This study shows some results of hydrodynamic and environmental
characteristics in the Hau river mouth area during dry season (April). Hydrodynamic and
environmental characteristics are analyzed from different field data which are carried out
in the framework of science and technological cooperation programme between Vietnam
and USA (2013 - 2015) and VAST.DLT.06/15-16 (2015 - 2016) project. The preliminary
results show that hydrodynamic characteristics, salinity and suspended particulate matter
(SPM) concentration in the Hau river are strongly affected by tidal regime.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 795 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các đặc trưng thủy động lực và môi trường thời kỳ mùa khô tại vùng biển ven bờ cửa Sông Hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
235
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 3; 2015: 235-241
DOI: 10.15625/1859-3097/15/3/7218
CÁC ĐẶC TRƯNG THỦY ĐỘNG LỰC VÀ MÔI TRƯỜNG THỜI KỲ
MÙA KHÔ TẠI VÙNG BIỂN VEN BỜ CỬA SÔNG HẬU
Nguyễn Ngọc Tiến*, Nguyễn Trung Thành, Vũ Hải Đăng
Viện Địa chất và Địa Vật lý biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: nntien@imgg.vast.vn
Ngàu nhận bài: 4-5-2015
TÓM TẮT: Bài báo giới thiệu một số kết quả nghiên cứu về đặc trưng thủy động lực và môi
trường vùng biển ven bờ cửa sông Hậu trong mùa kiệt (tháng 4). Các số liệu thủy động lực và môi
trường tại vùng ven biển cửa sông thu được trong các chuyến khảo sát thuộc chương trình khoa học
và hợp tác công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2013 - 2015) và đề tài độc lập mã số VAST-
ĐLT.06/15-16 (2015 - 2016). Kết quả phân tích số liệu khảo sát mùa khô cho thấy các đặc trưng
thủy động lực, nhiệt độ, độ muối và trầm tích lơ lửng tại vùng biển ven bờ cửa sông Hậu chịu ảnh
hưởng quyết định của thủy triều, do đó quá trình lan truyền, xáo trộn nước sông và biển có sự khác
biệt đáng kể trong các pha triều khác nhau.
Từ khóa: Độ muối, thủy Động lực, sông Hậu.
MỞ ĐẦU
Vùng tiếp giáp giữa biển - đất liền là một
trong những khu vực vận chuyển nước và các
vật liệu của chu trình sinh-địa-hóa và thủy văn.
Các dòng sông bổ sung trầm tích cho phần mất
đi bởi các quá trình xói lở bờ biển, cung cấp
trầm tích và các thành phần sinh học thiết yếu
để nuôi dưỡng các hệ sinh thái ven bờ. Một
trong những quá trình cuối cùng của sự vận
chuyển vật liệu xuất hiện thông qua sự phân tỏa
các vật chất lơ lửng từ cửa sông vào vùng thềm
lục địa. Do có nồng độ trầm tích lơ lửng cao,
những khối nước này có thể phân biệt rõ ràng
với phần nước biển trong thông qua độ đục. Sự
phân tỏa của vùng nước đục này được xác định
bởi các đặc điểm thủy động lực học và hình
thái địa hình vốn có của khu vực cửa sông ven
bờ. Biến động của lưu lượng nước sông, chế độ
triều, chế độ sóng gió, cùng với đặc điểm hình
thái địa hình của vùng ven bờ và thềm lục địa
quyết định các dạng phân tỏa của khối nước
đục này. Dòng chảy do gió cũng đóng một vai
trò quan trọng trong sự phân bố theo không
gian của khối nước đục. Sự phân tỏa các vật
liệu lơ lửng xảy ra trong một vài giai đoạn: 1)
Sự lắng đọng ban đầu của trầm tích có tỉ trọng
cao hơn tại vùng xung quanh các cửa sông, các
trầm tích này thường chiếm hơn 90% trầm tích
sông; 2) Sự phân tán, pha loãng, lắng dần dần
và tích tụ của trầm tích mịn hơn; và 3) Cuối
cùng các trầm tích lơ lửng cực mịn lắng đọng
xuống đáy tại vành đai ngoài của vùng nước
đục. Sự phân tỏa các vật liệu trầm tích lơ lửng
trong vùng nước đục cũng bị ảnh hưởng bởi các
quá trình quan trọng khác xảy ra tại vùng ven
biển, như sự tái lơ lửng của trầm tích đáy ở các
khu vực nước nông chịu tác động của sóng, chế
độ thủy triều và dòng vận chuyển trầm tích dọc
bờ có nguồn gốc từ xói mòn bờ biển. Lưu
lượng bùn cát tải ra hàng năm của hệ thống
sông Mê Kông khoảng 160 triệu tấn (Liu và
nnk., 2009). Trong số này, phần được giữ lại
bồi tích cho vùng châu thổ hạ lưu chiếm
khoảng 50%, khoảng 10% lắng đọng ở vùng
biển ven bờ cửa sông, còn lại 40% sẽ được vận
Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trung Thành,
236
chuyển dọc bờ đi nơi khác do các quá trình
thủy động lực, xa nhất có thể tới 500 km [1, 2].
Để thiết lập các đặc trưng thủy động lực và
môi trường tại cửa sông, trong khuôn khổ thuộc
chương trình khoa học và hợp tác công nghệ
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2013 - 2015) và đề
tài độc lập trẻ mã số VAST-ĐLT.06/ (2015 -
2016) do Viện Địa chất và Địa Vật lý biển chủ
trì các tác giả đã triển khai các đợt khảo sát
thực địa từ tháng 4 đến tháng 9 năm 2014 và
tháng 3 năm 2015 trên vùng biển ven bờ sông
Hậu (hình 1). Trong bài báo này đưa ra một số
kết quả phân tích các đặc trưng thủy động lực
và môi trường thu được chủ yếu từ đợt khảo sát
tháng 4 (mùa khô) năm 2014 tại các trạm cố
định và các trạm mặt rộng trên vùng biển ven
bờ cửa sông Hậu.
Các đặc trưng thủy động lực sẽ bao gồm
dao động mực nước và cấu trúc dòng chảy,
những đặc trưng môi trường bao gồm nhiệt độ,
độ muối và nồng độ trầm tích lơ lửng. Khu vực
nghiên cứu và hệ thống các trạm khảo sát thể
hiện trên hình 1.
Hình 1. Sơ đồ vị trí các trạm khảo sát và các
mặt cắt (A1 và B1)
CÁC ĐẶC TRƯNG THỦY ĐỘNG LỰC
Những biến đổi mực nước có thể được chia
thành các dao động tuần hoàn với chu kỳ từ
dưới nửa ngày đến hàng năm (ví dụ như thủy
triều) và các dao động không tuần hoàn (ví dụ
như nước dâng do bão).
Hình 2. Dao động triều tại Trà Vinh vào ngày 18/4/2014 và thời điểm đo
của các trạm tương ứng (liệt kê các trạm) trên mặt cắt A1
Hệ thống sông Mê Kông nói chung và sông
Hậu nói riêng chịu ảnh hưởng của hai chế độ
triều khác nhau. Vùng ven biển phía Đông từ
Cần Giờ đến mũi Cà Mau chịu ảnh hưởng của
thuỷ triều khu vực biển phía Đông của Biển
Đông; vùng ven biển phía Tây từ mũi Cà Mau
đến Hà Tiên chịu ảnh hưởng của thuỷ triều biển
phía Tây [3].
Trạm 29 Trạm 30 Trạm 31 Trạm 32
Trạm 33 Trạm 34 Trạm 35 Trạm 36
Các đặc trưng thủy động lực và môi trường
237
Hình 3. Dao động triều tại cửa Tranh Đề vào ngày 8/4/2014 và thời điểm đo
của các trạm tương ứng trên mặt cắt B1
Thuỷ triều vùng ven biển chịu ảnh hưởng
của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Trong một ngày có 2 đỉnh (1 thấp, 1 cao) và 2
chân triều (1 thấp, 1 cao). Thời gian triều lên
kéo dài khoảng 6 giờ và thời gian triều xuống
khoảng 6 giờ 45 phút đến 7 giờ. Trong tháng có
2 lần nước lớn (ngày rằm và mồng một âm
lịch) và 2 lần nước kém (giữa 2 ngày trên).
Trong năm, thủy triều cao nhất vào ngày rằm
hay 30 âm lịch kế cận hay trùng vào ngày Xuân
phân (21/3 dương lịch) hay Thu phân (22/9
dương lịch). Chênh lệch giữa đỉnh và chân
triều, vào những ngày triều lớn, có thể từ 2,5 -
3,5 m. Chênh lệch giữa đỉnh và chân triều vào
những ngày triều kém thường dưới 1 m. Biên
độ hằng ngày kỳ triều cường thường lớn gấp
1,5 lần đến 2 lần kỳ triều kém. Biên độ thủy
triều giảm dần về phía Mũi Cà Mau (1 - 2 m).
Trong thời gian mùa cạn, dòng chảy ở
thượng nguồn Mê Kông về nhỏ, chế độ dòng
chảy của sông Tiền và sông Hậu hoàn toàn bị
chi phối bởi chế độ thuỷ triều ở Biển Đông.
Thời gian truyền triều từ cửa biển đến Tân
Châu, Châu Đốc khoảng 7 - 8 giờ. Tốc độ
truyền triều trung bình trên sông Tiền đến Tân
Châu, khoảng 25 - 30 km/giờ; trên sông Hậu
đến Châu Đốc, chậm hơn, khoảng 22 -
24 km/giờ.
Trên sông Tiền, thời gian truyền triều từ
Vàm Kinh (cách biển 2 km) đến Mỹ Tho (cách
biển 49 km) từ 90 đến 120 phút, và tốc độ
truyền từ 24 km/giờ đến 36 km/giờ. Vận tốc
dòng chảy cũng bị ảnh hưởng bởi thủy triều:
Vào mùa kiệt vận tốc khi triều xuống trong
khoảng 0,70 m/s đến 1 m/s (hình 4).
Hình 4. Phân bố vận tốc dòng chảy lúc
triều xuống mùa khô cửa sông Hậu
Nói chung, ảnh hưởng triều trên sông Hậu
mạnh hơn so với sông Tiền do tốc độ chảy và
lượng nước của sông Tiền lớn hơn nhiều so với
sông Hậu, đặc biệt ở khu vực trước khi nhập
lưu với sông Vàm Nao.
Trong mùa cạn, triều lên (hình 5) làm xuất
hiện dòng chảy ngược từ biển vào sông trong
Trạm 1 Trạm 2 Trạm 4 Trạm 5 Trạm 10
Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trung Thành,
238
những thời gian nhất định. Tại đây, tốc độ dòng
chảy ngược trung bình từ 0,30 - 0,60 m/s, lớn
nhất có thể đạt 0,9 m/s [4]. Trong mùa cạn,
triều lên làm xuất hiện dòng chảy ngược từ biển
vào sông trong những thời gian nhất định. Tại
Cần Thơ, tốc độ dòng chảy ngược trung bình từ
0,60 - 0,80 m/s, lớn nhất có thể đạt 1,25 m/s
(ngày 18/4/1988). Tại Mỹ Thuận, tốc độ chảy
ngược lớn nhất có thể đạt 1,12 m/s
(ngày 24/4/1978). Tại Tân Châu, tốc độ chảy
ngược trung bình từ 0,2 - 0,3 m/s, tốc độ chảy
ngược lớn nhất là 0,395 m/s
(ngày 12/4/1987). Tại Châu Đốc, tốc độ chảy
ngược trung bình khoảng 0,30 - 0,50 m/s, lớn
nhất là 0,526 m/s (ngày 5/3/1979). Như vậy,
tốc độ chảy ngược lớn nhất tại Châu Đốc luôn
luôn lớn hơn tại Tân Châu trong cùng thời gian.
Điều này một lần nữa chứng tỏ ảnh hưởng của
thuỷ triều đến Châu Đốc trên sông Hậu mạnh
hơn so với Tân Châu trên sông Tiền. Do ảnh
hưởng của thuỷ triều, trong thời gian mùa cạn,
vào thời kỳ kiệt nhất (tháng 3 và 4), lưu lượng
chảy ngược tại Tân Châu có thể đạt 3.290 m3/s
(ngày 12/4/1987) và 1.700 m3/s tại Châu Đốc
(ngày 6/4/1978). Vì vậy, tháng 4 được xem là
tháng cạn nhất trong năm. Mực nước trung bình
tháng nhỏ nhất theo số liệu trung bình nhiều
năm tại Tân Châu là 0,42 m, tại Châu Đốc là
0,38 m [5, 6].
Hình 5. Phân bố vận tốc dòng chảy
triều lên mùa khô cửa sông Hậu
CÁC ĐẶC TRƯNG MÔI TRƯỜNG
Trong phần này phân bố độ đục đơn vị đo
NTU (Nephelometric Turbidity Units: Đơn vị
đo độ đục khuếch tán) theo không gian được
phân tích từ số liệu đo đạc từ chuyến khảo sát
trong tháng 4 năm 2014 thuộc chương trình
khoa học và hợp tác công nghệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ (2013 - 2015). Vị trí các trạm khảo
sát và mặt cắt dùng để phân tích được mô tả
trên hình 1.
Trên hình 6 thể hiện mặt cắt phân bố thẳng
đứng của độ đục của các trạm từ vùng cửa sông
ra vùng ngoài khơi (trạm 29 - 35, mặt cắt A1 đo
trước cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu). Trên
hình 7 thể hiện phân bố thẳng đứng của độ đục
của các trạm từ vùng cửa sông ra vùng ngoài
khơi (trạm 1, 2, 4, 5 và 10, mặt cắt B1 đo trước
cửa Tranh Đề).
Hình 6. Phân bố thẳng đứng của độ đục từ
cửa sông ra khơi (mặt cắt A1)
Hình 7. Phân bố thẳng đứng của độ đục từ
cửa sông ra khơi (mặt cắt B1)
Trên hình 8 thể hiện phân bố thẳng đứng
của độ muối của các trạm từ vùng cửa sông ra
Các đặc trưng thủy động lực và môi trường
239
vùng ngoài khơi (trạm 29 - 35, mặt cắt A1 đo
trước cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu). Hình 9
thể hiện phân bố thẳng đứng của độ muối của
các trạm từ vùng cửa sông ra vùng ngoài khơi
(trạm 1, 2, 4, 5 và 10, mặt cắt B1 đo trước cửa
Tranh Đề).
Hình 8. Phân bố thẳng đứng của độ muối từ
cửa sông ra khơi (mặt cắt A1)
Hình 9. Phân bố thẳng đứng của độ muối từ
cửa sông ra khơi (mặt cắt B1)
Phân bố độ đục có xu hướng giảm dần từ
vùng cửa sông ra vùng ngoài khơi do ảnh
hưởng của nguồn trầm tích từ sông đổ ra ngược
lại với phân bố độ muối (hình 6 - 9)
Các giá trị độ đục trong mùa kiệt tại các
trạm gần bờ cao hơn rất nhiều so với các trạm
xa bờ. Độ đục tại vùng sát cửa sông đạt giá trị
khoảng từ 40 NTU đến hơn 100 NTU, trong
khi đó giá trị tại các trạm xa bờ chỉ khoảng
dưới 20 NTU. Theo phân bố thẳng đứng, độ
đục tại các trạm vùng cửa sông đạt giá trị lớn
nhất trong khoảng từ 2 - 3 m nước đạt 50 -
100 NTU, tại các vùng phía ngoài giá trị độ đục
nhỏ và khá đồng nhất từ mặt đến đáy.
Do hai mặt cắt A1 và B1 được đo vào các
thời điểm khác nhau với đặc điểm pha triều
khác nhau nên phân bố không gian của độ đục
và độ muối thể hiện rất rõ vai trò tác động của
dòng triều theo pha triều (xem thêm hình 2, 3).
Từ hai mặt cắt A1, B2 (hình 8, 9) có thể
thấy rằng ở hầu hết các trạm độ muối không
vượt qua 31‰, độ muối có xu hướng tăng dần
từ bờ ra khơi (từ 5‰ đến hơn 30‰). Các khu
vực càng gần cửa sông độ muối giảm mạnh do
ảnh hưởng của nước sông. Theo phương thẳng
đứng, độ muối tăng dần từ mặt đến đáy do sự
xâm nhập của nước biển ở dưới sâu và sự lan
tỏa của nước ngọt trên bề mặt. Sự phân tầng về
độ muối thể hiện khá rõ tại các trạm gần cửa
sông, càng ra xa tính phân tầng giảm mạnh đặc
biệt tại mặt cắt đo trước cửa Cổ Chiên và cửa
Cung Hầu. Dựa trên phân bố này có thể thấy
khá rõ gianh giới mặn nhạt dưới tác động của
động lực sông biển với nêm nước mặn ở phía
dưới và nêm nước ngọt ở phía trên. Đây là phân
bố đặc trưng của độ muối tại các vùng cửa sông
ven biển.
Mặt cắt A1 được đo đạc hoàn toàn trong
pha triều rút với biên độ triều trong ngày lớn
khoảng hơn 2,6 m, dòng triều kết hợp với dòng
chảy ra do sông đã phân tỏa trầm tích và nước
ngọt ra xa khỏi vùng cửa sông, đặc biệt là xuất
hiện sự phân tầng rất rõ rệt (hình 2, 6, 8). Trong
khi đó mặt cắt B1 được thực hiện trong pha
triều lên với biên độ triều ngày nhỏ hơn khoảng
2 m, lúc này mực nước biển cao ngăn cản sự
phân tỏa của trầm tích và nước ngọt, sự phân
chia ranh giới theo phương ngang rất rõ ràng,
không xuất hiện sự phân tầng theo độ sâu
(hình 3, 7 và 9). Như vậy có thể thấy vai trò
của chế độ thủy văn mùa và vai trò của thủy
triều trong phân bố độ đục theo không gian và
thời gian.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã phân tích các số liệu về
thủy động lực, môi trường bao gồm: Dòng
chảy, độ muối, độ đục mùa khô trong chuyến
khảo sát thuộc chương trình khoa học và hợp
Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trung Thành,
240
tác công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2013
- 2015) và đề tài độc lập mã số VAST-
ĐLT.06/15-16 (2015 - 2016) đưa ra một số kết
quả sau:
Về đặc trưng thủy động lực, vận tốc dòng
chảy bị ảnh hưởng bởi thủy triều: Vào mùa này
vận tốc khi triều xuống trong khoảng 0,70 m/s
đến 1 m/s, triều lên (hình 5) làm xuất hiện dòng
chảy ngược từ biển vào sông trong những thời
gian nhất định. Tại đây, tốc độ dòng chảy
ngược trung bình từ 0,30 - 0,60 m/s, lớn nhất
có thể đạt 0,9 m/s.
Về đặc trưng môi trường, theo phân bố
thẳng đứng, độ đục tại các trạm vùng cửa sông
đạt giá trị lớn nhất trong khoảng từ 2 - 3 m
nước đạt 50 - 100 NTU, tại các vùng phía ngoài
giá trị độ đục nhỏ và khá đồng nhất từ mặt đến
đáy. Về độ muối, hầu hết các trạm khảo sát
(hình 1), độ muối cực đại đo được chỉ đạt 31‰,
xu hướng tăng dần từ bờ ra khơi (từ 5‰ đến
hơn 30‰). Các khu vực càng gần cửa sông độ
muối giảm mạnh do ảnh hưởng của nước sông.
Theo phương thẳng đứng, độ muối tăng dần từ
mặt đến đáy.
Các kết quả này cũng khá đồng nhất với
các kết quả đã được công bố của Daniel
Unverricht và nnk., (2014) [7] và Hubert Loisel
và nnk., (2014) [8]. Phân tích số liệu dòng triều
và nồng độ trầm tích lơ lửng tại 2 trạm đo liên
tục Daniel Unverricht và nnk., (2014) còn chỉ ra
được vai trò của dòng triều trong quá trình tái lơ
lửng của các vật liệu trầm tích. Mặc dù vai trò
của sóng và dòng chảy gió dọc bờ đến quá trình
vận chuyển trầm tích tại khu vực là rõ ràng. Đây
cũng là vấn đề cần xem xét khi thực hiện các
chuyến khảo sát đo đạc trong thời gian tới.
Vai trò của sóng và dòng chảy có thể đóng
vai trò quan trọng quá trình tái lơ lửng của hàm
lượng bùn cát và xu hướng của dòng bùn cát lơ
lửng theo mùa. Theo phân bố thẳng đứng của
hàm lượng bùn cát lơ lửng đã thể hiện sự tác
động của trường sóng với ảnh hưởng khác nhau
theo mùa kết hợp với dao động mực nước triều.
Trong mùa này, hàm lượng bùn cát lơ lửng
được mang ra phía biển bởi dòng triều, dòng
chảy sông, dòng ven bờ, kết hợp trường sóng
hàm lượng bùn cát lơ lửng này đi xa hơn, làm
xáo trộn từ các tầng với nhau, trong một thời
điểm nào đó chúng sẽ lắng đọng tạo nên châu
thổ ngầm tại vùng ven biển cửa sông Hậu, kết
luận này cũng đã được công bố bởi Nguyễn
Ngọc Tiến (2015) [9].
Lời cảm ơn: Công trình nghiên cứu này được
cố vấn khoa học bởi PGS. TSKH. Nguyễn Văn
Cư và được sử dụng số liệu khảo sát bởi
chương trình khoa học và hợp tác công nghệ
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2013 - 2015). Đồng
thời được tài trợ kinh phí bởi đề tài độc lập trẻ
cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam mã số VAST.ĐLT.06/15-16.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wolanski, E., Nhan, N. H., and Spagnol, S.,
1998. Sediment dynamics during low flow
conditions in the Mekong River estuary,
Vietnam. Journal of Coastal Research,
472-482.
2. Wolanski, E., Huan, N. N., Nhan, N. H.,
and Thuy, N. N., 1996. Fine-sediment
dynamics in the Mekong River estuary,
Vietnam. Estuarine, Coastal and Shelf
Science, 43(5): 565-582.
3. Nguyễn Ngọc Thụy, 1982. Thủy triều đồng
bằng sông Cửu Long và vùng biển kế cận.
Báo cáo tại: Hội thảo Quốc tế về xâm nhập
mặn ở ĐBSCL, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Ngọc Tiến, 2014. Nghiên cứu chế
độ thủy động lực ven bờ biển của hệ thống
sông Mê Kông. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển, 14(4): 310-319
5. Ngô Trọng Nhuận, 2007. Dòng chảy mùa
cạn ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuyển tập
báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10. Viện
KH KTTH&MT. Tr. 379-384.
6. Lê Đình Mầu, 2009. Đặc điểm phân bố các
đặc trưng sóng tại vùng biển ven bờ tỉnh
Bình Thuận. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển 9(4): 25-37.
7. Unverricht, D., Nguyen, T. C., Heinrich, C.,
Szczuciński, W., Lahajnar, N., and
Stattegger, K., 2014. Suspended sediment
dynamics during the inter-monsoon season
in the subaqueous Mekong Delta and
adjacent shelf, southern Vietnam.Journal of
Asian Earth Sciences, 79, 509-519.
Các đặc trưng thủy động lực và môi trường
241
8. Loisel, H., Mangin, A., Vantrepotte, V.,
Dessailly, D., Dinh, D. N., Garnesson, P.,
Ouillon, S., Lefebvre, J-P., Mériaux, X.,
and Phan, T. M., 2014. Variability of
suspended particulate matter concentration
in coastal waters under the Mekong's
influence from ocean color (MERIS)
remote sensing over the last
decade. Remote Sensing of Environment,
150, 218-230.
9. Nguyễn Ngọc Tiến, 2015. Ảnh hưởng của
các yếu tố thủy động lực đến đặc điểm phân
bố bùn cắt lơ lửng vùng biển ven bờ sông
Mê Kông. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
biển, 15(2): 150-158.
HYDRODYNAMIC AND ENVIRONMENTAL CHARACTERISTICS
DURING DRY SEASON IN THE HAU RIVER MOUTH AREA
Nguyen Ngoc Tien, Nguyen Trung Thanh, Vu Hai Dang
Institute of Marine Geology and Geophysics-VAST
ABSTRACT: This study shows some results of hydrodynamic and environmental
characteristics in the Hau river mouth area during dry season (April). Hydrodynamic and
environmental characteristics are analyzed from different field data which are carried out
in the framework of science and technological cooperation programme between Vietnam
and USA (2013 - 2015) and VAST.DLT.06/15-16 (2015 - 2016) project. The preliminary
results show that hydrodynamic characteristics, salinity and suspended particulate matter
(SPM) concentration in the Hau river are strongly affected by tidal regime.
Keywords: Salinity, hydrodynamic, Hau river.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7218_26889_1_pb_5188_2079688.pdf