Thứ nhất, chất lượng và hiệu quả
Chính phủ trong việc xây dựng các chính
sách, quy định pháp luật ở Việt Nam còn
khá thấp. Chỉ số Regulatory Quality (phản
ánh khả năng Chính phủ xây dựng các chính
sách, quy định) ở Việt Nam chưa tới 30 (trên
thang điểm 100), mặc dù từ năm 1996 -
2016, chỉ số này có tăng nhưng tốc độ tăng
rất chậm. Với tình hình này, trong thời gian
tới, việc ban hành và thực thi chính sách và
pháp luật bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam sẽ
gặp nhiều khó khăn và có độ trễ nhất định.
Thứ hai, việc thực thi một số khía
cạnh nhân quyền tại Việt Nam gặp phải một
số trở ngại xuất phát từ cách hiểu không
giống nhau về vấn đề dân chủ và tự do ngôn
luận. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế
giới (World Bank), mức độ tự do bày tỏ
quan điểm của người dân, mức độ tham gia
của người dân vào việc lựa chọn Chính phủ
(Voice and Accountability) còn thấp (chỉ đạt
10 trên thang điểm 100) và đặc biệt là chỉ số
này giảm dần từ năm 1996 - 2016.
Thứ ba, đến năm 2016, chỉ số kiểm
soát tham nhũng (Control of Corruption)
của Việt Nam có tăng nhưng vẫn chưa đạt
50/100. Do đó, việc thực thi các cam kết
trong lĩnh vực đấu tranh với tham nhũng,
tăng cường minh bạch hóa chính sách của
Việt Nam sẽ không hề dễ dàng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các giá trị nhân quyền thông qua các hiệp định thương mại tự do và thách thức đối với việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC GIÁ TRỊ NHÂN QUYỀN THÔNG QUA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
TỰ DO VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Tóm tắt:
Chính sách kinh tế đối ngoại của Liên minh châu Âu (EU) luôn
gắn liền với các giá trị về nhân quyền và phát triển bền vững. Có
thế mạnh là một thị trường chung rộng lớn gồm 27 quốc gia thành
viên, EU là một trong những đối tác thương mại có ảnh hưởng lớn
nhất trên thế giới và luôn muốn áp đặt các giá trị về nhân quyền
đối với các đối tác của mình. Phân tích triết lý của các quy định
về nhân quyền trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA), mối quan hệ giữa EVFTA và Hiệp định Đối tác toàn
diện (Partnership Cooperation Agreement - PCA) Việt Nam - EU
nhằm đề xuất phương hướng thực thi EVFTA là việc làm cần thiết.
Ngô Quốc Chiến*
* TS. GV. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương.
Abstract
EU external economic policy is always associated with values of
human rights and sustainable development. Being strong is a large
common market of 27 member countries, the EU is one of the most
influential trade partners in the world and always wants to impose
human rights values on its partners. This article provides analysis
of the philosophy of human rights regulations in the Vietnam-EU
Free Trade Agreement (EVFTA), the relationship between EVFTA
and Partnership Cooperation Agreement (PCA) Vietnam - EU and
proposes recommandations related to the application of EVFTA.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: EVFTA, nhân quyền,
Việt Nam.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/03/2019
Biên tập : 16/04/2019
Duyệt bài : 23/04/2019
Article Infomation:
Keywords: EVFTA, human rights,
Vietnam.
Article History:
Received : 26 Mar. 2019
Edited : 16 Apr. 2019
Approved : 23 Apr. 2019
1. Bối cảnh ra đời các quy định về nhân
quyền trong Hiệp định Thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU)
Trong những năm gần đây, trước sự
nổi lên của một số nền kinh tế trong khu vực
1 Để có một cái nhìn rộng hơn, không chỉ liên quan đến thương mại, có thể xem: Quan hệ đối tác EU-ASEAN trước sự
cạnh tranh giữa các cường quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Hội thảo quốc tế do Trường ĐH Ngoại
thương phối hợp với Trường ĐH Rennes II (CH Pháp) phối hợp tổ chức tại Hà Nội, tháng 10/2017.
châu Á - Thái Bình Dương, chính sách đối
ngoại của EU có nhiều bước tiến quan trọng
nhằm giành ảnh hưởng trong một trật tự thế
giới mới1. Như đã khẳng định trong Hiệp
ước Lisbon, một trong các sứ mệnh của EU
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 8(384) T4/2019
là góp phần vào “hòa bình, an ninh và phát
triển bền vững của thế giới [] và bảo vệ
nhân quyền” 2. Thông qua các chính sách đối
ngoại, EU muốn tác động tới các nước đối
tác, nhất là các nước đang phát triển để phổ
biến rộng rãi các nguyên tắc về nhân quyền,
nhà nước pháp quyền, minh bạch và dân chủ
theo quan điểm của EU. Để làm được điều
này, giá trị nhân quyền đã được coi như một
điều kiện đi kèm với các lợi ích thương mại.
Nghị quyết về nhân quyền, các tiêu chuẩn
xã hội và môi trường trong các hiệp định
thương mại quốc tế ngày 25/11/2010 của
Nghị viện châu Âu nhấn mạnh yêu cầu bổ
sung một loạt các tiêu chuẩn về môi trường,
xã hội và nhân quyền trong tất cả các FTA
mà EU đàm phán với các nước khác3.
Khi đàm phán các hiệp định quốc tế
với các nước ngoài khối, sự tuân thủ các
quy định bảo vệ nhân quyền thường được
EU coi là một điều kiện đối với các nước
ngoại khối muốn thiết lập quan hệ hợp tác
với EU. Trong thực tế, các điều khoản nhân
quyền đã được đưa vào trong các hiệp định
của EU với hơn 120 quốc gia trên thế giới4.
Việc tuân thủ các quy định về nhân quyền
trong các hiệp định này là một điều kiện tiên
quyết mà sự vi phạm có thể dẫn tới các biện
pháp trả đũa của EU hoặc thậm chí là đình
chỉ hiệu lực của hiệp định đó. Trong các hiệp
định này cũng quy định về cơ chế và quy
trình đối thoại và tham vấn thường kỳ.
Từ những năm 1990, EU tiếp tục mong
muốn phát triển một chính sách đối ngoại
2 Điều 2, Đoạn 5.
3 Đoạn 15, Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu ngày 25/11/2010 về nhân quyền, các tiêu chuẩn xã hội và môi trường
trong các hiệp định thương mại quốc tế.
4 European Parliament, “The European Parliament's role in relation to human rights and trade agreements [The role of the
European Parliament in the field of human rights in trade and investment agreements]”, EXPO / B / DROI / 2012- 09,
February 2014, download tại: ngày 10/2/2019.
5 Nicolas Pigeon, “L’accord de libre-échange UE-Viêt Nam: une hiérarchisation des objectifs de l’action extérieure au
détriment de sa cohérence?” (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU: thứ tự hóa các mục đích ảnh hưởng đến
sự thống nhất của chính sách đối ngoại?), European Papers, Vol. 1, 2016, no 2, European Forum, Insight of 14 August
2016, pp. 691-704.
6 Xem tại: truy cập ngày 10/12/2018.
7 EU Annual Report on Human Rights and Democracy in the World 2017,
xem tại: ̀y 29/5/2018, 74-76.
toàn diện bao gồm cả lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội và khởi xướng các hiệp định với
các nước ngoài khối. Khu vực mà EU dành
sự quan tâm hàng đầu là các quốc gia châu
Á và các nước nằm trong khối Liên bang
Xô viết cũ. Ban đầu, các nước này sẽ được
đề nghị ký kết những hiệp định hợp tác toàn
diện với EU (dưới dạng các PCA). Sau khi
thống nhất nội dung PCA, trong đó các quy
định về nhân quyền thường nằm trong nhóm
các điều khoản chủ yếu, các bên mới tiếp tục
đàm phán hiệp định thương mại. Bằng cách
này, EU có thể gây sức ép tới các quốc gia
khác, buộc đối tác chấp nhận các nguyên tắc
nhân quyền của EU để đổi lại lợi ích thương
mại thu được từ thị trường rộng lớn này5.
EU mong muốn sử dụng chiến lược này với
hầu hết các đối tác thương mại của mình
nhằm “Âu hóa” các giá trị nhân quyền trên
phạm vi toàn cầu. Phần lớn các FTA đàm
phán và ký kết sau năm 2009 của EU được
đàm phán theo chiến lược này. Ví dụ, trong
quá trình đàm phán hiệp định thương mại
với Nhật Bản, EU đã yêu cầu ký kết “gói
hiệp định” bao gồm: (i) Hiệp định đối tác
chiến lược (Strategic Partnership Agree-
ment - SPA), trong đó các điều khoản nhân
quyền được đưa vào nhóm quy định cốt lõi
và (ii) Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện
(Economic Cooperation Agreement - ECP)
(các hiệp định này đã được ký kết và có hiệu
lực vào tháng 2/2019)6. Điều tương tự cũng
diễn ra trong các cuộc đàm phán FTA của
EU với các đối tác khác như Úc, Indonesia,
Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam7.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 8(384) T4/2019
Quan hệ hợp tác EU - Việt Nam ngày
càng được củng cố, đặc biệt trong bối cảnh
Việt Nam đang đóng một vai trò địa chiến
lược quan trọng ở khu vực châu Á -Thái
Bình Dương, nơi mà nhiều quốc gia trên thế
giới muốn tạo lập được sự ảnh hưởng của
mình. Về phần mình, Việt Nam tích cực đàm
phán FTA với các đối tác chiến lược như
EU không chỉ nhằm mục đích kinh tế, mà
còn cả những lý do chính trị và an ninh. Từ
năm 1995, Việt Nam và Cộng đồng châu Âu
(European Community - EC) đã ký kết Hiệp
định Khung hợp tác Việt Nam - EC; năm
2003 Việt Nam và EU chính thức tiến hành
các cuộc đối thoại nhân quyền. Những cuộc
đàm phán nhằm thiết lập một khung pháp
lý toàn diện cho một mối quan hệ hợp tác
chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và EU được bắt
đầu từ tháng 11/2007. Tháng 10/2010, bên
lề Hội nghị cấp cao Á - Âu lần thứ 8 tại Bỉ,
Việt Nam và EU đàm phán Hiệp định khung
Đối tác và Hợp tác toàn diện (Partnership
and Cooperation Agreement - PCA); ngày
27/6/2012, PCA đã được ký chính thức8.
Điều 1 của PCA khẳng định cam kết của các
bên là “tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và
nhân quyền, như quy định trong Tuyên ngôn
của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về nhân
quyền và những văn kiện quốc tế về nhân
quyền có liên quan” và là “một yếu tố thiết
yếu của Hiệp định này”9. Trên cơ sở PCA,
Việt Nam và EU tiếp tục đàm phán EVFTA.
Lời mở đầu của EVFTA đã tái khẳng định
cam kết của các bên trong bảo vệ nhân
quyền theo các cam kết quốc tế10.
8 Ngày 1/11/2013, Việt Nam đã phê chuẩn PCA. Về phía EU hiện có và 27/28 nước phê chuẩn PCA là: Đức, Hà Lan,
Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Lít-va, Lát-vi-a, Áo, Bồ Đào Nha, Síp, Tây Ban Nha, Ét-xờ-tô-ni-a, Thụy Điển, Đan-mạch, Xờ-
lô-va-ki-a, Bỉ, Ru-ma-ni, Ba Lan, Man-ta, Séc, Xlô-ven-ni-a, Phần Lan, Anh, Crô-a-ti-a , Lúc-xăm-bua, Ai-len, Pháp
và I-ta-li-a. Hiện nay, còn 01 nước chưa phê chuẩn PCA là Hy Lạp.
Xem tại (truy cập ngày
10/03/2019).
9 Toàn văn PCA có thể xem được tại: https://eeas.europa.eu/sites/eeas/files/pca.pdf (truy cập ngày 24/3/2019).
10 Bản cuối cùng EVFTA (8/2018) đã được trình lên Nghị viên Châu Âu để phê chuẩn,
xem tại (truy cập ngày 10/3/2019).
EVFTA là một loại hiệp định thế hệ
mới, bao hàm không chỉ các quy định về
thương mại theo nghĩa rộng, mà cả các quy
định về quyền con người. Quyền con người
trong EVFTA được hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ bao gồm các nhóm quyền thế hệ
thứ nhất, tức là các quyền dân sự và chính trị
(quyền được sống, quyền tự do ngôn luận,
quyền tự do tín ngưỡng,), mà cả các nhóm
quy định thế hệ 2, tức là các quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa (quyền được làm việc,
quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền
tiếp cận giáo dục, quyền biểu tình, quyền
nghỉ ngơi và giải trí,) và cả các quy định
thế hệ thứ 3, tức bao hàm cả các quyền liên
quan tới môi trường, an ninh và phát triển.
Ba nhóm quyền này không tách rời nhau mà
ngược lại có quan hệ chặt chẽ với nhau.
EVFTA khẳng định quan hệ hợp tác
kinh tế, thương mại giữa các bên phải dựa
trên cơ sở những nguyên tắc đã được khẳng
định trong PCA. Trong đó, yêu cầu tôn trọng
các quy định về nhân quyền là một nguyên
tắc cốt lõi. Lời mở đầu của EVFTA đã ghi
nhận mối quan hệ hợp tác thương mại giữa
các bên phải dựa trên những nguyên tắc và
giá trị được quy định trong PCA. Cụ thể
hơn, Đoạn 2 Điều 17.22, Chương 17 EVFTA
khẳng định Hiệp định này là một phần của
quan hệ song phương tổng thể theo quy định
tại PCA và sẽ là một phần của khuôn khổ
thể chế chung. Ngoài ra, Đoạn 2 Điều 17.18
EVFTA quy định, trong trường hợp một bên
vi phạm cơ bản PCA (theo Điều 57 PCA, vi
phạm các nguyên tắc về nhân quyền được
coi là một vi phạm cơ bản PCA), thì bên kia
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 8(384) T4/2019
có thể áp dụng các biện pháp thích hợp theo
quy định của Hiệp định này.
Vi phạm các cam kết về nhân quyền
trong PCA có thể dẫn tới việc sử dụng các
biện pháp “trả đũa” thương mại như được quy
định trong EVFTA. Các quy định này có thể
tạo ra một cơ chế hiệu quả hơn để giám sát
và thực thi các cam kết về nhân quyền quốc
tế. Thực tế cho thấy, mặc dù các quốc gia đã
tham gia ký kết các hiệp định quốc tế về nhân
quyền, cơ chế thực thi trong các hiệp định
này chưa đủ mạnh, mà chủ yếu vẫn dựa trên
sự tự nguyện thi hành của các bên. Do đó,
tình trạng vi phạm về nhân quyền vẫn xảy ra
ở một số quốc gia, ngay cả các nước đã ký kết
các điều ước quốc tế về nhân quyền vì thiếu
một cơ chế thực thi có tính ràng buộc cao.
Với việc gắn nghĩa vụ bảo vệ nhân quyền với
các quyền lợi về thương mại, EU tạo ra động
lực thúc đẩy các đối tác thương mại của mình
tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về bảo
vệ nhân quyền11.
2. Tầm quan trọng của các quy định về
nhân quyền trong Hiệp định thương mại
tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu
Mặc dù EVFTA là một Hiệp định về
thương mại, nhưng các quy định về quyền
con người chiếm một vị trí quan trọng.
Lời mở đầu của EVFTA viết: “Các bên
đã: “Tái khẳng định những cam kết trong
Hiến chương của Liên hiệp quốc ký tại San
Francico ngày 26/06/1945 và các nguyên
tắc ghi nhận trong Tuyên bố chung về Nhân
quyền được thông qua bởi Đại hội đồng Liên
hiệp quốc ngày 10/12/1948” và “Khẳng định
củng cố mối quan hệ đầu tư, thương mại và
kinh tế phù hợp với mục tiêu phát triển bền
vững trong khía cạnh về môi trường, xã hội
11 Tobias Dolle, 2015, “Human Rights Clauses in EU Trade Agreements: The New European Strategy in Free Trade
Agreement Negotiations Focuses on Human Rights – Advantages and Disadvantages”, trong Weiß, Norman, Thouvenin,
Jean-Marc (Eds.), The Influence of Human Rights on International Law, Springer International Publishing Switzerland,
223-225.
12 Đoạn 3, Điều 13.4 EVFTA.
13 Đoạn 3, Điều 13.4 EVFTA.
và kinh tế, và thúc đẩy thương mại và đầu
tư theo Hiệp định này theo phương thức chú
trọng tới các tiêu chuẩn cao về bảo vệ môi
trường và người lao động phù hợp với các
tiêu chuẩn và hiệp định được thừa nhận ở
phạm vi quốc tế”.
Chúng tôi phân tích những quy định
về nhân quyền thế hệ thứ ba, tức các quyền
đối với môi trường sống và các nhóm quyền
xã hội, trong đó có quyền lao động và tự do
công đoàn.
Về lao động, EVFTA dẫn chiếu tới các
thông lệ và công ước quốc tế trong khuôn
khổ các quy định của Tổ chức Lao động thế
giới (ILO), qua đó ghi nhận tầm quan trọng
của các Công ước ILO trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Các Bên tái khẳng định sự cam kết,
thúc đẩy các tiêu chuẩn về quyền lợi cơ bản
tại nơi làm việc theo Tuyên bố ILO về các
Nguyên tắc và Quyền lợi cơ bản tại nơi làm
việc, bao gồm 4 quyền cơ bản là tự do hiệp
hội và công nhận hiệu quả của quyền thương
lượng tập thể; loại bỏ tất cả các hình thức lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc; bãi bỏ hiệu
quả lao động trẻ em; và xóa bỏ phân biệt đối
xử trong việc làm và nghề nghiệp12.
Tương tự, Đoạn 3, Điều 13.4 EVFTA
khuyến khích mỗi Bên:
“(a) nỗ lực và ủng hộ việc gia nhập các
Công ước cốt lõi của ILO mà Bên đó chưa
phải là thành viên,
(b) xem xét việc gia nhập các Công
ước khác được cập nhật bởi ILO trên cơ sở
xem xét các điều kiện trong nước, và
(c) trao đổi thông tin với Bên còn lại
về việc gia nhập các Công ước tại Đoạn (a)
và (b) nêu trên”13.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 8(384) T4/2019
Phần lớn các điều khoản khác trong
cùng Chương về lao động có một điểm
chung là cách tiếp cận “mềm dẻo và linh
hoạt” với ngôn ngữ sử dụng chủ yếu là “ghi
nhận”, “tái khẳng định”, “thúc đẩy”, “hỗ
trợ”, Ngoài ra, trong Chương này cũng
không quy định về chế tài hoặc biện pháp
xử lý nào nếu có hành vi vi phạm.
Tương tự với các quy định về môi
trường, EVFTA tiếp tục dẫn chiếu tới các
nguyên tắc trong các hiệp định môi trường
đa phương. Tại Điều 13.5, các Bên thừa
nhận giá trị của các hiệp định và cơ chế
hợp tác đa phương về bảo vệ môi trường
của cộng đồng quốc tế để ứng phó với các
thách thức về môi trường và nhấn mạnh sự
tác động tương hỗ giữa thương mại và môi
trường. Do đó, các Bên cam kết “tham vấn
và hợp tác, trong phạm vi có thể, liên quan
tới các vấn đề môi trường có liên quan tới
thương mại vì lợi ích của cả hai Bên”14. Với
việc sử dụng các từ như “ghi nhận tầm quan
trọng”15, “khẳng định” hoặc “tái khẳng định
các cam kết”16, “khuyến khích”17, “thúc
đẩy”18, “hợp tác” và “tăng cường hợp tác”
19 các quy định này mang tính chất “tuyên
bố” và “khuyến khích” sự hợp tác của các
Bên nhiều hơn là đặt ra những nghĩa vụ ràng
buộc pháp lý. Ngoài ra, một điểm đáng chú
14 Đoạn 1, Điều 13.7; Đoạn 2, Điều 13.6 EVFTA; Đoạn 1 Điều 13.8.
15 Đoạn 1, Điều 13.5 EVFTA
16 Điều 2, Đoạn 13.5 EVFTA.
17 Đoạn 3, Điều 13.7 EVFTA.
18 Đoạn 2, Điều 13.6 EVFTA
19 Đoạn 3, Điều 13.7; Đoạn 2 Điều 13.8 EVFTA.
20 Điều 13.6 EVFTA.
21 Đoạn 13.7 EVFTA.
22 Đoạn 1, Điều 13.16 EVFTA.
23 Mục 2.2 Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
24 Mục 2.2 Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016.
25 Xem chẳng hạn: Ngô Quốc Chiến, 2019, “Vấn đề nhân quyền trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 2(370), tháng 2 năm 2019, tr. 47-62; Lê Thị Hoài Thu và Vũ Công Giao (đồng chủ biên),
Ảnh hưởng của thương mại tự do đến nhân quyền, Nxb. Hồng Đức 2016.
ý của EVFTA là, trong khi sự vi phạm các
quyền con người cơ bản (nhóm quyền con
người thế hệ thứ nhất) bị coi là vi phạm cơ
bản PCA, thì sự vi phạm các quy định về
môi trường, lao động và phát triển bền vững
chỉ được giải quyết theo các cơ chế hòa giải
thông qua các cuộc tham vấn chính phủ20 và
ý kiến của các hội đồng chuyên gia21 (các
tranh chấp liên quan tới Chương 13. Thương
mại và phát triển bị loại trừ trong phạm vi áp
dụng của cơ chế giải quyết tranh chấp thiết
lập tại Chương 15 của EVFTA)22.
3. Đối sách của Việt Nam
Việc tham gia EVFTA (cũng như các
hiệp định thương mại tự do khác) buộc
chúng ta phải tuân thủ các “luật chơi”
chung23, nhưng điều này không đồng nghĩa
với việc chúng ta chấp nhận toàn bộ các
chuẩn mực, giá trị của đối tác. Ngược lại,
việc hội nhập kinh tế quốc tế luôn phải bám
sát mục đích “vì lợi ích quốc gia - dân tộc”24.
Một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng,
giữa pháp luật Việt Nam và EVFTA còn khá
nhiều điểm chưa tương thích, đồng thời các
nghiên cứu đó đưa ra một số đề xuất sửa đổi
cụ thể25. Theo tinh thần của Nghị quyết số
06-NQ/TW ngày 5/11/2016 cảu Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII, trong thời
gian tới, Việt Nam sẽ phải nội luật hóa các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 8(384) T4/2019
quy định của EVFTA26. Tuy nhiên, ở đây
cần lưu ý rằng, khi chưa nội luật hóa được
các quy định của EVFTA, chúng ta vẫn phải
tuân thủ các cam kết trong hiệp định này, bởi
lẽ, theo quy định của Luật Điều ước quốc tế
năm 2016, các quy định của điều ước quốc
tế sẽ phải được ưu tiên áp dụng so với pháp
luật quốc gia, trừ Hiến pháp27.
Một nghiên cứu của Ủy ban Liên
hiệp quốc về Nhân quyền (United Nations
High Commissioner for Human Rights -
OHCHR) cho biết, việc thực thi các cam kết
về nhân quyền của một quốc gia chịu sự tác
động tổng hòa của nhiều yếu tố chính trị,
pháp luật, thể chế. Theo OHCHR, khả năng
quốc gia đó có thể đảm bảo và tôn trọng
nhân quyền phụ thuộc rất nhiều vào mức độ
quản trị quốc gia (good governance). Ủy ban
cũng đưa ra một số yếu tố để đánh giá bao
gồm chất lượng quá trình chính phủ được
lựa chọn, giám sát và thay thế, khả năng
của chính phủ trong việc xây dựng, thi hành
chính sách và mức độ tôn trọng của người
dân và chính quyền đối với các thể chế28.
Phân tích các chỉ số của Việt Nam giai đoạn
1996-201629 cho thấy, quá trình thực thi các
cam kết về nhân quyền của Việt Nam gặp
phải một số thách thức sau:
Thứ nhất, chất lượng và hiệu quả
Chính phủ trong việc xây dựng các chính
sách, quy định pháp luật ở Việt Nam còn
khá thấp. Chỉ số Regulatory Quality (phản
26 Mục 2.2. về Hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
27 Khoản 1 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định
của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”. Nguyên tắc ưu tiên điều ước quốc tế so với pháp luật quốc gia cũng được cụ
thể hóa trong nhiều lĩnh vực pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 665), Luật Thương mại (Điều 5),
Luật Đầu tư năm 2014 (Điều 4)
28 United Nations High Commissioner for Human Rights (OHCHR), Good Governance and Human Rights, https://www.
ohchr.org/EN/Issues/Development/GoodGovernance/Pages/GoodGovernanceIndex.aspx, (truy cập ngày 10/3/2019).
29 Có thể xem được tại: (truy cập ngày 25/3/2019).
30 Amine THABET, “Droits de l’homme et action extérieure de l’Union européenne : entre syncrétisme et recherche de
cohérence” (Nhân quyền và chính sách đối ngoại của EU: đi tìm sự thống nhất trong mớ hổ lốn). Xem tại :
eu/upload/files/801262982_DROITS%20DE%20L%E2%80%99HOMME%20ET%20ACTION%20EXTERIEURE.
doc (truy cập ngày 25/3/2019).
ánh khả năng Chính phủ xây dựng các chính
sách, quy định) ở Việt Nam chưa tới 30 (trên
thang điểm 100), mặc dù từ năm 1996 -
2016, chỉ số này có tăng nhưng tốc độ tăng
rất chậm. Với tình hình này, trong thời gian
tới, việc ban hành và thực thi chính sách và
pháp luật bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam sẽ
gặp nhiều khó khăn và có độ trễ nhất định.
Thứ hai, việc thực thi một số khía
cạnh nhân quyền tại Việt Nam gặp phải một
số trở ngại xuất phát từ cách hiểu không
giống nhau về vấn đề dân chủ và tự do ngôn
luận. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế
giới (World Bank), mức độ tự do bày tỏ
quan điểm của người dân, mức độ tham gia
của người dân vào việc lựa chọn Chính phủ
(Voice and Accountability) còn thấp (chỉ đạt
10 trên thang điểm 100) và đặc biệt là chỉ số
này giảm dần từ năm 1996 - 2016.
Thứ ba, đến năm 2016, chỉ số kiểm
soát tham nhũng (Control of Corruption)
của Việt Nam có tăng nhưng vẫn chưa đạt
50/100. Do đó, việc thực thi các cam kết
trong lĩnh vực đấu tranh với tham nhũng,
tăng cường minh bạch hóa chính sách của
Việt Nam sẽ không hề dễ dàng.
Một nghiên cứu khác đã cho thấy, EU
không nhất quán khi áp dụng các quy định
trừng phạt khi bên kia vi phạm các cam kết
về nhân quyền. Dường như EU đã và đang
áp dụng chính sách “mềm nắn rắn buông”30.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 8(384) T4/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amine THABET, “Droits de l’homme et action extérieure de l’Union européenne: entre syncrétisme et
recherche de cohérence” (Nhân quyền và chính sách đối ngoại của EU: đi tìm sự thống nhất trong mớ hổ
lốn).
ACTION%20EXTERIEURE.doc (truy cập ngày 25/3/2019).
2. Ngô Quốc Chiến, 2019, “Vấn đề nhân quyền trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 2(370), tháng 2 năm 2019, tr. 47-62.
3. European Parliament, “The European Parliament's role in relation to human rights and trade agreements
[The role of the European Parliament in the field of human rights in trade and investment agreements]”,
EXPO / B / DROI / 2012- 09, February 2014.
(truy cập ngày 10/2/2019).
4. EU Annual Report on Human Rights and Democracy in the World 2017, download tại:
consilium.europa.eu/media/35383/st09122-en18.pdfngày 29/5/2018, 74-76.
5. Nicolas Pigeon, “L’accord de libre-échange UE-Viêt Nam: une hiérarchisation des objectifs de l’action
extérieure au détriment de sa cohérence?” (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU: thứ tự hóa các
mục đích ảnh hưởng đến sự thống nhất của chính sách đối ngoại?), European Papers, Vol. 1, 2016, no
2, European Forum, Insight of 14 August 2016, pp. 691-704.
6. Tobias Dolle, “Human Rights Clauses in EU Trade Agreements: The New European Strategy in Free
Trade Agreement Negotiations Focuses on Human Rights – Advantages and Disadvantages”, trong Weiß,
Norman, Thouvenin, Jean-Marc (Eds.), The Influence of Human Rights on International Law (2015),
Springer International Publishing Switzerland, 223-225.
7. United Nations High Commissioner for Human Rights (OHCHR), Good Governance and Human Rights,
https://www.ohchr.org/EN/Issues/Development/GoodGovernance/Pages/GoodGovernanceIndex.aspx,
(truy cập ngày 10/3/2019).
Các biện pháp mà EU áp dụng đối với các
quốc gia vi phạm nhân quyền mang tính
phân tán, ngoại lệ, lựa chọn và không nhất
quán. EU tỏ ra cứng rắn đối với các quốc
gia có vị thế kém về kinh tế và yếu về quân
sự31. Đối với các cường quốc về kinh tế và/
hoặc quân sự và/hoặc địa chiến lược, việc
áp dụng các chế tài trừng phạt của EU gần
như không xảy ra và nếu có thì cũng hết sức
mềm dẻo và thường thông qua các cơ chế
của Liên hiệp quốc.
Điều này cho thấy rằng các FTA, trong
đó có EVFTA, mặc dù là các điều ước quốc
31 Các nước từng bị EU trừng phạt vì vi phạm nhân quyền chủ yếu là các quốc gia châu Phi và châu Á, như: Angola,
Bờ Biển Ngà, Cộng hòa Công Gô, Etiopia, Liberia, Libya, Nigeria, le Sierra Leone, Somalia, Soudan, Zimbabwe,
Afghanistan, Myanmar, Indonesia, Triều Tiên, Iran, Irak, Libanon, Belarussia, Moldavie, Ouzbékistan.
tế về thương mại mang tính pháp lý, nhưng
việc thực thi phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố
kinh tế - chính trị. Vì vậy, bên cạnh việc hài
hòa hóa các quy định của pháp luật quốc gia
với các cam kết quốc tế, Việt Nam cũng phải
chuẩn bị cả các yếu tố về địa chính trị khi
tham gia cuộc chơi kinh tế toàn cầu. Có như
thế chúng ta mới có thể vừa hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 8(384) T4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_gia_tri_nhan_quyen_thong_qua_cac_hiep_dinh_thuong_mai_tu.pdf