Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có
độ tuổi trung bình là 69 tuổi. So sánh với nghiên
cứu của tác giả Simon Zuber hay của tác giả Sayo
Maki thì đây cũng là độ tuổi hay gặp phải bệnh
ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới [4, 5].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không có bệnh
nhân nào ở giai đoạn T1. Trong khi đó tác giả Simon Zuber thấy có 84,6% bệnh nhân ở giai đoạn
bệnh T1 trong nghiên cứu của ông. Điều này có
thể là do tâm lý chủ quan, ngại đi khám sức khỏe
định kỳ và cũng như sàng lọc yếu tố nguy cơ bệnh
ung thư tuyến tiền liệt ở các bệnh nhân Việt Nam.
Nên nghiên cứu của chúng tôi tất cả bệnh đều ở
giai đoạn T2. Cũng so sánh với nghiên cứu của
tác giả nói trên thì độ mô học Gleason 6 điểm gặp
chủ yếu, trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ bắt
gặp là 75% còn của tác giả Simon Zuber là 98%.
Bệnh ung thư tuyến tiền liệt là một trong các bệnh
ung thư có tốc độ tiến triển chậm, nên khi phát
hiện ra bệnh hầu hết các bệnh nhân toàn trạng
còn khá tốt. Trong nghiên cứu của chúng tôi kết
quả thấy rằng các bệnh nhân đều có thể tự sinh
hoạt cá nhân hàng ngày bình thường.
Thể tích điều trị trung bình của các bệnh nhân
ung thư tuyến tiền liệt được cấy hạt phóng xạ
I-125 tại Bạch Mai là 28,8 ± 2,6cm3. Thể tích này
lớn hơn so với thể tích điều trị trung bình trong
nghiên cứu của tác giả Simon Zuber điều này phù
hợp với bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi ở giai đoạn muộn hơn phần lớn bệnh nhân
trong nghiên cứu của tác giả Simon Zuber [4].
Chúng tôi tiến hành xạ trị cho các bệnh nhân với
kế hoạch liều xạ là 145Gy. Nghiên cứu của tác
giả Simon Zuber có liều xạ trung bình là 185,5 ±
6,7Gy, liều thấp nhất là 159,8Gy. Trước khi tiến
hành nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu
nhiều tài liệu trên thế giới và thấy rằng tùy từng
cơ sở điều trị liều xạ trị cũng khác nhau, nhưng
về hiệu quả lại không có sự khác biệt lớn [5-9].
Chúng tôi quyết định sử dụng liều xạ trị 145Gy
cho các bệnh nhân việc này vẫn đảm bảo hiệu
quả (được thể hiện qua các kết quả theo dõi phía
dưới) mà còn đảm bảo an toàn và tiết kiệm được
chi phí điều trị do tiết kiệm được số hạt cấy, số
kim sử dụng [3,5,6,9].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu đánh giá hiệu quả và tính an toàn phương pháp cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư tuyến tiền liệt tại bệnh viện Bạch Mai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
1Số 65 - Tháng 12/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến tiền liệt là một dạng của ung thư
phát triển trong tuyến tiền liệt, một tuyến trong
hệ sinh dục nam. Ung thư tuyến tiền liệt thường
phát triển chậm, tuy nhiên, có những trường hợp
ung thư di căn sang các bộ phận khác của cơ thể,
đặc biệt là vào xương và các hạch bạch huyết.
Ung thư tuyến tiền liệt có thể gây đau và khó
khăn trong việc đi tiểu, quan hệ tình dục, hoặc
rối loạn chức năng cương dương. Tỷ lệ phát hiện
ung thư tuyến tiền liệt khác nhau đối với các vùng
trên toàn thế giới. Theo GLOBOCAN 2018 ước
tính có tới 1,3 triệu trường hợp mới mắc ung thư
tuyến tiền liệt và 359.000 bệnh nhân tử vong vì
căn bệnh này. Xếp hàng thứ 2 trong các bệnh ung
thư thường gặp và hàng thứ 5 gây tử vong vì ung
thư ở nam giới. Tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt
cao nhất ở Châu Mỹ, Bắc và Tây Âu, Úc và New
Zealand.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tiền
liệt ngày càng tăng và tỷ lệ tử vong cũng rất cao.
Theo dữ liệu GLOBOCAN 2018, hàng năm ước
tính có khoảng 3959 ca mới mắc, nhưng có tới
1873 ca tử vong. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là
8,4/100.000 dân, tỷ lệ chết là 3,7/100.000 dân.
Ung thư tuyến tiền liệt đứng thứ 6 về tỉ lệ mắc.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị ung thư tuyến
tiền liệt tùy thuộc vào giai đoạn bệnh, thang điểm
Gleason, thời gian kỳ vọng sống. Các biện pháp
điều trị bao gồm: Phẫu thuật, xạ trị chiếu ngoài,
cấy hạt phóng xạ, nội tiết, hóa chất. Với các
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng và tính an toàn phương pháp cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư
tuyến tiền liệt tại bệnh viện Bạch Mai.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân (BN) được chẩn đoán xác định là ung thư tuyến tiền liệt
bằng mô bệnh học, giai đoạn T1-2N0M0 được điều trị bằng Phương pháp cấy hạt phóng xạ tại Trung
tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2019.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, hồi cứu kết hợp tiến cứu.
Kết quả nghiên cứu: Kết quả nghiên cứu 08 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được điều trị
cấy hạt phóng xạ I-125. Bệnh giai đoạn T2a chiếm 50%, giai đoạn T2b chiếm 37,5%, giai đoạn T2c
chiếm 12,5%. Liều I-125 điều trị là 145Gy. Kết quả theo dõi sau 03 tháng cho thấy giá trị PSA toàn
phần trung bình giảm từ 25,1±8,9ng/ml xuống còn 1,6±1,2ng/ml; 100% các khối u đáp ứng hoàn toàn
sau điều trị. Không có BN nào có biến chứng trầm trọng.
Kết luận: Phương pháp cấy hạt phóng xạ I-125 là kỹ thuật mới, có hiệu quả điều trị cao, rất ít
biến chứng, là một trong những lựa chọn tốt cho các bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn khu
trú.
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ TÍNH AN TOÀN
PHƯƠNG PHÁP CẤY HẠT PHÓNG XẠ
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
2 Số 65 - Tháng 12/2020
bệnh nhân giai đoan còn sớm (T1,2N0M0), biện
pháp điều trị kinh điển là phẫu thuật. Tuy nhiên
nhược điểm của phương pháp này là có thể gây
ra biến chứng rối loạn chức năng tình dục, làm
ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh.
Phương pháp cấy hạt phóng xạ bằng I-125 là một
kỹ thuật cao, đưa nguồn phóng xạ vào trực tiếp
tổn thương, liều xạ trị sẽ tập trung chủ yếu ở đích
điều trị nên sẽ hạn chế ảnh hưởng tổ chức lành
xung quanh, giảm được tác dụng phụ so với xạ trị
chiếu ngoài, trong khi bảo tồn được tuyến tiền liệt
và có thể giúp tránh được biến chứng tổn thương
thần kinh cương dương. Hiện nay, kỹ thuật này
đã được ứng dụng tại các nước phát triển trong
điều trị ung thư tuyến tiền liệt nguy cơ thấp và
trung bình ở giai đoạn chưa di căn hạch, chưa di
căn xa. Tại Việt Nam, Trung tâm Y học hạt nhân
và ung bướu-Bệnh viện Bạch Mai là nơi đầu tiên
triển khai ứng dụng kỹ thuật này từ năm 2015.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có báo cáo đầy đủ
về hiệu quả và các tác dụng phụ của phương pháp
điều trị của tất cả các bệnh nhân đã thực hiện kỹ
thuật này. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài
này nhằm mục tiêu: Đánh giá đáp ứng và tính an
toàn phương pháp cấy hạt phóng xạ điều trị ung
thư tuyến tiền liệt tại bệnh viện Bạch Mai.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: 08 bệnh nhân được
chẩn đoán xác định là ung thư tuyến tiền liệt bằng
mô bệnh học, giai đoạn T1-2N0M0 được điều trị
bằng phương pháp cấy hạt phóng xạ tại Trung
tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2019.
2.1.2 Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang,
hồi cứu kết hợp tiến cứu.
2.1.3. Quy trình nghiên cứu: Bệnh nhân được
chẩn đoán xác định ung thư tuyến tiền liệt →
Đánh giá bệnh ở giai đoạn T1-T2 theo bảng phân
loại TNM theo UICC (Union for International
Cancer Control), đánh giá độ mô học theo thang
điểm Gleason ≤ 7, đánh giá toàn trạng theo thang
ECOG ở mức 0-1 → Chỉ định cấy hạt phóng xạ
I-125 với kế hoạch xạ trị thỏa mãn khối u chịu liều
điều trị tối thiểu là 145Gy → theo dõi và đánh giá
sau 01, 03, 06 tháng đánh giá đáp ứng theo tiêu
chuẩn RECIST (xét nghiệm công thức máu, sinh
hóa máu, đông máu cơ bản, chỉ điểm khối u PSA
toàn phần/tự do, chụp MRI tiểu khung).
2.1.4. Quy trình cấy hạt phóng xạ I-125:
* Chuẩn bị bệnh nhân trước điều trị:
- Bệnh nhân được thực hiện các xét nghiệm đánh
giá tình trạng khối u cũng như đánh giá tình trạng
toàn thân.
- Bác sỹ y học hạt nhân, bác sỹ xạ trị ung thư,
bác sỹ gây mê khám bệnh nhân và kết luận: bệnh
nhân có chỉ định điều trị bằng phương pháp cấy
hạt phóng xạ.
- Bệnh nhân và gia đình bệnh nhân được giải
thích kỹ về tình trạng bệnh, quy trình điều trị và
thời gian điều trị, tiên lượng.
- Tối trước ngày làm thủ thuật ăn nhẹ và sử dụng
thuốc thụt tháo theo hướng dẫn.
- Không ăn hay uống bất kỳ thứ gì sau 12 giờ đêm
trước ngày thực hiện thủ thuật.
- Sáng hôm làm thủ thuật: không ăn sáng.
- BN có thể uống thuốc nhưng chỉ dùng một vài
ngụm nước.
* Tính liều phóng xạ I-125 điều trị:
- Liều xạ đối với thể tích lập kế hoạch PTV: 108-
110 Gy
- Mục tiêu kế hoạch xạ trị:
Thể tích đích lâm sàng (Clinical Target Volume,
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
3Số 65 - Tháng 12/2020
CTV):
+ V100CTV (tỷ lệ phần trăm thể tích
CTV nhận được liều điều trị) ≥ 95%
+ V150CTV (tỷ lệ phần trăm thể tích
CTV nhận được 150% liều điều trị) ≤ 50%
+ D90CTV (liều bao phủ trên 90% thể
tích CTV) > liều chỉ định
Trực tràng:
+ D2ccrectum (liều tối thiểu trong 2 mm3
thể tích trực tràng bị chiếu xạ) < liều chỉ định
+ D0.1ccrectum (liều tối thiểu trong 0,1
mm3 thể tích trực tràng bị chiếu xạ) < 200Gy
Niệu đạo:
+ D10%urethra (liều tối thiểu trong 10%
niệu đạo đoạn tiền liệt) < 150% liều chỉ định
+ D30%urethra (liều tối thiểu trong 10%
niệu đạo đoạn tiền liệt) < 130% liều chỉ định
* Tiến hành điều trị: Cấy hạt I-125 được thực
hiện trong phòng mổ đảm bảo yêu cầu nghiêm
ngặt về chống nhiễm khuẩn.
- Vệ sinh sạch sẽ da vùng tầng sinh môn.
- Kiểm tra lại ống hậu môn, thụt tháo sạch đại
trực tràng lần nữa (nếu cần).
- Bác sỹ gây tê/gây mê thăm khám trước thủ thuật.
- Đo rà ô nhiễm phóng xạ trước cấy hạt.
- Gây mê (hoặc gây tê tùy từng bệnh nhân cụ thể).
- Cấy hạt phóng xạ dưới hướng dẫn của siêu âm
đầu dò đặt tại trực tràng: Xác định vị trí, ranh
giới, hình dạng, thể tích u. Sau đó cấy hạt I-125
theo đúng vị trí đã lập kế hoạch trước đó.
- Kiểm tra lại vị trí hạt bằng siêu âm ngay sau cấy
hạt cuối cùng khi đầu dò siêu âm vẫn trong trực
tràng.
- Chụp X-quang kiểm tra vị trí hạt I-125 đã cấy
ngay tại phòng mổ.
- Bệnh nhân được soi bàng quang kiểm tra sau
cấy hạt.
- Đo rà ô nhiễm phóng xạ.
* Xử lý số liệu: Theo chương trình SPSS 15.0.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
4 Số 65 - Tháng 12/2020
2.2. Kết quả nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân
Nhận xét: Trong số 08 bệnh nhân độ tuổi trung
bình là 68,5, tuổi thấp nhất 54, tuổi cao nhất
80. Không bệnh nhân nào trong số này có tiền
sử từng xạ trị trước đây. Chiếm đa số các bệnh
nhân bệnh ở giai đoạn T2a, bệnh ở giai đoạn
T2b chiếm 37,5%, bệnh ở giai đoạn T2c chiếm
12,5%. Có 87,5% bệnh nhân toàn trạng tốt, chỉ
12,5% bệnh nhân chỉ số toàn trạng ở mức ECOG
1. Sau khi sinh thiết u tuyến tiền liệt thì 75% bệnh
nhân điểm Gleason là 6, còn 25% bệnh nhân có
điểm Gleason là 7.
Bảng 2: Các chỉ số xét nghiệm và các thông số
trước điều trị I-125
Nhận xét: Thể tích tuyến tiền liệt điều trị trung
bình là 28,8cm3, số hạt đã cấy trung bình 63,6
hạt, số kim đã dùng trung bình 20,6 kim.
Bảng 3: So sánh kết quả PSA tự do/toàn phần
trước và sau điều trị
Nhận xét: trước điều trị có 7 bệnh nhân có chỉ số
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
5Số 65 - Tháng 12/2020
PSA tăng với giá trị trung bình là 25,8 ng/ml; sau
điều trị 3 tháng giảm còn 1,7ng/ml.
Bảng 4: Tác dụng phụ sau điều trị (n=10)
Nhận xét: Trong quá trình điều trị không xảy ra
biến chứng ở bất kỳ bệnh nhân nào.
2.3. Bàn luận
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có
độ tuổi trung bình là 69 tuổi. So sánh với nghiên
cứu của tác giả Simon Zuber hay của tác giả Sayo
Maki thì đây cũng là độ tuổi hay gặp phải bệnh
ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới [4, 5].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không có bệnh
nhân nào ở giai đoạn T1. Trong khi đó tác giả Si-
mon Zuber thấy có 84,6% bệnh nhân ở giai đoạn
bệnh T1 trong nghiên cứu của ông. Điều này có
thể là do tâm lý chủ quan, ngại đi khám sức khỏe
định kỳ và cũng như sàng lọc yếu tố nguy cơ bệnh
ung thư tuyến tiền liệt ở các bệnh nhân Việt Nam.
Nên nghiên cứu của chúng tôi tất cả bệnh đều ở
giai đoạn T2. Cũng so sánh với nghiên cứu của
tác giả nói trên thì độ mô học Gleason 6 điểm gặp
chủ yếu, trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ bắt
gặp là 75% còn của tác giả Simon Zuber là 98%.
Bệnh ung thư tuyến tiền liệt là một trong các bệnh
ung thư có tốc độ tiến triển chậm, nên khi phát
hiện ra bệnh hầu hết các bệnh nhân toàn trạng
còn khá tốt. Trong nghiên cứu của chúng tôi kết
quả thấy rằng các bệnh nhân đều có thể tự sinh
hoạt cá nhân hàng ngày bình thường.
Thể tích điều trị trung bình của các bệnh nhân
ung thư tuyến tiền liệt được cấy hạt phóng xạ
I-125 tại Bạch Mai là 28,8 ± 2,6cm3. Thể tích này
lớn hơn so với thể tích điều trị trung bình trong
nghiên cứu của tác giả Simon Zuber điều này phù
hợp với bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi ở giai đoạn muộn hơn phần lớn bệnh nhân
trong nghiên cứu của tác giả Simon Zuber [4].
Chúng tôi tiến hành xạ trị cho các bệnh nhân với
kế hoạch liều xạ là 145Gy. Nghiên cứu của tác
giả Simon Zuber có liều xạ trung bình là 185,5 ±
6,7Gy, liều thấp nhất là 159,8Gy. Trước khi tiến
hành nghiên cứu này, chúng tôi đã nghiên cứu
nhiều tài liệu trên thế giới và thấy rằng tùy từng
cơ sở điều trị liều xạ trị cũng khác nhau, nhưng
về hiệu quả lại không có sự khác biệt lớn [5-9].
Chúng tôi quyết định sử dụng liều xạ trị 145Gy
cho các bệnh nhân việc này vẫn đảm bảo hiệu
quả (được thể hiện qua các kết quả theo dõi phía
dưới) mà còn đảm bảo an toàn và tiết kiệm được
chi phí điều trị do tiết kiệm được số hạt cấy, số
kim sử dụng [3,5,6,9].
Khi so sánh kết quả xét nghiệm sau 3 tháng điều
trị với kết quả ban đầu cho thấy, 87,5% bệnh nhân
ung thư ung thư tuyến tiền liệt có chỉ số PSA cao
trước điều trị nhưng sau điều trị cấy hạt phóng
xạ đã giảm. Chỉ số PSA tự do/toàn phần trung
bình trước điều trị là (25,1 ± 8,9)/(4,4 ± 1,8)ng/
ml sau 3 tháng điều trị đã giảm xuống (1,6 ± 1,2)/
(0,3 ± 0,4)ng/ml. Còn với 01 bệnh nhân chỉ số
PSA không tăng trước điều trị chúng tôi đánh giá
đáp ứng điều trị qua chụp phim MRI tiểu khung
sau điều trị thấy rằng bệnh đáp ứng hoàn toàn
với liệu pháp cấy hạt phóng xạ. Tuy nhiên vì số
lượng bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi còn
ít nên kết quả ban đầu này có thể không hoàn
toàn chính xác để phản ánh hiệu quả của phương
pháp điều trị cấy hạt phóng xạ I-125. Nhưng các
nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy tỉ lệ đáp
ứng hoàn toàn là trên 80%, mặt khác tỉ lệ sống 5
năm không bệnh khoảng 80% bệnh nhân [4-9].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, quá trình điều
trị nội viện khi cấy hạt phóng xạ I-125 không xảy
ra biến chứng ở bất kỳ bệnh nhân nào. Không
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
6 Số 65 - Tháng 12/2020
những vậy, đánh giá sau điều trị 3 tháng các triệu
chứng lâm sàng của 8 bệnh nhân (tiểu buốt, tiểu
dắt) đều cải thiện đáng kể.
3. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu 08 bệnh nhân ung thư tuyến
tiền liệt được điều trị cấy hạt phóng xạ I-125.
Bệnh giai đoạn T2a chiếm 50%, giai đoạn T2b
chiếm 37,5%, giai đoạn T2c chiếm 12,5%. Liều
I-125 điều trị là 145Gy. Kết quả theo dõi sau 03
tháng cho thấy giá trị PSA toàn phần trung bình
giảm từ 25,1 ± 8,9ng/ml xuống còn 1,6 ± 1,2ng/
ml; 100% các khối u đáp ứng hoàn toàn sau điều
trị. Không có bệnh nhân nào có biến chứng trầm
trọng.
Bước đầu đánh giá đây là một phương pháp điều
trị có hiệu quả cao, an toàn và đảm bảo chất lượng
cuộc sống tốt cho các bệnh nhân ung thư tuyến
tiền liệt khi được điều trị bằng phương pháp này.
Mai Trọng Khoa, Nguyễn Duy Anh,
Phạm Văn Thái và cộng sự
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu,
Bệnh viện Bạch Mai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lương Ngọc Khuê, Mai Trọng Khoa (2020).
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh
ung bướu, nhà xuất bản Y Học.
[2] Mai Trọng Khoa và cộng sự (2012), Y học hạt
nhân (Sách dùng cho sau đại học), nhà xuất bản
Y học.
[3] Nguyễn Bá Đức (2010). Hướng dẫn thực hành
chẩn đoán bệnh ung thư, chẩn đoán và điều trị
ung thư tiền liệt tuyến, nhà xuất bản Y học.
[4] ACR-ASTRO (2010). Practice Guideline
for transperineal permanent brachytherapy of
prostate cancer. American College of Radiology,
American Society of Therapeutic Radiology and
Oncology, American Brachytherapy Society Res-
olution.
[5] David M. Routman, Ryan K. Funk, Bradley J.
Stish, et al (2019). “Permanent prostate brachy-
therapy monotherapy with I-125 for low- and in-
termediate-risk prostate cancer: Outcomes in 974
patients”, Brachytherapy, 18 (1), 1-7, 2019.
[6] Jemery L. Millar, Bronwyn Matheson, Ben
Hindson, et al (2013). “Disease-Control outcome
of permanent Iodine-125 seed implantation for
prostate cancer at a single Australian institution”,
Brachytherapy, 12 (1), S13-S14, 2013.
[7] Peter D. Dickinson, Jahangeer Malik, Paula
Mandall, et al (2014). “Five-year outcomes after
iodine-125 seed brachytherapy for low-risk pros-
tate cancer at three cancer centres in the UK”, BJU
International, 113, 748-753, 2014.
[8] Peschel RE, Colberg JW, Chen Z (2004), “Io-
dine 125 versus palladium 103 implants for pros-
tate cancer: clinical outcomes and complications”,
Cancer J, 10 (3), 170-174, 2004.
[9] Sayo Maki, Yoshiyuki Itoh, Seiji Kubota, et al
(2017) “Clinical outcome of 125I brachytherapy
with and without external-beam radiation thera-
py for localized prostate cancer: results from 300
patients at a single institution in Japan”, Journal of
Radiation Research, 58 (6), 870-880, 2017.
[10] Simon Zuber, Susan Wei, Dieter Baaske, et al
(2015). “Iodine-125 seed brachytherapy for early
stage prostate cancer: a single-institution review”,
Radiation Oncology, 2015.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
buoc_dau_danh_gia_hieu_qua_va_tinh_an_toan_phuong_phap_cay_h.pdf