Các màn phù phép trong báo cáo tài chính
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Có nhiều lý do khiến các bản báo cáo tài chính không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm.
Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. Lấy Enron làm ví dụ, chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron nhanh chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực khoản 30 tỷ và kết cục sau cùng là phá sản.
Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những thủ thuật hợp pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán, mà các doanh nghiệp Mỹ thường sủ dụng, song cũng không mấy xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
12 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1937 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Các màn phù phép trong báo cáo tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các màn "phù phép" trong 
Báo cáo tài chính 
Có nhiều lý do khiến các bản báo cáo tài chính 
không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị 
đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao 
đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi 
của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo 
ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng 
tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ 
một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ 
phiếu bị sụt giảm. 
Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác 
hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy 
nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra 
ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu 
tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông 
tin, hậu quả sẽ khó lường. Lấy Enron làm ví dụ, chính kỳ vọng 
quá lớn của thị trường đã đẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi 
gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron nhanh 
chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD so với giá trị thực khoản 
30 tỷ và kết cục sau cùng là phá sản. 
Trong bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những thủ thuật hợp 
pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán, mà các doanh nghiệp Mỹ 
thường sủ dụng, song cũng không mấy xa lạ với doanh nghiệp 
Việt Nam. 
Phù phép thông qua các ước tính kế toán 
Trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử 
dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings 
management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của 
công ty. Vì không có một tiêu chuẩn chính xác về giá trị các ước 
tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để phù phép 
lợi nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp 
như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn 
kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài 
sản bị giảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi 
phí không đủ điều kiện... 
 Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực 
chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi 
nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận 
các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng 
cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải 
được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù 
phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở 
lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng 
là điều khó tránh khỏi. 
Phù phép thông qua các giao dịch thực 
Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp 
còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số 
giao dịch thực (Real earnings management) nhằm tăng lợi nhuận 
trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi 
cho công ty về lâu dài. 
Ø Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tín dụng 
Một biện pháp các doanh nghiệp thường sủ dụng để tăng lợi 
nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá 
bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng 
bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Biện pháp thứ hai là 
công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng lợi 
nhuận Quí IV/2007, một công ty sản xuất ôtô có thể công bố kế 
hoạch tăng giá bán từ Quí I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 
sẽ tưng vọt. Hai biện pháp này cho phép công ty tăng lợi nhuận 
trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực 
chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm sau sang năm hiện tại. 
Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh 
tranh của công ty trên thị trường. 
Ø Cắt giảm chi phí hữu ích 
Cắt giảm chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu và phát triển 
(R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu, bảo dưỡng thiết bị cũng 
là cũng là một cách có thể làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì các 
chi phí này có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của 
công ty về lâu dài, nên sử dụng giải pháp này cũng đồng nghĩa 
với việc hy sinh các khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai. 
 Ø Trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc các 
khoản đầu tư không hiệu quả 
Đối với các tài sản doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hoặc 
các khoản đầu tư không mang lại hiệu quả, giải pháp tối ưu là 
thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường 
đem lại một khoản lỗ cho công ty trong năm hiện tại. Do đó, nếu 
lợi nhuận trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức kỳ 
vọng của thị trường, lãnh đạo công ty có thể không muốn thanh 
lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt hại cho công ty như làm 
phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không gian sản xuất. Với các 
tài sản và các khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, 
doanh nghiệp càng lỗ 
 Ø Bán các khoản đầu tư hiệu quả 
Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty 
có thể bán các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận 
cho năm hiện tại. Động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, 
áp dụng biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm 
năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp 
theo. 
Ø Sản xuất vượt mức công suất tối ưu 
Trong điều kiện thông thường, mỗi doanh nghiệp thường xác 
định một mức công suất tối ưu, tuỳ thuộc vào năng lực nội tại 
cũng như điều kiện thị trường Tuy nhiên, trong trường hợp cần 
tăng lợi nhuận, công ty có thể quyết định sản xuất vượt mức công 
suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản 
phẩm nhờ tận dụng chi phí cố định. Mặt trái của biện pháp này là 
máy mó, thiết bị phải làm việc quá mức ảnh hưởng tiêu cự tới 
năng suất và độ bền. Ngoài ra, sản phẩm làm ra nhiều, nếu 
không bán được, sẽ phát sinh chi phí bảo quản và hàng tồn kho 
lâu ngày sẽ bị giảm giá trị. 
Cả hai biện pháp phù phép báo cáo tài chính (dựa trên các ước 
tính kế toán hay các giao dịch thực), về bản chất, chỉ là chuyển 
lợi nhuận của các năm sau sang năm hiện tại. Điểm khác biệt là 
ở chỗ: trong khi sử dụng các ước tính kế toán không làm thay đổi 
khả năng sinh lời đích thực của doanh nghiệp, thì việc sử dụng 
các giao dịch thực để phù phép lợi nhuận sẽ gây ra những ảnh 
hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của công ty trong dài hạn. 
Xét về mặt này, làm tăng lợi nhuận thông qua các ước tính kế 
toán được ưa chuộng hơn. 
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sử dụng các ước tính kế toán 
không đủ sức giúp các doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận kỳ 
vọng và có thể sẽ gặp trở ngại từ phía kiểm toán viên. Do đó, 
doanh nghiệp có thể phải dùng đến các giao dịch thực để tăng lợi 
nhuận. Kiểm toán viên dù phát hiện các thủ thuật này nhưng vì nó 
tuân thủ các chuẩn mực kế toán, nên cũng không thể yêu cầu 
doanh nghiệp điều chỉnh lại. 
Tóm lại, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi 
cho nhà đầu tư cũng như cho chính công ty. Xét trên phạm vi 
toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một 
công ty không chỉ ảnh hưởng riêng đến công ty đó, mà còn làm 
xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường. Để ngăn chặc 
những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các doanh nghiệp 
cần có ý thức cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch cho nhà 
đầu tư. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng cần tỉnh táo để không 
đẩy mọi việc đi quá xa vượt tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nhiều khi 
lợi ích ngắn hạn của “Overvaluation” quá hấp dẫn khiến các 
doanh nghiệp khó có thể cưỡng lại được. Theo như nhận xét của 
Giáo sư M.C Jensen, Giám đốc công ty Tư vấn Quản trị doanh 
nghiệp Monitor Group: “Overvaluation cũng giống như một loại 
heroin. Nó mang cho ta cảm giác lâng lâng lúc ban đầu, nhưng 
không lâu sau đó sẽ là những nối đau không cùng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_man_phu phep trong bao cao tai chinh.pdf