- Các sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ
khoa học Quốc hội Liên bang CHLB Đức
do chuyên viên chịu trách nhiệm cung cấp
tự do cho nghị sĩ (trừ các ý kiến về một số
vấn đề nhạy cảm về chính trị, ví dụ như vấn
đề dự thảo luật có liên quan đến Hiến pháp
thì lãnh đạo trực tiếp của Cơ quan Dịch vụ
khoa học chịu trách nhiệm xem trước). Ở
Việt Nam, các sản phẩm này phải do Tổng
Thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm VPQH
quyết định trước khi cung cấp cho ĐBQH
tại Kỳ họp Quốc hội18 hoặc tất cả các sản
phẩm của Viện Nghiên cứu Lập pháp phải
do Viện trưởng duyệt trước khi cung cấp cho
các ĐBQH (ngoài kỳ họp Quốc hội).
- Mọi sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ
khoa học của Quốc hội Liên bang CHLB
Đức đều được công khai trên mạng của
Quốc hội. Ở Việt Nam, các sản phẩm nghiên
cứu của Viện Nghiên cứu Lập pháp được
đăng tải trên Trang thông tin điện tử của
Viện; Tổng thư ký Quốc hội quyết định các
thông tin, tài liệu kỳ họp được đăng tải trên
Cổng thông tin điện tử của Quốc hội19.
- Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang CHLB Đức có Bản thông tin
khoa học, nhưng không xuất bản tạp chí
nghiên cứu lập pháp. Bản tin này cũng giống
như tạp chí chuyên môn, có một Ban biên
tập bản tin (gồm mười người đến từ mười
đơn vị trong Cơ quan này). Viện Nghiên
cứu Lập pháp của UBTVQH Việt Nam có
một Bản tin Thông tin Khoa học lập pháp và
xuất bản Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. Bản
tin Thông tin Khoa học lập pháp của Viện
Nghiên cứu Lập pháp cung cấp thông tin về
hoạt động của Viện, các bài viết tóm tắt kết
quả nghiên cứu khoa học của các cơ quan
của Quốc hội, Ban Công tác đại biểu, Ban
Dân nguyện, Viện Nghiên cứu Lập pháp của
UBTVQH và VPQH. Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp thực hiện rất đa dạng nhiệm vụ
thông tin lập pháp, công bố kết quả nghiên
cứu khoa học, tư vấn chính sách cho Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và
các cơ quan Nhà nước khác; là một diễn đàn
quan trọng về Nhà nước, Pháp luật và Chính
sách. Bên cạnh đó, VPQH cũng có các Bản
tin cung cấp thông tin phục vụ cho những
nội dung cụ thể.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các cơ quan cung cấp thông tin lập pháp cho quốc hội cộng hòa Liên Bang Đức và quốc hội Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Quốc hội Liên bang Cộng hòa Liên bang Đức và Quốc hội Việt Nam
đều có các cơ quan giúp việc làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, báo
chí, xuất bản, thư viện, bảo tàng, ứng dụng công nghệ thông tin, tư vấn,
dịch vụ khoa học, nghiên cứu và tổ chức thông tin khoa học lập pháp...
Bài viết giới thiệu và so sánh chức năng nhiệm vụ, cách thức thực hiện
nhiệm vụ của các cơ quan này của Quốc hội Liên bang Cộng hòa Liên
bang Đức và Quốc hội Việt Nam.
Lê Minh Hồng*
Nguyễn Hoàng Thanh**
Abstract:
Both the National Parliament of the Federal Republic of Germany and
the National Assembly of Vietnam have established supporting entities
for papers, publications, libraries and museums, the application of
information technology, the arrangement of legislative scientific
information and technical supports. This article provides introduction
and comparison of the functions, mandates and performance of these
entities under the National Parliament of the Federal Republic of
Germany and the National Assembly of Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: nghiên cứu, cung cấp
thông tin, dịch vụ tư vấn khoa học,
Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang, Tổng Thư ký Quốc
hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc
hội, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 14/07/2017
Biên tập: 21/07/2017
Duyệt bài: 25/07/2017
Article Infomation:
Keywords: studies, information
provision, scientific advisory
services, Scientific Service Agency
of the National Parliament, Secretary
General of the National Assembly,
the Office of the National Assembly,
Institute for Legislative Studies.
Article History:
Received: 14 Jul. 2017
Edited: 21 Jul. 2017
Appproved: 25 Jul. 2017
* TS, Viện Nghiên cứu Lập pháp
** TS, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
CÁC CƠ QUAN CUNG CẤP THÔNG TIN LẬP PHÁP CHO
QUỐC HỘI CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC VÀ QUỐC HỘI VIỆT NAM
1. Cơ quan cung cấp thông tin lập pháp
của Quốc hội Liên bang Đức
Nhà nước Cộng hoà Liên bang
(CHLB) Đức là nhà nước theo mô hình nhà
nước Liên bang gồm ba nhánh quyền lực
hoạt động độc lập: lập pháp, hành pháp, tư
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 15(343) T8/2017
pháp được quy định theo Luật Cơ bản (Hiến
pháp) năm 1949 (sửa đổi ngày 23/10/2014).
Cơ quan lập pháp ở cấp Liên bang bao gồm
Quốc hội Liên bang (Federal Parliament) và
Hội đồng Liên bang (Federal Council).
Ở cấp Liên bang, Quốc hội Liên bang
Đức là một trong số các chủ thể tham gia
vào quy trình lập pháp gồm: Quốc hội Liên
bang, Hội đồng Liên bang, Chính phủ Liên
bang (Nội các, đứng đầu là Thủ tướng),
Tổng thống CHLB (vai trò Nguyên thủ quốc
gia, ký ban hành luật).
Quốc hội Liên bang (Bundestag) còn
gọi là Viện Dân biểu. Quốc hội Liên bang là
cơ quan lập hiến và lập pháp tại Đức. Quốc
hội Liên bang được lập theo Hiến pháp
Đức năm 1949, là cơ quan kế nhiệm của
Reichstag (Hạ viện Cộng hòa Weimar). Quốc
hội Liên bang có nhiệm kỳ 4 năm hoặc kết
thúc nhiệm kỳ sớm nếu Thủ tướng bị thua
trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm, yêu
cầu Tổng thống giải tán Bundestag và tổ
chức một cuộc bầu cử mới. Quốc hội Liên
bang được bầu theo nguyên tắc phổ thông,
trực tiếp, tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín1.
Quốc hội Liên bang là đại diện của nhân
dân. Thông thường, một nửa thành viên của
Quốc hội Liên bang (299 đại biểu) được bầu
trực tiếp tại 299 khu vực bầu cử của 16 bang
(lá phiếu thứ nhất), nửa còn lại được bầu
theo danh sách ứng viên các Đảng tại các
bang (lá phiếu thứ hai). Các Đảng phải có
trên 5% số phiếu bầu mới được tham gia vào
Quốc hội Liên bang, hoặc có ít nhất 3 người
được bầu trực tiếp, tránh tình trạng Quốc hội
bị phân chia thành nhiều nhóm nhỏ.
Quốc hội Liên bang gồm ít nhất 598
Nghị sĩ2, hiện nay có 630 Nghị sĩ3. Các nghị
sĩ mới trúng cử và tái cử nhóm họp vài ngày
sau bầu cử tại Berlin để thành lập các Nhóm
1 Điều 38 và Điều 39 Hiến pháp Đức (Luật Cơ bản) năm 1949, sửa đổi năm 2014.
2 Mục 1 Luật Bầu cử Liên bang.
3 The Parliament of the Federal Republic of Germany. https://www.bundestag.de
4 Susanne Linn – Frank Sobolewski (2015). The German Bundestag Functions and procedures – Organisation and work-
ing methods The legislation of the Federation. 18th Electoral Term. Kürschners Politikkontakte. 2015. pag.17.
nghị sĩ, theo Quy tắc thủ tục của Quốc hội
Liên bang, một Nhóm nghị sĩ được thành lập
theo điều kiện sau: một là, ít nhất phải đạt
5% tổng số nghị sĩ Quốc hội; hai là, thành
viên Nhóm nghị sĩ phải cùng đảng phái hoặc
thuộc đảng phái có cùng mục tiêu chính trị
và không đối lập với nghị sĩ của bất kỳ một
bang nào trong 16 bang. Các Nhóm nghị sĩ
đôi khi được hiểu là “các đảng phái trong
Quốc hội” và họ là các tổ chức qua đó các
mục tiêu chính trị, các sáng kiến được thực
hiện và theo đuổi một cách cụ thể và họ
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
Quốc hội4. Số lượng các Ủy ban thường trực
đã thay đổi qua thời gian, hiện có 23 Ủy ban.
Quốc hội Liên bang CHLB Đức thành
lập Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc hội
Liên bang để nghiên cứu, cung cấp thông
tin, dịch vụ tư vấn khoa học cho Quốc hội
Liên bang, các Ủy ban thường trực, các nghị
sĩ Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang có 90 người, bao gồm các
nhà chính trị, luật gia, nhà khoa học, nhà
sử học không theo đảng phái nào, không
làm việc cho đảng phái nào. Cơ quan có 11
đơn vị chuyên môn, bao gồm: WD1 (Lịch
sử, lịch sử đương đại và chính trị); WD2
(Ngoại giao, luật pháp quốc tế, hợp tác kinh
tế và phát triển, quốc phòng, nhân quyền và
viện trợ nhân đạo); WD 3 (Luật Hiến pháp
và Hành chính Công); WD4 (Ngân sách -
Tài chính); WD5 (Kinh tế và Công nghệ,
Thực phẩm, Nông nghiệp và Bảo vệ Người
tiêu dùng, Du lịch); WD6 (Lao động và Xã
hội); WD7 (Luật Dân sự, Hình sự và tố tụng,
Luật Bảo vệ Môi trường, Giao thông vận
tải, Xây dựng và Phát triển Đô thị); WD8
(Môi trường, Bảo tồn thiên nhiên và An toàn
Hạt nhân, Giáo dục và Nghiên cứu); WD9
(Y tế, gia đình, người cao tuổi, phụ nữ và
thanh niên); WD10 (Văn hoá, Truyền thông
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 15(343) T8/2017
và Thể thao); PE6 (Các vấn đề Châu Âu)5.
Hoạt động của Cơ quan Dịch vụ khoa học
Quốc hội liên bang bảo đảm các yêu cầu sau
đây: Các sản phẩm được trình bày phù hợp
với mục đích của Quốc hội; bảo đảm tính
liên ngành; tính trung lập chính trị; tính bảo
mật (đối với nghị sĩ đặt câu hỏi); tóm tắt chủ
động tình hình những năm gần đây.
Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang có các nhiệm vụ: (1) Nghiên
cứu, cung cấp thông tin, dịch vụ tư vấn
khoa học cho Quốc hội Liên bang, các Ủy
ban thường trực của Quốc hội Liên bang,
các nghị sĩ, hỗ trợ các nghị sĩ trong các lĩnh
vực hoạt động của Quốc hội Liên bang, bình
luận khoa học về các vấn đề Quốc hội Liên
bang xem xét, thảo luận; (2) Hỗ trợ các nghị
sĩ trong việc giám sát thi hành Hiến pháp
(trong nhiệm vụ giám sát thi hành Hiến pháp
thì tư vấn khoa học là “tai và mắt” của nghị
sĩ); (3) Trả lời các câu hỏi của các nghị sĩ
(trung bình có 1.800 câu hỏi/năm), từ năm
1970 đến nay càng ngày càng có nhiều nghị
sĩ sử dụng dịch vụ nghiên cứu khoa học của
Cơ quan Dịch vụ khoa học; (4) Tư vấn cho
các nghị sĩ về các vấn đề liên quan đến Dự
thảo luật mà Quốc hội Liên bang đang xem
xét, ví dụ Dự thảo luật có thuộc thẩm quyền
xem xét của Liên bang hay không? có tương
thích với Hiến pháp Đức hay pháp luật của
Liên minh châu Âu hay không6? Mục đích,
tính khả thi của dự thảo luật có thể đạt được
không? So sách xem Dự thảo luật có tương
tự pháp luật của các quốc gia khác hay
không?...
Các sản phẩm chính của Cơ quan Dịch
vụ khoa học của Quốc hội Liên bang bao
gồm: Một là, Bản giám định/ý kiến tư vấn về
dự thảo luật hay một vấn đề Quốc hội Liên
bang xem xét do các nghị sĩ yêu cầu: Các sản
phẩm của Cơ quan Dịch vụ khoa học Quốc
5 Deutscher Bundestag, Berlin (February 2015). The Research Services / Hotline W. Published by: German Bundestag,
Public Relations Division.
6 Cơ quan Dịch vụ khoa học Quốc hội Liên bang Đức có mối quan hệ hợp tác với các thành viên của Trung tâm Nghiên
cứu và Tài liệu của Nghị viện châu Âu - European Centre for Parliamentary Research and Documentation (ECPRD) để
trao đổi thông tin, so sánh dự thảo luật đang được Quốc hội Liên bang Đức xem xét với pháp luật Liên minh châu Âu.
hội Liên bang được coi là các bản ý kiến
mang tính giám định, thường được đánh giá
cao trong các Ủy ban thường trực của Quốc
hội Liên bang, nhất là những ý kiến về tính
hợp hiến của Dự thảo luật. Các nghị sĩ cũng
thường tham khảo ý kiến của Cơ quan này
để soạn thảo ra các Đơn kiến nghị sửa đổi dự
thảo luật. Bản tư vấn khoa học này khoảng
mười trang, gồm tóm tắt tình hình, tổng
quan các nguồn thông tin tham khảo, ý kiến
tư vấn. Hai là, Báo cáo nghiên cứu ngắn do
Cơ quan Dịch vụ khoa học tự đưa ra: Cơ
quan Dịch vụ khoa học cũng tự nghiên cứu
và đưa ra các bản thông tin ngắn khoảng hai
trang bắt nguồn từ các lĩnh vực chuyên môn,
ví dụ như vấn đề thay đổi quy định của Hiến
pháp về việc tài trợ cho các đảng phái. Ba
là, Bản thông tin khoa học: Cơ quan Dịch vụ
khoa học không chủ động xuất bản tạp chí
nghiên cứu lập pháp mà đưa ra bản tin cũng
giống như tạp chí chuyên môn, có một Ban
biên tập bản tin này gồm mười người đến từ
mười đơn vị trong Cơ quan này.
Các sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ
khoa học do chuyên viên chịu trách nhiệm
cung cấp tự do cho nghị sĩ (trừ các ý kiến
về một số vấn đề nhạy cảm về chính trị, ví
dụ như vấn đề dự thảo luật có liên quan đến
Hiến pháp thì lãnh đạo trực tiếp của Cơ quan
Dịch vụ khoa học chịu trách nhiệm xem
trước). Từ năm 2016 đến nay, mọi sản phẩm
của Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang đều được công khai trên mạng
của Quốc hội.
2. Các cơ quan cung cấp thông tin lập
pháp cho Quốc hội Việt Nam
Theo Điều 69, Điều 70 Hiến pháp năm
2013, “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 15(343) T8/2017
lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Như
vậy, ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và giám sát tối cao đối với hoạt động
của Nhà nước. Để thực hiện các quyền, các
chức năng, nhiệm vụ này, Quốc hội nước ta
có nhiều cơ quan giúp việc, như Ban Công
tác đại biểu, Ban Dân nguyện, Viện Nghiên
cứu Lập pháp của Ủy ban thường vụ Quốc
hội (UBTVQH); và Văn phòng Quốc hội
- VPQH (gồm cả các Văn phòng Đoàn đại
biểu Quốc hội (ĐBQH) ở địa phương7)
Đối với việc cung cấp thông tin cho các hoạt
động của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013,
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND
năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015, Nội quy kỳ họp8,... đã
có những quy định liên quan đến việc cung
cấp thông tin cho Quốc hội và ĐBQH.
Về quyền được cung cấp thông tin của
ĐBQH, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014
quy định tại Điều 35 (quyền yêu cầu cung
cấp thông tin của ĐBQH) như sau: “Khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu,
ĐBQH có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan
đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
đó” (Khoản 1).
Chủ thể được giao nhiệm vụ cung cấp
thông tin cho các hoạt động của Quốc hội
7 Nghị quyết số 1097/2015/UBTVQH13 ngày 22/12/2015 thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của
Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trước tháng 12 năm 2015 là Văn phòng Đoàn ĐBQH
và Hội dồng nhân dân trực thuộc HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
8 Nghị quyết số 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015 Ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội.
9 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định tại Điều 99. VPQH: “2. Tổng Thư ký Quốc hội đồng thời là Chủ nhiệm
VPQH, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và UBTVQH về hoạt động của VPQH.”
10 Được thành lập từ năm 2003 theo Nghị quyết số 368/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 về việc thành lập Ban
Công tác đại biểu.
11 Được thành lập từ năm 2003 theo Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 về việc thành lập Ban
Dân nguyện thuộc UBTVQH, đã được sửa đổi, bổ sung Điều 2 theo Nghị quyết số 695/2008/NQ-UBTVQH12 ngày
15/10/2008.
12 Được thành lập từ năm 2008 theo Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12 ngày 29/4/2008 về việc thành lập Viện Nghiên
cứu Lập pháp.
được quy định tại các Điều 98, 99 và 100
của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, như
sau:
Điều 98 (về Tổng thư ký Quốc hội)9
quy định Tổng thư ký Quốc hội “Là người
phát ngôn của Quốc hội, UBTVQH; tổ chức
công tác cung cấp thông tin, báo chí, xuất
bản, thư viện, bảo tàng, ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH” (điểm
c Khoản 1);
Điều 99 (về VPQH) quy định VPQH
“Chịu trách nhiệm bảo đảm cơ sở vật chất
và các điều kiện khác cho hoạt động của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Văn
phòng Đoàn ĐBQH, ĐBQH; tạo điều kiện
cho ĐBQH trong việc trình dự án luật, pháp
lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh”, bao gồm
cả việc cung cấp thông tin (điểm d Khoản 1).
Bên cạnh đó, khi quy định chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thuộc
UBTVQH, Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014 quy định tại Điều 100 (về Các cơ quan
thuộc UBTVQH) như sau “UBTVQH thành
lập các cơ quan thuộc UBTVQH để tham
mưu, giúp UBTVQH về các lĩnh vực công
việc cụ thể” (Khoản 1). Và từ quy định tại
Điều 100 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014,
UBTVQH đã quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ba cơ
quan chuyên môn là Ban Công tác đại biểu10,
Ban Dân nguyện11 và Viện Nghiên cứu Lập
pháp12. Trong đó: Điều 1 Nghị quyết số
368/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 15(343) T8/2017
của UBTVQH quy định “Ban Công tác
đại biểu là cơ quan chuyên môn trực thuộc
UBTVQH, có trách nhiệm giúp UBTVQH
về công tác đại biểu”; Điều 1 Nghị quyết
số 1156/2016/UBTVQH13 ngày 17/3/2016
quy định “Ban Dân nguyện là cơ quan thuộc
UBTVQH, có chức năng tham mưu, giúp
UBTVQH về công tác dân nguyện” và Điều
1 Nghị quyết số 1050/2015/UBTVQH13
ngày 09/10/2015 quy định “Viện Nghiên
cứu Lập pháp là cơ quan thuộc UBTVQH
có chức năng nghiên cứu khoa học lập pháp,
tổ chức thông tin khoa học lập pháp để tham
mưu chính sách, tư vấn, hỗ trợ, phục vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ
quan thuộc UBTVQH và ĐBQH trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Quốc hội; giúp UBTVQH quản lý hoạt
động nghiên cứu khoa học trong các cơ quan
của Quốc hội, các cơ quan thuộc UBTVQH
và VPQH”.
Như vậy, theo quy định tại Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014, các chủ thể có
quyền và trách nhiệm cung cấp thông tin cho
các hoạt động của Quốc hội bao gồm:
- Tổng Thư ký Quốc hội;
- VPQH do Tổng Thư ký Quốc hội là
Chủ nhiệm và các Văn phòng Đoàn ĐBQH
(nay cũng đã trực thuộc VPQH);
- Viện Nghiên cứu Lập pháp thuộc
UBTVQH.
Trước đó, theo Nghị quyết số 417/2003/
NQ-UBTVQH11 ngày 01/10/2003 của
UBTVQH về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của VPQH, VPQH
là cơ quan giúp việc của Quốc hội, có chức
năng nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ
13 Nghị quyết số 02-NQ/UBTVQH9 ngày 17/10/1992 về tổ chức nhiệm vụ của VPQH quy định “VPQH là cơ quan giúp
việc của Quốc hội, có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội,
UBTVQH, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội” (Điều
1).
14 Điều 90 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, VPQH, Văn phòng Đoàn ĐBQH, Văn phòng HĐND cấp tỉnh, Văn phòng HĐND và Ủy ban nhân dân cấp
huyện và bộ phận phục vụ HĐND cấp xã có trách nhiệm bảo đảm điều kiện vật chất, tổ chức phục vụ hoạt động giám
sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH, HĐND, Thường trực
HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND” (Khoản 2).
chức phục vụ các hoạt động của Quốc hội,
UBTVQH, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ
tịch Quốc hội; các hoạt động của Hội đồng
Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (Điều 1)13.
Trong đó, Trung tâm Thông tin, Thư viện
và Nghiên cứu khoa học được giao là đơn
vị đầu mối cung cấp thông tin tham khảo
phục vụ hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và ĐBQH. Quyết định
của Chủ nhiệm VPQH về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy của Trung tâm này ghi
rõ nhiệm vụ: “Tổ chức các hoạt động thông
tin phục vụ Quốc hội, các ĐBQH, các cơ
quan của Quốc hội; tổ chức việc biên soạn,
biên dịch và cung cấp thông tin tham khảo,
thông tin chuyên đề, tổ chức dịch vụ thông
tin hỏi - đáp phục vụ công tác lập pháp và
các hoạt động khác của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và VPQH”. Hiện nay,
Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên
cứu khoa học đã được tách thành hai đơn vị
là Vụ Thông tin và Thư viện Quốc hội đều
thực hiện chức năng cung cấp thông tin, tài
liệu cho các hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và ĐBQH. Điều 47 Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003
quy định trách nhiệm của VPQH, Văn phòng
giúp việc Đoàn ĐBQH như sau: “Trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình,
VPQH, Văn phòng giúp việc Đoàn ĐBQH
có trách nhiệm bảo đảm điều kiện vật chất
và cung cấp thông tin, tư liệu cần thiết, tổ
chức phục vụ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH thực hiện
các hoạt động giám sát”14.
Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 15(343) T8/2017
XIII, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
27 NQ/2012/QH13, trong đó quy định rõ:
“Khi ĐBQH có đề nghị, kiến nghị về luật,
pháp lệnh, Viện Nghiên cứu Lập pháp của
UBTVQH, VPQH, Văn phòng Đoàn ĐBQH
và Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tư
vấn, hỗ trợ ĐBQH trong việc lập, hoàn thiện
hồ sơ theo quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để trình UBTVQH,
Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình”.
Ngày 29/4/2008, UBTVQH có Nghị
quyết số 614/2008/UBTVQH12 thành lập
Viện Nghiên cứu Lập pháp, cơ quan thuộc
UBTVQH, có chức năng nghiên cứu những
vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của Quốc hội; tổ chức thông tin khoa
học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và ĐBQH. Một trong những nhiệm
vụ đó đã được ghi trong khoản 3 Điều 2 của
Nghị quyết là: “Xây dựng cơ sở dữ liệu
thông tin khoa học liên quan đến việc thực
hiện chức năng của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội và ĐBQH; thực hiện và phối
hợp thực hiện việc phổ biến, ứng dụng kết
quả, nghiên cứu hỗ trợ hoạt động của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH; là
đầu mối trong việc thu thập, chọn lọc, phổ
biến, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học
của các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài
nước phục vụ cho việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Quốc hội”15.
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
này, Viện Nghiên cứu Lập pháp đã triển khai
các hoạt động nghiên cứu khoa học, công
tác cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu thông tin và đã trở thành một chủ
thể cung cấp thông tin quan trọng bậc nhất
cho Quốc hội và các ĐBQH16.
15 Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12 ngày 29/04/2008, của UBTVQH khóa XII.
16 Hoàng Văn Tú, Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu Lập pháp, bài viết cho hội thảo Mô
hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.
17 Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: “ĐBQH có quyền tự mình hoặc đề nghị VPQH, Văn phòng
Đoàn ĐBQH, Viện Nghiên cứu Lập pháp hỗ trợ trong việc lập văn bản kiến nghị về luật, pháp lệnh, hồ sơ đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh theo quy định tại Điều 37 của Luật này” (khoản 3 Điều 33).
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp “là đơn
vị sự nghiệp công lập thuộc Viện Nghiên
cứu Lập pháp, có chức năng tổ chức các
hoạt động trao đổi thông tin, tuyên truyền,
đăng tải các kết quả nghiên cứu lý luận và
thực tiễn phục vụ việc thực hiện các chức
năng của Quốc hội” (Quyết định số 172/
QĐ-VNCLP của Viện Nghiên cứu Lập
pháp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ cấu tổ chức của Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp). Từ các chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn này, với lợi thế là một cơ quan báo chí
phục vụ thông tin trực tiếp cho Quốc hội và
các ĐBQH, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
đã thực hiện rất đa dạng nhiệm vụ thông tin
lập pháp, tư vấn chính sách cho Quốc hội,
ĐBQH và các cơ quan Nhà nước khác; là
một diễn đàn quan trọng về Nhà nước, Pháp
luật và Chính sách.
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc
hội năm 2014 và Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 201517, khi ban hành
Nghị quyết số 1050/2015/UBTVQH13 (sửa
đổi Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12),
nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu Lập pháp
trong việc nghiên cứu, cung cấp thông
tin phục vụ Quốc hội, các cơ quan thuộc
UBTVQH và ĐBQH và tư vấn, hỗ trợ
ĐBQH trong việc trình sáng kiến lập pháp
đã được quy định cụ thể hơn. Theo đó: Viện
Nghiên cứu Lập pháp có nhiệm vụ, quyền
hạn “Nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu để
tham mưu, phục vụ Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, các cơ quan thuộc UBTVQH
và ĐBQH trong việc đổi mới cơ cấu tổ chức
và phương thức hoạt động của Quốc hội”
(Khoản 1); “Chủ động hoặc theo yêu cầu
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
các cơ quan thuộc UBTVQH và ĐBQH
thực hiện nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu
cơ sở lý luận, thực tiễn những vấn đề liên
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 15(343) T8/2017
quan đến việc Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước” (khoản 2);
“Tư vấn, hỗ trợ ĐBQH trong việc thực hiện
quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và
dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội,
UBTVQH” (Khoản 3); “Chủ động hoặc theo
yêu cầu của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, các cơ quan thuộc UBTVQH, ĐBQH tổ
chức cung cấp thông tin khoa học lập pháp,
kết quả nghiên cứu khoa học để phục vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ
quan thuộc UBTVQH và ĐBQH thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao” (Khoản 4);
“Tiếp nhận, quản lý, khai thác, phổ biến kết
quả nghiên cứu khoa học lập pháp, tài liệu,
sản phẩm chứa đựng thông tin khoa học lập
pháp từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài để cung cấp phục vụ
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các
cơ quan thuộc UBTVQH, ĐBQH” (Khoản
5); “Xuất bản Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp để đăng tải, cung cấp, trao đổi thông
tin khoa học lập pháp và tuyên truyền, phổ
biến thông tin khoa học lập pháp, thực tiễn
lập pháp và về văn bản quy phạm pháp luật
do Quốc hội, UBTVQH ban hành” (Khoản
6); “Thực hiện hoạt động hợp tác triển khai
nghiên cứu, thông tin khoa học lập pháp với
các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, thông tin
ở trong nước và nước ngoài; thu hút các nhà
khoa học, các chuyên gia tham gia nghiên
cứu và tổ chức thông tin khoa học lập pháp”
(Khoản 8).
3. Một số so sánh, nhận xét
Ngoài các nguồn cung cấp thông
tin chung, đại chúng, Quốc hội Liên bang
CHLB Đức chỉ có một cơ quan chuyên biệt
thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin, các
dịch vụ khoa học là Cơ quan Dịch vụ khoa
học của Quốc hội Liên bang. Quốc hội Việt
Nam có hai chủ thể thực hiện nhiệm vụ này,
đó là Viện Nghiên cứu Lập pháp và Tổng
Thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm VPQH
(VPQH là nơi cung cấp thông tin cho cả hai
tư cách cung cấp thông tin là Tổng Thư ký
Quốc hội và Chủ nhiệm VPQH). Các sản
phẩm cung cấp thông tin cho Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/nghị sĩ hai
nước có sự giống nhau và có cả các đặc thù
riêng:
- Các chủ thể cung cấp thông tin cho
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/
nghị sĩ hai nước đều có chức năng nghiên
cứu, cung cấp dịch vụ khoa học, tư vấn khoa
học, thông tin khoa học, trả lời các câu hỏi
của các ĐBQH/nghị sĩ Các kết quả nghiên
cứu khoa học đều phục vụ trực tiếp cho hoạt
động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, ĐBQH/nghị sĩ.
- Các chủ thể cung cấp thông tin
cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
ĐBQH/nghị sĩ hai nước đều có sản phẩm là
các bản tư vấn khoa học/báo cáo chuyên đề
gồm: tóm tắt tình hình, tổng quan các nguồn
thông tin tham khảo, tổng hợp và nêu ý kiến
tư vấn về một nội dung, lĩnh vực mà Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/nghị
sĩ quan tâm.
- Các chủ thể cung cấp thông tin cho
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/
nghị sĩ hai nước đều thực hiện việc trả lời
các câu hỏi nhằm tìm kiếm thông tin của các
ĐBQH/nghị sĩ.
- Các chủ thể cung cấp thông tin cho
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/
nghị sĩ hai nước đều sử dụng mạng internet
hay mạng nội bộ cùng với nhiều phương tiện
khác để cung cấp thông tin.
- Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang CHLB Đức thường cung cấp
các bản thông tin ngắn (khoảng hai trang) về
các lĩnh vực chuyên môn, ví dụ như vấn đề
thay đổi quy định của Hiến pháp về việc tài
trợ cho các đảng phái, còn các chủ thể cung
cấp thông tin cho Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, ĐBQH Việt Nam chưa làm việc
này. Thay vào đó là các Bản tin (do Viện
Nghiên cứu Lập pháp và VPQH thực hiện),
nhưng nội dung rộng hơn và ít tính chuyên
sâu hơn.
- Sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ khoa
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 15(343) T8/2017
học Quốc hội Liên bang CHLB Đức được
coi là các bản giám định/ý kiến tư vấn mang
tính giám định, nhất là các bản đánh giá về
tính hợp hiến của Dự thảo luật. Trong khi
các chuyên đề nghiên cứu của Viện Nghiên
cứu Lập pháp cũng đề cập về tính hợp hiến,
hợp pháp của các quy phạm pháp luật cụ thể
của dự án luật (nếu có) nhưng chỉ mang tính
bình luận khoa học. Các ý kiến đánh giá về
tính hợp hiến của Dự thảo luật ở Quốc hội
Việt Nam thường do Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban (nhất là Ủy ban Pháp luật) của Quốc
hội Việt Nam thực hiện trong nội dung báo
cáo thẩm tra.
- Các sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ
khoa học Quốc hội Liên bang CHLB Đức
do chuyên viên chịu trách nhiệm cung cấp
tự do cho nghị sĩ (trừ các ý kiến về một số
vấn đề nhạy cảm về chính trị, ví dụ như vấn
đề dự thảo luật có liên quan đến Hiến pháp
thì lãnh đạo trực tiếp của Cơ quan Dịch vụ
khoa học chịu trách nhiệm xem trước). Ở
Việt Nam, các sản phẩm này phải do Tổng
Thư ký Quốc hội kiêm Chủ nhiệm VPQH
quyết định trước khi cung cấp cho ĐBQH
tại Kỳ họp Quốc hội18 hoặc tất cả các sản
phẩm của Viện Nghiên cứu Lập pháp phải
do Viện trưởng duyệt trước khi cung cấp cho
các ĐBQH (ngoài kỳ họp Quốc hội).
- Mọi sản phẩm của Cơ quan Dịch vụ
khoa học của Quốc hội Liên bang CHLB
Đức đều được công khai trên mạng của
Quốc hội. Ở Việt Nam, các sản phẩm nghiên
cứu của Viện Nghiên cứu Lập pháp được
đăng tải trên Trang thông tin điện tử của
Viện; Tổng thư ký Quốc hội quyết định các
thông tin, tài liệu kỳ họp được đăng tải trên
Cổng thông tin điện tử của Quốc hội19.
- Cơ quan Dịch vụ khoa học của Quốc
hội Liên bang CHLB Đức có Bản thông tin
khoa học, nhưng không xuất bản tạp chí
18 Điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015 Ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội quy định:
“Tài liệu tham khảo gồm các ấn phẩm và chuyên đề nghiên cứu được cung cấp cho ĐBQH để cung cấp thêm thông tin
về nội dung Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp, do Tổng thư ký Quốc hội quyết định”.
19 Khoản 4 Điều 11 Nghị quyết số 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015 quy định “Tổng thư ký Quốc hội quyết định thông
tin, tài liệu kỳ họp được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội”.
nghiên cứu lập pháp. Bản tin này cũng giống
như tạp chí chuyên môn, có một Ban biên
tập bản tin (gồm mười người đến từ mười
đơn vị trong Cơ quan này). Viện Nghiên
cứu Lập pháp của UBTVQH Việt Nam có
một Bản tin Thông tin Khoa học lập pháp và
xuất bản Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. Bản
tin Thông tin Khoa học lập pháp của Viện
Nghiên cứu Lập pháp cung cấp thông tin về
hoạt động của Viện, các bài viết tóm tắt kết
quả nghiên cứu khoa học của các cơ quan
của Quốc hội, Ban Công tác đại biểu, Ban
Dân nguyện, Viện Nghiên cứu Lập pháp của
UBTVQH và VPQH. Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp thực hiện rất đa dạng nhiệm vụ
thông tin lập pháp, công bố kết quả nghiên
cứu khoa học, tư vấn chính sách cho Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và
các cơ quan Nhà nước khác; là một diễn đàn
quan trọng về Nhà nước, Pháp luật và Chính
sách. Bên cạnh đó, VPQH cũng có các Bản
tin cung cấp thông tin phục vụ cho những
nội dung cụ thể.
*
Như vậy, tuy hình thức cung cấp,
các sản phẩm cung cấp, cơ sở hạ tầng để
nghiên cứu và cung cấp thông tin có khác
nhau, nhưng các chủ thể cung cấp thông tin
cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
ĐBQH/nghị sĩ hai nước đều thực hiện các
nhiệm vụ giống nhau trong nghiên cứu,
cung cấp thông tin phục vụ Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/nghị sĩ. Hoạt
động này đã hỗ trợ cho các hoạt động Quốc
hội khoa học hơn, hiệu quả hơn và thực sự,
các chủ thể cung cấp thông tin cho Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH/nghị
sĩ hai nước đang là các “công xưởng” hàng
ngày sản xuất ra các sản phẩm hữu dụng cho
Quốc hội hai nước
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 15(343) T8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_co_quan_cung_cap_thong_tin_lap_phap_cho_quoc_hoi_cong_ho.pdf