Chúng tôi ghi nhận có 7 bệnh nhân bị ói sau
mổ, ngoài ra chúng tôi chưa ghi nhận tác dụng
phụ, tai biến, biến chứng do gây tê gây ra trên
các bệnh nhân này, vì số lượng bệnh nhân còn ít
nên chưa đánh giá hết được. Các tác giả cũng đã
chỉ ra các biến chứng do gây tê xương cùng nói
chung(6,2), các biến chứng do Morphine như ói,
bí tiểu, ức chế hô hấp, trong phẫu thuật tim hở
do dùng heparine với lượng lớn cho nên biến
chứng tụ máu ngoài màng cứng được nhiều tác
giả nhắc tới (4, 5, 9, 10). Tuy chưa ghi nhận có biến
chứng nhưng khi thực hiện phương pháp này
cần lưu ý để có biện pháp phòng ngừa, cần theo
dõi sát để hạn chế tối thiểu các tai biến, biến
chứng do gây tê gây ra
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 660 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả của phối hợp gây tê xương cùng bằng bupivacaine và morphine sulphate với gây mê trên phẫu thuật tim hở ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 148 
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHỐI HỢP GÂY TÊ XƯƠNG CÙNG 
BẰNG BUPIVACAINE VÀ MORPHINE SULPHATE VỚI GÂY MÊ 
TRÊN PHẪU THUẬT TIM HỞ Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 
Hà Văn Lượng* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của gây tê khoang xương cùng bằng Bupivacaine và Morphine sulphate phối 
hợp với gây mê trong phẫu thuật tim hở ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi đã hồi cứu hồ sơ bệnh án của 86 bệnh nhi được phẫu thuật tim hở 
có chạy tuần hoàn ngoài cơ thể tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 3/2010 đến tháng 1/2011 và được gây tê 
xương cùng. Hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật, sau phẫu thuật, thời gian rút nội khí quản, các tác dụng phụ, 
các tai biến, biến chứng trong và sau phẫu thuật do gây tê là các yếu tố được sử dụng để đánh giá hiệu quả của 
phương pháp gây tê xương cùng. 
Kết quả: Trong 86 bệnh nhi trên có: 47 bệnh nhân thông liên thất (VSD), 16 bệnh nhân tứ chứng Fallot 
(TOF), 11 bệnh nhân thông liên nhĩ (ASD), 2 bệnh nhân bất thường tĩnh mạch phổi về tim (TAPVR), 1 bệnh 
nhân U thất phải, 1 bệnh nhân thông liên thất kèm hẹp eo động mạch chủ (VSD + CoA), 1 bệnh nhân thất phải 
hai đường ra kèm thông liên thất (DORV + VSD), 2 bệnh nhân tim 3 buồng nhĩ (Cor Triatriatum), 5 bệnh nhân 
thông liên thất kèm thông liên nhĩ. Tỉ lệ Nam/ Nữ: 41/45. Tuổi trung bình 30.61 tháng (3-168 tháng). Cân nặng 
trung bình 9,82kg (3,6 - 32kg). Chiều cao trung bình 81.54 cm (39-155cm). 82,56% bệnh nhân không cần sử 
dụng thêm thuốc giảm đau trong phẫu thuật, chỉ có 17,44% bệnh nhân dùng thêm 1 lần giảm đau tĩnh mạch lúc 
rạch da hoặc cưa xương ức. Thời gian rút nội khí quản trung bình 6,61 giờ (0,5 - 24 giờ). Thời gian giảm đau 
kéo dài sau gây tê trung bình 14,72 giờ. Không có trường hợp nào giảm huyết áp sau gây tê. Có 7 trường hợp ói 
sau mổ. Ngoài ra chưa có biến chứng hay tác dụng phụ khác. 
Kết luận: Số liệu của chúng tôi cho thấy gây tê khoang xương cùng bằng Bupivacaine và Morphine 
sulphate phối hợp với gây mê bước đầu có hiệu quả trong phẫu thuật tim hở ở trẻ. 
Từ khóa: Gây tê xương cùng, thuốc Morphine sulphate không có chất bảo quản, thuốc Bupivacaine. 
ABSTRACT 
INITIAL EVALUATION THE EFFECT OF CAUDAL ANESTHESIA BY USING MORPHINE 
SULPHATE AND BUPIVACAINE COMBINED WITH GENERAL ANESTHESIA FOR CHILDREN 
UNDERGOING OPEN HEART SURGERY AT CHILDREN’S HOSPITAL I 
Ha Van Luong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 148 - 153 
Objectives: We performed this study to evaluate the effects of combination of caudal anesthesia by using 
Morphine sulphate and Bupivacaine with general anesthesia for children undergoing open heart surgery at 
Children’s Hospital 1. 
Methods: we have retrospected 86 the medical records of 86 children undergoing open heart surgery, that 
were received caudal anesthesia, at Children’s hospital 1, from March 2010 to January 2011. The efficiency of 
intraoperative and postoperative Analgesia, extubation time, Side effects, accidents, complications were the factors 
being used for evaluating the effectiveness of caudal anesthesia. 
* Khoa Phẫu Thuật – Gây Mê Hồi Sức, Bệnh Viện Nhi Đồng 1 
Tác giả liên lạc: BS Hà Văn Lượng, ĐT: 0913612923, Email: runglanh2002@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 149 
Results: This study included 86 patients: 47 cases of VSD (ventricular septal defect) only, 16 cases of TOF 
(Tetralogy of Fallot), 11 cases of ASD (Atrial septal defect) only, 3 case of Cor Triatriatum;, 5 cases of VSD 
(ventricular septal defect) with ASD (Atrial septal defect), 2 cases of TAPVR, 1 cases of DORV with VSD, 1 
cases of VSD with CoA, 1 cases of tumor in ventricular. Male/Female = 41/45, the mean age (months) is 30.61 (3-
168),the mean weight (kg) is 9.82 (3.6-32), the mean height (cm) is 82.60 (39-155). 15 patients (17.44%) were 
used more sufentanyl at incision or saw sternum, 71 patients (82.56%) weren’t used more sufeltanyl,the mean of 
extubation time (min) is 6,61 (0.5-24), the mean of analgesia time 14.72, 7 cases were vomiting in postoperative. 
not hypotention after caudal or accidents, complications, others Side effects intraoperative and postoperative were 
recorded. 
Conclusions: Our data show that the combination of caudal anesthesia by using Morphine sulphate and 
Bupivacaine with general anesthesia was an initial efficiency for children undergoing open heart surgery. 
Key words: caudal anesthesia. Morphine Sulfate Without Preservatives. Bupivacaine. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gây tê khoang xương cùng được áp dụng 
rộng rãi ở trẻ em để giảm đau cho các phẫu 
thuật từ vùng dưới rốn. Từ tháng 03 năm 2010 
cho tới tháng 01năm 2011, tại bệnh viện nhi 
đồng I, chúng tôi đã thực hiện gây tê khoang 
xương cùng bằng Bupivacaine và Morphine 
sulphate phối hợp với gây mê trong phẫu thuật 
tim hở ở trẻ em. Sau một thời gian thực hiện 
phương pháp này chúng tôi nghiên cứu để 
đánh giá hiệu quả của giảm đau trong và sau 
mổ, thời gian rút nội khí quản sau mổ, các tác 
dụng phụ, tai biến, biến chứng do gây tê trên 
những bệnh nhân đã được phẫu thuật tim hở có 
gây tê khoang xương cùng kết hợp với gây mê. 
Mục tiêu 
Đánh giá hiệu quả của gây tê xương cùng 
bằng Bupivacaine và Morphine phối hợp với 
gây mê trong phẫu thuật tim hở ở trẻ em. 
Xác định hiệu quả giảm đau của gây tê 
xương cùng bằng Bupivacaine và Morphine 
phối hợp với gây mê trong lúc phẫu thuật và 
sau phẫu thuật tim hở ở trẻ em. 
Xác định thời gian rút nội khí quản sau mổ 
của các bệnh nhi được gây tê xương cùng bằng 
Bupivacaine và Morphine phối hợp với gây mê 
trong lúc phẫu thuật tim hở. 
Xác định tỷ lệ các biến chứng do gây tê xương 
cùng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt trường hợp. 
Đối tượng 
86 bệnh nhi đã được phẫu thuật tim hở có 
chạy tuần hoàn ngoài cơ thể tại Bệnh viện Nhi 
Đồng 1 từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 1 năm 
2011 và được gây tê bằng Bupivacaine và 
Morphine sulphate phối hợp với gây mê. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Số liệu được thu thập thông qua việc hồi 
cứu hồ sơ bệnh án. Thông tin của tất cả bệnh 
nhi được thu thập theo “bản thu thập số liệu” 
(soạn sẵn). 
Các bước tiến hành 
- Bệnh nhân được tiền mê bằng Midazolam, 
dẫn đầu bằng Sufentanyl, Sevoflurane, 
Rocuronium, đặt nội khí quản. (một số trường 
hợp bệnh nhân tứ chứng Fallot dùng ketamine 
2mg/kg hoặc một số bệnh nhân lớn tuổi bị 
ASD,VSD dùng propofol để dẫn đầu) 
- Kỹ thuật gây tê: (theo protocol đã được 
soạn riêng và áp dụng cho gây tê trên phẫu 
thuật tim hở tại Bệnh Viện Nhi Đồng I) Bệnh 
nhân sau khi được đặt nội khí quản, đặt bệnh 
nhi nằm nghiêng, gập hông, sát trùng vùng gây 
tê, rủa tay, mang găng vô trùng,trải xăng lổ, xác 
định khoang xương cùng, dùng kim luồn 24 - 
22G, đưa kim vào khe cùng hướng về mặt 
phẳng dọc một góc 400 – 600 so với mặt da, khi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 150 
kim qua dây chằng cùng cụt và có cảm giác hụt 
hứng thì hạ kim xuống so với mặt da một góc 
150, sau đó giữ kim sắt và đưa phần kim nhựa 
vào sâu thêm 2mm. kiểm tra phần kim nhựa 
nằm trong khoang xương cùng bằng cách hút 
nhẹ nhàng không thấy máu hay dịch não tủy, 
dùng nước muối sinh lý bơm vào nhẹ nhàng, 
mô dưới da vùng tiêm không bị sưng lên(6,8). 
- Liều thử: dùng dung dịch lidocain 1% + 
adrenaline 1/200.000 với liều 0,1ml/kg. nếu liều 
thử âm tính (mạch, huyết áp không thay đổi) thì 
tiêm dung dịch thuốc tê vào khoang xương 
cùng. 
- Dung dịch thuốc tê: Bupivacaine 0,25% 1ml 
/kg và Morphine suphate 1 mg/kg (liều tối đa 
của dung dịch thuốc tê là 20 ml)(4,8). 
- Ghi nhận huyết áp, nhịp tim, SpO2 trước 
và sau gây tê. 
- Duy trì mê: Rocuronium, Midazolam hoặc 
Sevoflurane (+/-). 
- Phiếu gây mê ghi đầy đủ và rõ ràng các 
mốc quan trọng trọng, cũng như diễn biến của 
gây mê và phẫu thuật. Theo dõi diễn biến của 
huyết động mỗi 10 phút trong cuộc mổ và các 
mốc quan trọng. 
- Xác định đau và thay đổi huyết động trong 
mổ bằng cách theo dõi sự thay đổi mạch và 
huyết áp. Trong lúc mổ, ghi nhận sự thay đổi 
huyết động, nhịp tim 120% của 
nhịp tim cơ bản (nhịp chậm, nhịp nhanh). Huyết 
áp 120% của huyết áp cơ bản 
(huyết áp tụt, huyết áp tăng). 
- Ở Hậu phẫu theo dõi bệnh và ghi rõ diễn 
biến, thời gian rút nội khí quản, các biểu hiện 
của đau, thời điểm bắt đầu sử dụng thuốc giảm 
đau và liều lượng của thuốc giảm đau sau 
mổ.Sau khi rút nội khí quản làm khí máu để 
đánh giá tình trạng hô hấp của bệnh nhân. 
- Phiếu gây mê và hồ sơ ghi nhận các tác 
dụng phụ, tai biến, biến chứng trong và sau mổ. 
Xử lý số liệu 
Bằng phần mềm SPSS 17.0 
KẾT QUẢ 
Trong nghiên cứu này có 86 bệnh nhân: 
- 41 bệnh nhân nam (47,67%), 45 bệnh nhân 
nữ (52,33%). 
 - 47 bệnh nhân thông liên thất (VSD), 16 
bệnh nhân tứ chứng Fallot (TOF), 11 bệnh nhân 
thông liên nhĩ (ASD), 2 bệnh nhân bất thường 
tĩnh mạch phổi về tim (TAPVR), 1 bệnh nhân U 
thất phải, 1 bệnh nhân thông liên thất kèm hẹp 
eo động mạch chủ (VSD + CoA), 1 bệnh nhân 
thất phải hai đường ra kèm thông liên thất 
(DORV + VSD), 2 bệnh nhân tim 3 buồng nhĩ 
(Cor Triatriatum), 5 bệnh nhân thông liên thất 
kèm thông liên nhĩ (VSD + ASD). 
- 86 bệnh nhân (100%) phẫu thuật sữa chữa 
hoàn toàn. 
- Tỉ lệ bệnh nhân được gây tê 86/214 chiếm 
40,18%. 
Đặc điểm bệnh nhân 
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân 
Đặc điểm bệnh nhân Trung bình ± Độ lệch chuẩn 
Tuổi (tháng) 30,61 ± 33,28 (3 -168) 
Cân nặng (kg) 9,82 ± 5,38 (3,6 - 32) 
Chiều cao (cm) 82,61 ± 22,14 (39 - 155) 
Đặc điểm phẫu thuật 
Bảng 2. Đặc điểm phẫu thuật 
Thời gian từ khi chích tê đến 
rạch da (phút) 
41,66 ± 16,68 (26 – 67) 
Thời gian chạy tuần hoàn 
ngoài cơ thể (phút). 
85,16 ± 37,82 (20 - 270) 
Thời gian kẹp ĐMC (phút) 47,02 ± 21,92 (12 - 124) 
Thời gian gây mê (phút) 263,49 ± 58,80 (160-520) 
Thêm thuốc giảm đau tĩnh mạch 
Có 71 (82,56%) bệnh nhân không cần sử 
dụng thêm thuốc giảm đau trong phẫu thuật, 
chỉ có 15 (17,44%) bệnh nhân dùng thêm 1 lần 
giảm đau tĩnh mạch lúc rạch da hoặc cưa 
xương ức. 
Tình trạng hô hấp và hỗ trợ hô hấp sau mổ 
- 23 bệnh nhân tự thở ngay sau khi mổ và 
được hỗ trợ bằng Jackson-Rees hoặc NCPAP 
- 63 bệnh nhân thở máy với mode thở SIMV 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 151 
+ PS. 
Rút nội khí quản sau mổ 
Bảng 3. Thời gian rút nội khí quản 
Thời gian rút nội khí quản Trung bình ± Độ lệch chuẩn 
Giờ 6.61 ± 6.67 (0.5 – 24) 
Bảng 4: Kết quả khí máu của bệnh nhân sau khi rút 
nội khí quản 
Kết quả Trung bình ± Độ lệch chuẩn 
pH 7.343 ± 0.55 
PaC02 (mmHg) 39.47 ± 8.71 
Pa02 (mmHg) 243.93 ± 7.79 
Sa02 % 99,2 ± 0.66 
Giảm đau sau mổ 
Bảng 5: Thời gian giảm đau 
Thời gian Giảm đau Trung bình ± Độ lệch chuẩn 
Giờ 14.72 ± 7.62 (6-24) 
Tác dụng phụ, tai biến, biến chứng do gây 
tê 
Tác dụng phụ, tai biến, biến chứng do gây 
tê: Chưa ghi nhận trường hợp nào tác dụng phụ, 
tai biến, biến chứng trong hoặc sau mổ do gây tê 
ngoại trừ có 7 trường hợp bị nôn ói. 
BÀN LUẬN 
Bệnh lý được phẫu thuật 
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận 
gây tê xương cùng đã được thực hiện trên các 
bệnh nhân bị tim bẩm sinh được phẫu thuật 
như: tứ chứng Fallot, VSD, ASD, ASD+VSD, 
bướu trong thất phải, tim 3 buồng nhĩ, DORV + 
VSD, TAPVR, VSD+CoA, Trong nghiên cứu của 
các tác giả Alexander J. C. Mittnacht và cs (7) đã 
thực hiện phương pháp này trên những bệnh 
nhân bị tim bẩm sinh được phẫu thuật như 
chuyển vị đại động mạch, kênh nhĩ thất, tứ 
chứng Fallot, thông liên nhĩ, thông liên thất, 
tim 3 buồng nhĩ, thất phải 2 đường ra, bất 
thường tĩnh mạch phổi về tim, hẹp van động 
mạch chủ, hẹp/hở van 2 lá, hẹp/hở van 3 lá 
Tuổi và cân nặng của bệnh nhi 
Kết quả nghiên cứu trên 86 bệnh nhân cho 
thấy bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 3 tháng, lớn 
nhất 168 tháng, trung bình 30.61 tháng. Cân 
nặng nhẹ nhất 3.6 kg, nặng nhất 32 kg, trung 
bình 9,82 kg. Do bước đầu chúng tôi thận trọng 
khi thực hiện một phương pháp mới, nên thận 
trọng với những bệnh nhân nhỏ tuổi và nhẹ cân. 
Tuy nhiên trên thế giới đã có những nghiên cứu 
cho thấy phương pháp này đã được thực hiện 
trên những bệnh nhân sơ sinh như Các tác giả 
Jeffrey S. Heinle và cs.(5) nghiên cứu trên bệnh 
nhân có độ tuổi từ 7 ngày tuổi đến 90 ngày tuổi. 
Hiệu quả của giảm đau trong mổ 
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy 
có 71 trường hợp không cần phải dùng thêm 
giảm đau tĩnh mạch trong suốt quá trình phẫu 
thuật, có 15 trường hợp nhịp tim và huyết áp 
tăng do đau lúc rạch da hoặc cưa xương ức nên 
phải dùng thêm 1 liều sufentanyl sau đó trong 
suốt quá trình phẫu thuật huyết động trong giới 
hạn bình thường và không phải cho thêm thuốc 
giảm đau tĩnh mạch. Nhận thấy những trường 
hợp này là bệnh nhi lớn tuổi hoặc bệnh nhân mà 
có thời gian từ lúc gây tê cho tới lúc rạch da < 30 
phút, có thể do thời gian đầu chưa có kinh 
nghiệm nên các bác sỹ thực hiện gây tê sau khi 
thực hiện các thủ thuật khác như đặt nội khí 
quản, chích động mạch, chích CVP, do đó rút 
ngắn thời gian từ lúc gây tê tới lúc rạch da, cưa 
xương ức nên. Cải thiện tình trạng này bằng 
cách gây tê ngay sau khi đặt nội khí quản và 
trước các thủ thuật khác do đó kéo dài thời gian 
để thuốc tác dụng. Tuy nhiên trong một cuộc 
gây mê - phẫu thuật kéo dài như phẫu thuật tim 
hở mà không phải cho thêm giảm đau hoặc chỉ 
cho thêm 1 liều giảm đau tĩnh mạch lúc rạch da 
hoặc cưa xương ức thì đã có thể đánh giá là 
phương pháp gây tê này đã có hiệu quả giảm 
đau trong mổ. 
Chúng tôi cần nghiên cứu thêm để tìm thời 
điểm tác dụng của thuốc đạt mức giảm đau cần 
thiết cho phẫu thuật, cũng như các yếu tố ảnh 
hưởng như cân nặng, chiều cao, liều lượng của 
Morphine sulphate  
Đánh giá thời gian rút nội khí quản sau 
mổ 
Rút NKQ sớm cho phép giảm bớt các tai 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 152 
biến do thở máy kéo dài như chấn thương phổi 
hoặc đường thở, xẹp phổi do di lệch ống NKQ 
hoặc đặt qua sâu qua 1bên phổi và ảnh hưởng 
không tốt trên huyết động khi hút khí quản, rút 
NKQ sớm cho phép giảm bớt chi phí do thở 
máy. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng 
rút NKQ sớm trong vòng 6 – 8 giờ sau PT sửa 
chữa hoàn toàn tim bẩm sinh ở trẻ em thì an 
toàn. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian 
rút nội khí quản trung bình 6,61 giờ (0.5- 24 giờ), 
chúng tôi ghi nhận có 66,3% rút nội khí quản 
trong 6 giờ đầu sau mổ, 33,7% rút nội khí quản 
từ 7 giờ tới 24 giờ sau phẫu thuật, những trường 
hợp rút nội khí quản muộn hơn này thường do 
tính chất của phẫu thuật như bệnh nhân tứ 
chứng fallot, thất phải 2 đường ra, bất thường 
tĩnh mạch phổi về tim, VSD +CoA hoặc bệnh 
nhân chạy tuần hoàn ngoài cơ thể kéo dài ≥ 150 
phút. Có 5 bệnh nhân ứ C02 sau khi rút nội khí 
quản (PaC02 > 50 mmHg) tuy nhiên những bệnh 
nhân này không phải đặt lại nội khí quản chỉ 
cho thở NCPAP. Hiệu quả giảm đau của Gây tê 
xương cùng đã làm giảm tối đa lượng thuốc 
giảm đau tĩnh mạch, kèm theo giảm lượng 
thuốc mê, cho nên có thể rút được nội khí quản 
sớm sau mổ, trước khi thực hiện phương pháp 
này đa số chúng tôi gây mê cho bệnh nhân phẫu 
thuật tim hở bằng Midazolam, sufentanyl, và 
giãn cơ liều cao(1). Theo tác giả Bùi Li Mông(3) khi 
nghiên cứu trên 207 bệnh nhân mổ tim hở tại 
Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ 6/2008 – 6/2010 thì thời 
gian lưu nội khí quản sau mổ trung bình là 36 ± 
57 (giờ). Theo ghi nhận của chúng tôi và so với 
nghiên cứu của tác giả Bùi Li Mông thì thời gian 
rút nội khí quản đã cải thiện khá nhiều. Nhưng 
So với các tác giả trên thế giới thời gian rút nội 
khí quản sau mổ còn muộn, Theo nghiên cứu 
của các tác giả Jeffrey S. Heinle, Laura K. Diaz, 
Lawrence S. Fox trong phẫu thuật tim hở có gây 
tê xương cùng có tới 50% bệnh nhân rút nội khí 
quản tại phòng mổ, 38% rút nội khí quản trong 
3 giờ đầu sau phẫu thuật. 12% rút nội khí quản 
sau 3 giờ(5). Theo nhóm tác giả Alexander J. C. 
Mittnacht, MD, Maria Thanjan, MD, Shubhika 
Srivastava, MD, Umesh Joashi, MD,Carol 
Bodian, PhD, Sabera Hossain, MS, Nobuhide 
Kin, MD, Ingrid Hollinger, MD, and Khanh 
Nguyen, MD (7) nghiên cứu trên 224 bệnh nhân 
được phẫu thuật tim hở và được gây tê xương 
cùng thì có tới 79% bệnh nhân được rút nội khí 
quản trong phòng mổ, thời gian rút nội khí 
quản thực hiện nhanh và dễ trên nhóm bệnh 
nhân lớn tuổi. Thời gian rút nội khí quản sau 
mổ trên bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng 
tôi còn muộn có thể trong gây mê do các nhân 
viên của chúng tôi chưa quen với phương pháp 
mới nên chỉnh liều thuốc giãn cơ, thuốc mê, 
thuốc midazolam chưa phù hợp nên khi kết 
thúc phẫu thuật bệnh nhân vẫn còn tác dụng 
của thuốc nên làm cho bệnh nhân lâu tự thở lại. 
Đánh giá hiệu quả của giảm đau sau mổ 
Chúng tôi ghi nhận thời gian giảm đau sau 
gây tê kéo dài trung bình 14,73, có 32 bệnh nhân 
không phải cho giảm đau trong 24 giờ đầu sau 
gây tê. Những bệnh nhân cần cho thuốc giảm 
đau khi đã hết thuốc tê cũng chỉ dùng Perfalgan 
hoặc Morphine liều 10 (mcg/kg/giờ). Theo tác 
giả M. Gail Boltz và Gregory B.Hammer(2) trên 
phẫu thuật tim hở ở trẻ em việc gây tê kết hợp 
với gây mê làm giảm tối đa thuốc giảm đau tĩnh 
mạch, giảm thuốc mê do đó có thể rút nội khí 
quản sớm cho bệnh nhân và thời gian giảm đau 
có thể kéo dài sau phẫu thuật là 6 - 12 giờ, và 
giảm được liều thuốc giảm đau nhóm Opiate 
sau đó trong 24 giờ. Nhưng theo Rosen và 
Rosen’s nghiên cứu cho thấy tiêm thuốc phiện 
qua khoang ngoài màng cứng xương cùng có 
thể giảm đau cho PT lồng ngực và thời gian 
giảm đau kéo dài từ 8 – 24 giờ. Chúng tôi cần 
tiếp tục nghiên cứu thêm trên nhiều bệnh nhân 
để xác định khoảng thời gian giảm đau kéo dài 
sau gây tê để không hoặc cho thêm thuốc giảm 
đau sau phẫu thuật ở thời điểm thích hợp. 
Tình trạng thay đổi huyết động sau gây tê 
Trong nghiên cứu này ghi nhận chưa thấy 
trường hợp nào tụt huyết áp sau khi gây tê. 
Điều này khác so với tình trạng tụt huyết áp sau 
gây tê ở người lớn,ở trẻ em ít có tình trạng tụt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 153 
huyết áp sau gây tê do sự chưa trưởng thành 
của hệ thần kinh giao cảm, hoặc do chẹn thần 
kinh giao cảm ít xảy ra vì thể tích dưới cơ hoành 
ở trẻ em nhỏ hơn và kháng lực mạch máu ngoại 
biên thấp hơn nên sự dãn mạch ít quan trọng 
hơn do đó duy trì huyết động ổn định, đây cũng 
là một lợi thế trong phương pháp gây tê này, và 
có thể áp dụng cho những bệnh nhân mà có 
nguy cơ tụt huyết áp nếu dùng liều cao thuốc 
giảm đau tĩnh mạch nhóm á phiện trong và sau 
phẫu thuật, cho dù những bệnh nhân này không 
thể rút nội khí quản sớm sau mổ nhưng yếu tố 
ổn định huyết động trong mổ rất quan trọng 
Tác dụng phụ, tai biến, biến chứng 
Chúng tôi ghi nhận có 7 bệnh nhân bị ói sau 
mổ, ngoài ra chúng tôi chưa ghi nhận tác dụng 
phụ, tai biến, biến chứng do gây tê gây ra trên 
các bệnh nhân này, vì số lượng bệnh nhân còn ít 
nên chưa đánh giá hết được. Các tác giả cũng đã 
chỉ ra các biến chứng do gây tê xương cùng nói 
chung(6,2), các biến chứng do Morphine như ói, 
bí tiểu, ức chế hô hấp, trong phẫu thuật tim hở 
do dùng heparine với lượng lớn cho nên biến 
chứng tụ máu ngoài màng cứng được nhiều tác 
giả nhắc tới (4, 5, 9, 10). Tuy chưa ghi nhận có biến 
chứng nhưng khi thực hiện phương pháp này 
cần lưu ý để có biện pháp phòng ngừa, cần theo 
dõi sát để hạn chế tối thiểu các tai biến, biến 
chứng do gây tê gây ra. 
KẾT LUẬN 
Kết quả bước đầu cho thấy gây tê khoang 
xương cùng bằng Bupivacaine phối hợp 
Morphine sulphate có hiệu quả giảm đau trong 
phẫu thuật tim hở ở trẻ em, giảm tối đa thuốc 
giảm đau tĩnh mạch nhóm opiate, giảm đáng kể 
liều lượng thuốc mê vì thế bệnh nhân có thể rút 
được nội khí quản sớm, thời gian tác dụng giảm 
đau kéo dài do đó có thể giảm được liều lượng 
thuốc á phiện ở hậu phẫu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bệnh Viện Nhi Đồng 1 TP.HCM (2007), Qui trình phẫu thuật tim 
hở. 
2. Boltz MG, Hammer G (2005), "Regional Anesthesia and 
postoperative", Anesthesia for congenital Heart Disease, 17: 283-
291. 
3. Bùi Li Mông (2010), Đặc điểm các trường hợp viêm phổi hậu phẩu 
tim hở tại bệnh viện Nhi Đồng 1, luận văn thạc sỹ, Đại học y dược, 
TP. HCM. 
4. Hammer GB., et al. (2000), "A Retrospective Examination of 
Regional Plus General Anesthesia in Children Undergoing Open 
Heart Surgery", Anesth Analg; 90:1020-1024. 
5. Heinle JS., Diaz LK., Fox LS. (1997), "Early extubation after 
cardiac operations in neonates and young infants", J Thorac 
Cardiovasc Surg,114:413-418. 
6. Keith GA (2003), “Regional anesthesia”, Oxford Handbook Of 
Anaesthesia, Oxford University Press, pp. 789-791. 
7. Mittnacht AJC, Thanjan M, Srivastava S, Joashi U, Bodian C, 
Hossain S, et al (2008), "Extubation in the operating room after 
congenital heart surgery in children", J.Thorac. Cardiovasc. 
Surgery, 136: 88 - 93. 
8. Nguyễn Tấn Phước, Nguyễn Ngọc Cường (2009). Gây tê vùng, 
gây tê khoang xương cùng. Phác Đồ điều trị Nhi Khoa. B IV: 
897-899. 
9. Peterson KL, et al (2000), "A Report of Two Hundred Twenty 
Cases of Regional Anesthesia in Pediatric Cardiac Surgery", 
Anesth Analg, 90:1014-1019 
10. Valley RD., et al (1991), "Caudal morphine for postoperative 
analgesia in infants and children", Anesth Analg,72:120-4. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 buoc_dau_danh_gia_hieu_qua_cua_phoi_hop_gay_te_xuong_cung_ba.pdf buoc_dau_danh_gia_hieu_qua_cua_phoi_hop_gay_te_xuong_cung_ba.pdf