nó được áp dụng cho cả hai. Điều đó có nghĩa
là nếu VPCC là công ty hợp danh (pháp nhân)
thì đoạn đầu của Điều 618 BLDS (đã nêu ở
trên) được thay thế bằng khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng và đoạn sau Điều 618 BLDS vẫn
được vận dụng sau khi bồi thường cho người
bị thiệt hại11. Còn nếu VPCC là doanh nghiệp
tư nhân, đoạn đầu của Điều 622 BLDS (đã nêu
ở trên) được thay thế bằng khoản 5 Điều 32
Luật Công chứng và đoạn sau của Điều 622
BLDS vẫn được vận dụng sau khi bồi thường
cho người bị thiệt hại12.
3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do công chứng viên gây ra
3.1. Trường hợp người bị thiệt hại là người
yêu cầu công chứng
- Lỗi của CCV: Khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng quy định “tổ chức hành nghề
công chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà
CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây
(6) Theo khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp, “công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh”.
(7) Về BTTH do người của pháp nhân gây ra, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, Nxb. CTQG 2010, Bản án số 45 và 46.
(8) Về BTTH do người làm công gây ra, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb.
CTQG 2010, Bản án số 44.
(9) Cụ thể là “cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải BTTH do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ”.
(10) Cụ thể là “cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức có lỗi trong khi thi hành công vụ”.
(11) “Nếu pháp nhân đã BTTH thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định
của pháp luật”.
(12) “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác (...) có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 497
2011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
ra cho người yêu cầu công chứng”. Điều đó
có nghĩa là trách nhiệm (nghĩa vụ) bồi thường
của tổ chức hành nghề công chứng chỉ phải
bồi thường khi CCV của tổ chức này có “lỗi”.
Trong khoa học pháp lý (nhất là trong BLDS),
thuật ngữ “lỗi” được sử dụng rất phổ biến.
Nghiên cứu kỹ thì chúng ta thấy thuật ngữ này
có thể được hiểu là liên quan đến “nhận thức”
của người có hành vi gây thiệt hại (còn được
gọi là lỗi “chủ quan”, cái tiềm ẩn bên trong
nội tâm của chủ thể); “lỗi” còn được hiểu là
hành vi của chủ thể không phù hợp với chuẩn
mực của xã hội, quy định của pháp luật (còn
được gọi là lỗi “khách quan”, được chủ thể thể
hiện ra bên ngoài). Xu hướng hiện nay là xem
nhẹ yếu tố lỗi “nhận thức”. Trong Luật Công
chứng, khoản 5 Điều 32 đề cập đến “lỗi” của
CCV nhưng không cho biết thuật ngữ này cần
được hiểu như thế nào. Thiết nghĩ, mọi hành vi
của CCV không phù hợp với yêu cầu của pháp
luật về công chứng đối với CCV (trong đó bao
gồm cả đạo đức nghề nghiệp) đều được coi là
“lỗi” theo quy định tại khoản 5 Điều 32 Luật
Công chứng.
Theo Điều 2 Luật Công chứng, “công
chứng là việc CCV chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác
(sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn
bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu
cầu công chứng”13. Bên cạnh đó, Điều 5 Luật
Công chứng quy định “Lời chứng của CCV
phải ghi rõ thời gian, địa điểm công chứng, họ,
tên CCV, tên tổ chức hành nghề công chứng;
chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao
dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành
vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng,
giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái
đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao
dịch là có thật, chữ ký trong hợp đồng, giao
dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp
đồng, giao dịch”. Do đó, theo hướng dẫn của
Bộ Tư pháp, “trường hợp phát hiện thấy hợp
đồng đã công chứng có nội dung vi phạm điều
cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội gây
thiệt hại đến quyền, lợi ích của những người
liên quan trong hợp đồng thì hướng dẫn cho
người có quyền lợi bị thiệt hại khởi kiện ra Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật”14.
Trong vụ việc liên quan đến VPCC Ba Đình,
Văn phòng này đã thừa nhận “CCV đã có thiếu
sót trong quy trình công chứng hợp đồng” là
“chủ quan không kiểm tra đăng ký giao dịch
đảm bảo”15. Trong vụ việc này, tài sản trong
hợp đồng chuyển nhượng được công chứng đã
được thế chấp mà theo BLDS (khoản 4 Điều
349), bên thế chấp chỉ “được bán, trao đổi,
tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng
hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý”.
Ở đây, bên thế chấp đã chuyển nhượng tài sản
thế chấp cho bà Nga nhưng không có sự đồng
ý của Ngân hàng (bên nhận thế chấp) nên hợp
đồng này vô hiệu16. Điều đó có nghĩa là CCV
đã công chứng một hợp đồng không hợp pháp
nên có lỗi theo khoản 5 Điều 32 Luật Công
chứng.
Phần vừa rồi cho thấy lỗi của CCV và lỗi
này được thể hiện ra bên ngoài theo dạng
“không hành động”: không kiểm tra kỹ thông
tin. Thiết nghĩ, lỗi của CCV có thể biểu hiện ra
bên ngoài theo dạng “hành động”. Chẳng hạn,
nếu thuộc trường hợp từ chối công chứng mà
CCV vẫn công chứng thì đây có thể được coi
là có lỗi17.
- Thiệt hại của người yêu cầu công chứng:
(13) “Hoạt động công chứng bao gồm một chuỗi thủ tục rất phức tạp kể từ khi CCV tiếp nhận ý chí của các bên giao kết hợp đồng như:
xác định tư cách chủ thể của các bên, kiểm tra năng lực hành vi dân sự của chủ thể, tính tự nguyện của các bên hợp đồng, xác định
nguồn gốc hợp pháp của đối tượng hợp đồng, kiểm tra tính hợp pháp của nội dung hợp đồng, thời gian, địa điểm giao kết hợp
đồng v.v..” (xem Đặc san Tuyên truyền pháp luật số 13-Chuyên đề về công chứng, chứng thực, Bộ Tư pháp 2007).
(14) Công văn số 3378/BTP-BTTP ngày 22/9/2010 của Bộ Tư pháp gửi Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long hướng dẫn giải quyết đơn khiếu nại
(15) Công văn ngày 27/11/2009 của VPCC gửi bà Nga.
(16) Xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG, H, 2011 (tái bản lần thứ ba), Bản án số 29 và
30, phần số 8.
(17) Về vấn đề từ chối công chứng, xem thêm Đỗ Văn Đại và Dương Hoán, Về vấn đề từ chối công chứng khi có đơn ngăn chặn của cá
nhân, Tạp chí Khoa học pháp lý số 02/2011.
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
Khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng quy định
“tổ chức hành nghề công chứng” có nghĩa vụ
“BTTH do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề
công chứng gây ra cho người yêu cầu công
chứng”. Để quy trách nhiệm bồi thường của
tổ chức hành nghề công chứng, thì theo quy
định này, phải tồn tại thiệt hại; không có thiệt
hại thì tổ chức hành nghề công chứng không
phải bồi thường cho dù CCV có lỗi theo phân
tích ở trên. Vấn đề đặt ra là xác định thiệt hại
mà người yêu cầu công chứng phải gánh chịu
như thế nào?
Việc xác định thiệt hại thực tế mà bên yêu
cầu công chứng phải gánh chịu là rất khó.
Trong vụ việc liên quan đến VPCC Ba Đình,
bà Nga ký hợp đồng mua bán với giá 2,4 tỷ
đồng nhưng không đăng ký sang tên được
vì tài sản đã thế chấp cho Ngân hàng. VPCC
Ba Đình đã chấp nhận về nguyên tắc sẽ bồi
thường và bà Nga đã đòi bồi thường 3 tỷ đồng.
Điều đó có nghĩa - theo bà Nga - thiệt hại
của bà là 3 tỷ đồng. Tại sao lại là 3 tỷ đồng?
VPCC đã trả lời rằng, yêu cầu này “chưa phù
hợp”, “sẽ bồi thường cho bà Nga trên cơ sở
phán quyết của TAND các cấp có thẩm quyền”
(Công văn ngày 27/11/2009). Phòng Bổ trợ tư
pháp Hà Nội đã mời bà Nga và CCV VPCC Ba
Đình đến làm việc để giải quyết. Tại buổi làm
việc này, phía bà Nga đề nghị VPCC Ba Đình
BTTH là một tỷ năm trăm triệu đồng. VPCC
Ba Đình đã không chấp nhận bồi thường số
tiền này với lý do bà Nga không đưa ra được
căn cứ thiệt hại cụ thể.
Vụ việc trên cho thấy, việc xác định chính
xác thiệt hại mà người yêu cầu công chứng
gánh chịu là rất khó. Trong trường hợp này,
bên yêu cầu thiệt hại phải chứng minh thiệt hại
cụ thể của mình.
- Quan hệ nhân quả: Theo khoản 5 Điều 32
Luật Công chứng, “tổ chức hành nghề công
chứng” có nghĩa vụ “BTTH do lỗi mà CCV
của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho
người yêu cầu công chứng”.
Với quy định này thì chỉ thiệt hại “do lỗi”
của CCV gây ra mới được bồi thường (chỉ
thiệt hại có mối quan hệ nhân quả với lỗi của
CCV mới được bồi thường). Cũng theo quy
định trên, nếu thiệt hại do lỗi của người yêu
cầu công chứng gây ra thì tổ chức hành nghề
công chứng không phải bồi thường. Trong vụ
việc liên quan đến VPCC Ba Đình, thiết nghĩ
bà Nga cũng có lỗi. Cụ thể là: Bà Nga là người
tham gia ký kết hợp đồng mua bán nên bà Nga
cũng có trách nhiệm kiểm tra đối tượng của
hợp đồng mua bán. Việc CCV công chứng hợp
đồng mua bán tài sản đã thế chấp là có lỗi,
nhưng do bà Nga cũng có trách nhiệm kiểm
tra, tìm kiếm thông tin nên trong thiệt hại của
bà Nga có một phần lỗi của bà Nga. Do bà Nga
cũng có một phần lỗi trong việc để thiệt hại
của mình phát sinh nên bà Nga không được bồi
thường khoản thiệt hại tương ứng với phần lỗi
của mình. Nói cách khác, tổ chức hành nghề
công chứng không có trách nhiệm bồi thường
toàn bộ thiệt hại cho người yêu cầu công chứng
khi chính người yêu cầu công chứng cũng có
lỗi một phần, tổ chức hành nghề công chứng
chỉ BTTH tương ứng với phần lỗi của mình.
3.2 Trường hợp người bị thiệt hại là người
không yêu cầu công chứng
- Điều kiện trong Điều 618, 619, 622 BLDS.
Khi người bị thiệt hại không phải là người yêu
cầu công chứng, chúng ta không thể áp dụng
khoản 5 Điều 32 Luật Công chứng như đã
phân tích ở trên. Trong trường hợp này, nếu
muốn quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề
công chứng (khi khởi kiện thì tổ chức này sẽ là
bị đơn), chúng ta có thể áp dụng Điều 618, 619
hay 622 BLDS tùy vào việc CCV làm việc tại
Phòng CCNN (thì áp dụng Điều 619 BLDS)
hay VPCC (thì áp dụng Điều 618 hay 622
BLDS). Để quy trách nhiệm cho tổ chức hành
nghề công chứng, chúng ta phải thỏa mãn các
điều kiện nêu trong các điều luật này.
Nếu CCV làm trong Phòng CCNN thì khi
muốn quy trách nhiệm cho Phòng công chứng,
phải thỏa mãn các điều kiện sau đây của Điều
619: Thứ nhất là phải tồn tại thiệt hại (việc xác
định thiệt hại đã được phân tích ở phần trên).
Thứ hai, thiệt hại này do CCV của Phòng công
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 517
2011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
chứng gây ra. Thứ ba, thiệt hại được
“gây ra trong khi thi hành công
vụ”. Trong vụ việc liên quan đến
bà Ri, CCV đã lấy chữ ký của bên
bán ngoài giờ làm việc. Vậy nếu có
thiệt hại thì thiệt hại này có do CCV
gây ra trong khi thi hành công vụ
không? Câu trả lời rất khó. Thiết
nghĩ, nếu bắt buộc phải có câu trả
lời thì chúng ta nên theo hướng có
lợi cho người bị thiệt hại (tức chấp
nhận điều kiện thứ ba này được thỏa
mãn).
Nếu CCV làm trong VPCC
thì khi muốn quy trách nhiệm của
VPCC (là công ty hợp danh hay doanh nghiệp
tư nhân), chúng ta phải thỏa mãn các điều kiện
sau đây của Điều 618 hay Điều 622: Thứ nhất,
có thiệt hại thực tế. Thứ hai, thiệt hại do CCV
(người của pháp nhân hay người làm công của
doanh nghiệp tư nhân) gây ra. Thứ ba, thiệt hại
do CCV gây ra “trong khi thực hiện nhiệm vụ
được pháp nhân giao” (Điều 618) hay “trong
khi thực hiện công việc được giao” (Điều
622).
- Điều kiện khác: Ngoài các điều kiện nêu
tại Điều 618, 619 hay 622 BLDS nêu trên, để
quy trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công
chứng, chúng ta có cần thêm điều kiện khác
không?
Trách nhiệm của tổ chức công chứng theo
các quy định trên là dạng trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho CCV thuộc
tổ chức công chứng. Các điều kiện trên chỉ là
điều kiện để buộc tổ chức công chứng “thực
hiện thay” trách nhiệm của CCV nhằm tạo điều
kiện cho người bị thiệt hại. Để có chủ thể thực
hiện “thay” thì bản thân CCV đã phải có trách
nhiệm. Do đó, thiết nghĩ, các điều kiện để phát
sinh trách nhiệm cho chính CCV cần được hội
đủ. Trong vụ việc liên quan đến bà Ri, Phòng
công chứng bị kiện bồi thường do hành vi của
CCV của mình nên đây là yêu cầu bồi thường
thay. Vì thế để yêu cầu bồi thường đối với
Phòng công chứng được chấp nhận thì các căn
cứ phát sinh trách nhiệm của chính CCV phải
hội đủ. Thực tế, bên cạnh việc viện dẫn Điều
619 BLDS, Tòa sơ thẩm (sau đó là Tòa phúc
thẩm) đã viện dẫn cả Điều 604 BLDS về căn
cứ phát sinh trách nhiệm BTTH18. Điều này
cho thấy dường như Tòa án cũng theo hướng,
ngoài các điều kiện tại Điều 619, cần phải hội
đủ các điều kiện tại Điều 604 BLDS đối với
trách nhiệm của chính CCV (hành vi trái pháp
luật, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả và lỗi).
Đối với vụ việc liên quan đến bà Ri, theo
án lệ của Hội đồng Thẩm phán19, đây là trường
hợp từ chối công chứng (vì đã có cá nhân
ngăn chặn) nhưng CCV vẫn tiến hành công
chứng nên có thể coi CCV đã có hành vi trái
pháp luật theo quy định tại Điều 604 BLDS.
Tuy nhiên, điều kiện về tồn tại thiệt hại có
được thỏa mãn hay không trong vụ việc này
còn phải xem xét lại (khi không đủ chứng cứ
(18) “1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường. 2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp
dụng quy định đó”.
(19) Về quyết định giám đốc thẩm này, xem Đỗ Văn Đại và Dương Hoán, Về vấn đề từ chối công chứng khi có đơn ngăn chặn của cá
nhân, Tạp chí Khoa học pháp lý số 02/2011.
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
THỰC TIễN PHÁP LUẬT
để khẳng định thiệt hại tồn tại thì trách nhiệm
của CCV không phát sinh cho dù người này
có hành vi trái pháp luật).
- Quy trách nhiệm trực tiếp cho CCV: Chúng
ta thấy, nếu muốn quy trách nhiệm cho tổ chức
hành nghề công chứng đối với thiệt hại do
CCV của tổ chức này gây ra thì phải hội đủ các
điều kiện của Điều 618, 619 hay 622 BLDS.
Nhưng nếu các điều kiện này không hội đủ thì
liệu có thể quy trách nhiệm trực tiếp cho CCV
không? BLDS không quy định thực sự rõ ràng
về vấn đề này. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên,
trách nhiệm của tổ chức công chứng tại Điều
618, 619 hay 622 BLDS là trách nhiệm “thực
hiện thay” trách nhiệm của CCV. Vì thế, nếu
trách nhiệm thực hiện thay không thỏa mãn thì
vẫn còn trách nhiệm của CCV nên người bị
thiệt hại có quyền yêu cầu trực tiếp CCV phải
BTTH.
*
Như vậy, vấn đề BTTH do CCV gây ra
được điều chỉnh rất phức tạp trong pháp luật
thực định Việt Nam. Sự phức tạp này một phần
là do có sự phân biệt CCV thuộc Phòng công
chứng (viên chức nhà nước) và CCV thuộc
VPCC (công chứng tư). Sự phức tạp một phần
còn do sự chồng chéo giữa các văn bản như
Luật Công chứng, BLDS và có sự hiện diện
của nhiều chủ thể trong cùng một vụ việc như
người bị thiệt hại (có thể là người yêu cầu công
chứng hay không yêu cầu công chứng), CCV
gây thiệt hại và tổ chức hoạt động công chứng
được yêu cầu bồi thường.
Do có sự phức tạp nêu trên, khi giải quyết
yêu cầu BTTH do CCV gây ra, chúng ta cần
phân biệt người yêu cầu BTTH là người yêu
cầu công chứng hay người không yêu cầu công
chứng. Đối với trường hợp thứ nhất, chúng ta
áp dụng khoản 5 Điều 32, Luật Công chứng để
xác định trách nhiệm của tổ chức hành nghề
công chứng. Đối với trường hợp thứ hai, chúng
ta áp dụng các quy định về BTTH ngoài hợp
đồng trên cơ sở Điều 604 và Điều 618, 619 hay
Điều 622 BLDS.
Khi thiệt hại do CCV gây ra, không nên áp
dụng Luật TNBTCNN cho dù CCV là công
chức, viên chức. Việc không áp dụng Luật
TNBTCNN tạo ra sự công bằng giữa các
Phòng CCNN và VPCC tư, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc
yêu cầu bồi thường.
(7) Hoàng Xuân Nghĩa: Phát triển kinh tế hàng hóa Thăng Long – Hà Nội, quy luật chung và những biểu hiện đặc thù. Hội thảo Quốc
tế Việt Nam học lần thứ 2, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
hội - đô thị - môi trường. Xây dựng nền nông
nghiệp Thủ đô theo hướng nông nghiệp đô thị
sinh thái, sử dụng công nghệ cao và tạo ra giá
trị cao, khai thác hiệu quả các nguồn lực quý
giá của Hà Nội là lao động và đất đai. Trong
đó, người nông dân là chủ thể sáng tạo ra các
giá trị mới và được hưởng lợi ích từ quá trình
CNH, ĐTH. Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa
phát triển công nghiệp, đô thị và vấn đề “tam
nông” đã là cách thức tồn tại trong quá khứ
1.000 năm của Thăng Long, đồng thời cũng là
một thách thức trong sự phát triển đầy kỳ vọng
của Thủ đô Hà Nội trong hiện tại và tương lai7.
Chỉ trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ này,
Việt Nam và Thủ đô Hà Nội mới có thể cạnh
tranh, phát triển và trường tồn trong thời đại
toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI...
(Tiếp theo trang 43)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- boi_thuong_thiet_hai_do_cong_chung_vien_gay_ra.pdf