The Mekong Delta has about 48,822 hectares of coastal sand dunes. It is the narrow land strips
distribute parallel to the coastlines, concentrated mainly in the coastal provinces having river mouths as Tien
Giang, Ben Tre, Tra Vinh, Soc Trang and Bac Lieu. The sand dunes have light soil mechanics; the main
characteristics are typical sandy loam soil, slightly acidity, low natural fertility, absorbable water and often dried
in the top layer. However, the sand dunes are places having relatively high population density, there is quite
diverse on agriculture - forestry - fishery production. They are key areas providing all kinds of vegetables,
poultry – cattle husbandry, forestry plantings, agriculture and fishery services, agricultural and seafood
processing and aquaculture sources to coastal neighborhood areas.
During the past decade, the coastal sand dunes were under a number of adverse effects due to
unfavorable weather, such as rising high temperatures, abnormal rainfall, cyclones, erosion and salinization. The
trends of unfavorable climate create many potential risks to the lives and livelihoods of the people. This paper is
to summarize the fieldwork surveys, to outline discussions with different livelihood groups, to recognize and to
evaluate the adaptability of the agriculture, forestry and fishery cultivation models in communities at the local
communes, there are reasonable copings with climate change impacts. The study also suggested policy
improvements for creating incentives in the long-term sustainable development for the region.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 875 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Các mô hình canh tác ứng phó với biến đổi khí hậu cho vùng đất giồng cát ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long - Lê Anh Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
CHO VÙNG ĐẤT GIỒNG CÁT VEN BIỂN 
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Lê Anh Tuấn1 – Hoàng Thị Thuỷ2 - Võ Văn Ngoan3 
TÓM TẮT 
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có khoảng 48.822 ha đất giồng cát ven biển. Đó là những dải đất hẹp 
phân bố song song với bờ biển, tập trung chủ yếu ở các tỉnh có cửa sông như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh 
Sóc Trăng và Bạc Liêu. Vùng đất giồng cát có thành phần cơ giới nhẹ, đặc điểm thổ nhưỡng chính là nhóm đất 
thịt pha cát, hơi bị phèn, độ phì tự nhiên thấp, dễ thoát nước và thường bị khô hạn ở tầng đất mặt. Tuy vậy, vùng 
đất giồng là nơi có mật độ dân cư tương đối cao, tồn tại nhiều hoạt động sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khá 
đa dạng. Đây là khu vực cung cấp chủ lực các loại rau màu, chăn nuôi gia súc- gia cầm, trồng cây lâm nghiệp, 
dịch vụ nông ngư nghiệp, chế biến nông hải sản và một số nguồn nuôi trồng thuỷ sản cho các vùng ven biển lân 
cận. 
Trong khoảng thập niên vừa qua, vùng giồng cát ven biển chịu một số tác động bất lợi do thời tiết 
không thuận lợi như nhiệt độ gia tăng, mưa bất thường, lốc xoáy, sạt lở và xâm nhập mặn. Xu thế biến đổi khí 
hậu bất lợi tạo nên nhiều rủi ro tiềm tàng cho sinh kế và đời sống của người dân. Nghiên cứu này tổng kết các 
điều tra thực địa, trao đổi với các nhóm sinh kế khác nhau, ghi nhận và đánh giá khả năng thích ứng của các mô 
hình canh tác nông lâm ngư của các cộng đồng cấp xã ở địa phương, có thể ứng phó hợp lý với các tác động 
biến đổi khí hậu. Nghiên cứu cũng đề xuất những cải tiến về chính sách tạo nên động lực cho sự phát triển bền 
vững lâu dài cho khu vực. 
Từ khoá: Biến đổi khí hậu; Đồng bằng Sông Cửu Long; Giồng cát ven biển; Mô hình canh tác; Ứng phó hợp lý. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) ở Việt Nam là vùng hạ lưu cuối cùng của lưu vực 
sông Mekong trước khi chảy ra Biển Đông. Vùng ĐBSCL có 4 triệu ha đất tự nhiên, trong đó 
khoảng 3,8 triệu ha là đất sử dụng cho nông - lâm - ngư nghiệp. Đây là vùng canh tác nông 
nghiệp và thuỷ sản lớn nhất Việt Nam, đảm bảo an ninh lương thực và đóng góp phần lớn 
xuất khẩu nông thuỷ sản cho quốc gia. Đồng bằng có gần 19 triệu cư dân sinh sống, phần 
đông tập trong dọc theo các tuyến kênh rạch và vùng ven biển. Sông Mekong chảy vào Việt 
Nam bằng hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu và tiếp tục phân thành những nhánh 
sông nhỏ mang phù sa bồi đắp cho vùng ven biển Đông. Quá trình kiến tạo qua tương tác 
sông – biển ở phía Đông vùng đồng bằng đã tạo nên những vạt trầm tích phù sa và bồi dần 
qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển, dần dần hình thành giồng cát ven biển. Cát 
trên đất giồng có màu vàng, vàng xám đến vàng nâu. Vùng giồng cát là những dải đất hẹp, 
mang dấu vết của bờ biển ngày xưa nên các giồng cát chạy song song với vùng ven bờ biển, 
tập trung ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Tiền Giang (Hình 1). Tổng diện tích 
hiện có của các giồng cát ở ĐBSCL là 48.822 ha, chiếm 1,2 % tổng diện tích đất tự nhiên 
của ĐBSCL. Hai tỉnh có diện tích đất giồng cát nhiều nhất vùng đồng bằng là Trà Vinh 
(14.806 ha) và Bến Tre (14.248 ha). Có một số nơi, đất giồng bị lấp chìm dưới lớp đất phù sa, 
gọi là giồng chìm như ở Gò Công, Tiền Giang 
 Đặc tính dễ nhận biết của vùng đất giồng là nơi có địa hình tương đối cao hơn các 
vùng ven biển khác, cao độ dao dộng từ dưới 1 m đến xấp xỉ 4 m so với mực nước biển nên 
thoát nước dễ dàng trong mùa mưa và dễ bị khô hạn vào mùa nắng. Vùng giồng cát có thành 
1
 Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ, E-mail: latuan@ctu.edu.vn 
2
 Khoa Môi trường và Tài nguyên, Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, E-mail: htthuy@hcmuaf.edu.vn 
3
 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, E-mail: vanngoan_vo@yahoo.com 
phần đất chính là đất thịt pha cát, thành phần cơ giới nhẹ, đất rời rạc, tầng đất mặt hơi bị 
nhiễm phèn, độ phì nhiêu của đất giồng thường là thấp hoặc rất thấp. Đại diện là biểu loại đất 
Fluventic Troposaments theo hệ phân loại USDA/Soil Taxonomy (Võ Quang Minh và Lê 
Văn Khoa, 2013). Vũ Trường Sơn et al. (2009) đã cho rằng khoảng 7.000 năm trước đây, 
mực nước biển ở ĐBSCL đạt mức ngập lụt cao nhất +5 m, sau đó rút dần và hệ quả là tạo nên 
loạt giồng cát. Tuy không phải là vùng đất màu mỡ nhưng vùng đất giồng cát là nơi có mật 
độ dân cư khá đông so với các vùng sát biển như địa hình cao, ít bị úng ngập và đất giồng cát 
mặc dầu không trồng lúa được nhưng lại là vùng có nước ngọt nhờ hiện diện các vỉa nước 
ngầm tầng nông lưu trữ nước mưa và phù hợp với canh tác rau màu, cây ăn trái, cây lâm 
nghiệp và có thể phát triển chăn nuôi gia súc, ươm nuôi thuỷ sản và hình thành các cụm dịch 
vụ công nghiệp chế biến nông thuỷ sản và tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho các khu vực lân 
cận ven biển. 
Hình 1: Bản đồ phân bố các vùng đất giồng cát ven biển ĐBSCL 
 Do đặc điểm là vùng đông dân, có mức sống tương đối nghèo, sống gần bờ biển, 
nguồn nước hạn chế vào mùa khô, có tính đa dạng sinh kế cao nên vùng giồng cát được xem 
là một vùng có hệ sinh thái khá nhạy cảm với các thay đổi về môi trường và các biến động 
của những yếu tố khí hậu như hiện tượng nắng nóng, bốc hơi cao, hạn hán vào mùa khô, mưa 
thất thường, lốc xoáy, ảnh hưởng bão – áp thấp nhiệt đới và nguy cơ nước biển dâng – xâm 
nhập mặn. Người dân sống ở vùng đất giồng cát ven biển đã có những kiểu thích nghi với 
biến đổi khí hậu rất sáng tạo, hình thành nhiều mô hình canh tác nông nghiệp và thuỷ sản khá 
đa dạng. Bài này tổng kết các mô hình canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu qua nhiều đợt 
khảo sát thực địa ở các vùng đất giồng cát khác nhau ở 4 tỉnh ven biển ĐBSCL. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu này dựa vào những quan sát và trao đổi trực tiếp với nông dân và cán bộ kỹ 
thuật ở địa phương như là một phần của phương pháp “Đánh giá nhanh có sự tham gia” 
(Participatory Rapid Appraisal - PRA) (Bishnu, 2003; GIZ, 2010; Lê Anh Tuấn, 2011). Đây 
là phương pháp quen thuộc, thường được áp dụng trong công tác phát triển nông thôn, kết 
hợp với một số bảng câu hỏi hỏi mở. Nhóm nghiên cứu đã tổ chức các chuyến đi thực địa các 
xã có giồng cát ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng và Bạc Liêu trong 3 năm (2012 – 
2014) nhằm thu thập và phân tích các thông tin từ người canh tác trực tiếp, kiểm chứng qua 
các tài liệu, báo cáo từ các tổ chức, nguồn dữ liệu trong nước và quốc tế. Nghiên cứu cũng rà 
soát các tài liệu nghiên cứu về các mô hình triển khai đã có (Nguyễn Bảo Vệ, 2005; Lê Hồng 
Phượng, 2010; Võ thị Gương et al., 2011; Lê Anh Tuấn et al., 2012; 2013). Các thông tin 
chính cần thu thập là xu thế thay đổi khí hậu, thông tin và đánh giá các mô hình/giải pháp 
ứng phó với biến đổi khí hậu đang được triển khai, loại cây trồng – vật nuôi phù hợp với điều 
kiện thổ nhưỡng, địa mạo, phương thức canh tác, lịch thời vụ và các biện pháp hạn chế các 
rủi ro với thời tiết bất thường. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng xem xét các quy hoạch và chính 
sách của địa phương trong việc hỗ trợ cho các loại hình sinh kế ở trong vùng. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Vùng đất giồng cát có địa hình cao hơn các vùng chung quanh, đất có khả năng thấm rút 
nước mưa cao và giữ được trong lớp nước dưới đất tầng nông. Đặc điểm này vừa tạo điều 
kiện phát triển đa dạng canh tác, đồng thời cũng là thử thách cho cư dân sống ở đây. Bảng 1 
so sánh một cách tổng quát các thuận lợi và khó khăn cho sinh kế vùng giồng cát trong ứng 
phó với biến đổi khí hậu. Trong quá trình canh tác và ứng phó với thiên nhiên, nhiều mô hình 
sinh kế hình thành dựa theo đặc điểm đất đai, địa hình, điều kiện khí hậu và yếu tố thị trường. 
Hình 2 là một minh hoạ mặt cắt tiêu biểu các loại hình canh tác ở giồng cát. Bảng 2 liệt kê 
các mô hình canh tác hiện ghi nhận được ở các vùng giồng cát ven biển các tỉnh. 
Bảng 1: Thuận lợi và khó khăn cho sinh kế vùng giồng cát trong bối cảnh biến đổi khí hậu 
Thuận lợi Khó khăn 
• Vùng đất cao, không bị ngập úng, ít bị 
nhiễm mặn nên thuận lợi cho canh tác cây 
màu, chủ yếu là các loại đậu, dưa, hành, 
rau ăn lá, rau củ, bầu bí,  
• Nhờ ưu thế lượng nắng, lượng mưa dồi 
dào, vùng giồng cát có thể canh tác liên 
tục quanh năm, lịch thời vụ có thể thay đổi 
mềm dẽo theo điều kiện khí hậu và yếu tố 
biến động thị trường. 
• Vùng giồng cát có thể phát triển các loại 
cây ăn trái (nhãn, xoài, ), cây công 
nghiệp (dừa, cao cao, ) hoặc cây lâm 
nghiệp (bạch đàn, keo, tre, ). Đây là 
nhóm cây lâu năm chủ lực góp phần giảm 
thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. 
• Điều kiện giao thông thuận lợi cho việc 
chuyển vận, trao đổi nông sản và hàng tiêu 
dùng với thị trường chung quanh. 
• Có thể phát triển chăn nuôi gia súc, gia 
cầm ở quy mô nhỏ và vừa nhờ tận dụng 
lợi thế thực phẩm thừa từ nông nghiệp. 
• Vùng đất giồng thấp gần biển có thể tạo 
nên đa dạng sinh kế nhờ khả năng tạo dịch 
vụ ươm nuôi thuỷ sản, cung ứng nghề cá, 
sửa chữa cơ khí nhỏ, kể cả du lịch. 
• Vào mùa khô, vùng đất giồng cát bị tác 
động của nhiệt độ cao, bốc hơi lớn, gió 
mạnh, mực nước ngầm hạ thấp nên dễ bị 
khô hạn. Đất thấm rút cũng là nguyên 
nhân dễ mất nguồn dinh dưỡng và phân 
bón. Công tác cấp nước sạch rất hạn chế. 
• Vào mùa mưa, vùng đất giồng bị tác động 
do các yếu tố thời tiết cực đoan như mưa 
lớn bất thường, bão và áp thấp nhiệt đới, 
lốc xoáy và sấm sét gây thiệt hại về con 
người, tài sản và hoa màu. Tiến trình nước 
biển dâng – xâm nhập mặn là nguy cơ khí 
hậu lâu dài cho vùng giồng cát. 
• Do thâm canh và tăng vụ liên tục, vùng 
đất giồng đang có những nguy cơ ô nhiễm 
đất và nước, giảm tính đa dạng sinh học 
do sử dụng quá mức các chất hoá dược. 
• Mật độ dân cư đông, nhiều người dân tộc 
(Việt, Hoa, Khmer), trình độ học vấn còn 
thấp nên khó khăn trong triển khai các 
chính sách và tiến bộ kỹ thuật. Xu thế di 
dân lên các vị trí cao hơn sẽ dẫn đến nguy 
cơ giảm diện tích canh tác, cư trú và các 
tài nguyên khác. 
Hình 2: Minh họa mặt cắt tiêu biểu cho các loại hình sinh kế trên vùng đất giồng cát 
Bảng 3: Các mô hình canh tác tiêu biểu trên vùng giồng cát 
Mô hình canh tác phổ biến Đặc điểm canh tác Tiền Giang 
Bến 
Tre 
Trà 
Vinh 
Sóc 
Trăng 
Trồng chuyên canh màu 
(các loại bắp, đậu, dưa, 
hành, rau ăn lá, rau củ, ). 
Mô hình đa canh cây màu 
+ Cao độ 0,6 – 1,2 m 
+ Tưới động lực, tiêu tự chảy 
+ Canh tác quanh năm 
XXX XXX XXX XXX 
Trồng cây ăn trái, cây gỗ, 
kết hợp nuôi gia súc (bò, dê, 
heo và gà) quy mô nhỏ. 
+ Cao độ 1,2 – 3,0 m 
+ Tưới động lực, tiêu tự chảy 
+ Chủ yếu mùa khô 
X XX XX X 
Ươm nuôi thuỷ sản (sò, 
tôm, cá nước lợ) cung cấp 
giống cho các trại nuôi 
+ Cao độ 0,4 – 1,0 m 
+ Bơm nước 
+ Chủ yếu mùa khô 
O XX O X 
Mô hình lúa - tôm kết hợp 
hoặc hai lúa – một màu, 
một vụ lúa –hai vụ màu 
+ Cao độ 0,2 – 0,6 m 
+ Tưới tiêu tự chảy một phần 
+ Canh tác quanh năm 
X X X X 
Ghi chú: XXX: rất phổ biến; XX: tương đối phổ biến; X: ít phổ biến; O: không chắc chắn 
Qua tiến hành PRA, các trao đổi liên quan đến thời tiết bất thường và biến đổi khí hậu, 
người dân cho biết các yếu tố khí tượng – thuỷ văn có ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp 
và thuỷ sản trong năm ở vùng giồng cát không khác biệt nhau nhiều, thể hiện ở hình 3. Các 
nguy cơ cho sản xuất nông ngư ở vùng giồng cát ven biển do bất lợi của biến đổi khí hậu có 
thể tóm tắt ở hình 4. Theo người dân vùng giồng cát, nắng nóng gây khô hạn, mưa bất thường 
(ít mưa hoặc mưa quá lớn, dồn dập) và thời tiết cực đoan là 3 yếu tố gây khó khăn nhất cho 
sản xuất, các yếu tố khác gây hại kể đến bao gồm bão, áp thấp, lốc xoáy,  Để ứng phó với 
các hiện tượng thời tiết bất lợi, nhiều giải pháp được đề xuất áp dụng do nông dân sáng tạo, 
có sự hỗ trợ một phần từ các nhà khoa học và các tổ chức xã hội dân sự. Các giải pháp ứng 
phó được khái quát hoá ở Bảng 4, gồm một số mô hình canh tác đang áp dụng, gồm: 
• Bố trí thời vụ hợp lý, dựa theo mô hình canh tác và điều kiện nước; 
• Chọn lựa cây - con phù hợp, có khả năng chống chịu tốt với thời tiết bất lợi; 
• Áp dụng các giải pháp kỹ thuật để hạn chế yếu tố thời tiết không thuận lợi; 
• Tận dụng phụ phẩm để tăng thu nhập; 
• Tổ chức hợp tác trong sản xuất; 
 Tháng 
Yếu tố thời tiết 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 
Nắng nóng, sóng nhiệt 
Mưa bất thường 
Khô hạn 
Áp thấp nhiệt đới và bão 
Lốc xoáy – gió mạnh 
Sét đánh 
Nhiệt độ thấp, gió lạnh 
Triều cường, nhiễm mặn 
Hình 3: Các yếu tố thời tiết bất thường ảnh hưởng đến canh tác 
Hình 4: Một số tác động của biến đổi khí hậu lên sản xuất vùng giồng cát ven biển 
XU THẾ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 
VÙNG GIỒNG CÁT VEN BIỂN 
TÁC ĐỘNG LÊN SẢN XUẤT 
NÔNG NGHIỆP VÙNG GIỒNG CÁT 
Gia tăng nhiệt độ 
mùa hè 
(nắng nóng, sóng 
nhiệt kéo dài) 
Gây khô hạn, giảm tăng trưởng và 
năng suất cây trồng 
Vật nuôi bị mất nước, chậm lớn, dễ 
bệnh, giảm cung cấp sữa và trứng 
Tôm cá ở ao ươm nuôi bị shock nhiệt, 
chậm lớn, dễ bệnh, nguy cơ chết cao 
Biến động mưa 
bất thường cao 
(giảm mưa đầu 
mùa, tăng tần số và 
cường độ mưa cuối 
mùa) 
Cây trồng bị bệnh, úng ngập, thụ phấn 
giảm, phân bón bị rửa trôi 
Vật nuôi có nguy cơ bị nhiễm lạnh, dễ 
gặp dịch bệnh về thời khí 
Nguồn nước ươm nuôi bị thay đổi độ 
mặn, pH hoặc bị tràn nước, vỡ bờ bao 
Hiện tượng 
thời tiết cực đoan 
(bão, lốc xoáy, 
nước biển dâng, 
xâm nhập mặn) 
Cây trồng bị ngã đổ, hoặc chết, hệ 
thống thuỷ nông bị hư hại 
Vật nuôi dễ nhiễm bệnh, chuồng trại bị 
hư hại, nguồn thức ăn giảm 
Nguy cơ cao bị tràn nước, sạt lở, nhiễm 
mặn, vỡ bờ bao, thất thoát tôm cá 
Bảng 4: Khái quát hoá các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu 
Giải pháp ứng phó Mô hình canh tác tiêu biểu 
o Bố trí thời vụ hợp lý, dựa theo mô hình canh 
tác và điều kiện nước – khí hậu 
o Cân nhắc nhu cầu thị trường 
o Hạn chế trồng vào thời điểm khan hiếm 
nước (tháng 3, 4) 
o Tận dụng mưa cho cây trồng thích hợp 
 Dưa hấu – Đậu xanh – Bắp 
 Đậu phộng – Bắp – Rau 
 Khoai – Bắp – Rau màu 
 Đậu – Dưa – Lúa ngắn ngày 
 Bắp – Lúa – Rau màu 
 Màu – Lúa – Khoai 
 Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ 
o Chọn cây - con phù hợp, chống đỡ tốt với 
thời tiết bất lợi – cây con chịu hạn, chống 
đổ ngã và có thể chịu mặn 
o Ưu tiên cho 1 vụ đậu để giúp đất bổ sung 
thêm nguồn đạm 
o Chọn cây trồng và vật nuôi có thể cung cấp 
nguồn ủ phân hữu cơ 
 Dưa hấu, dưa leo, 
 Bắp nếp 
 Đậu xanh, đậu phộng, đậu nành 
 Hành tím, kiệu, ớt, bầu, bí, khổ qua 
 Khoai củ các loại 
 Chuối, cà 
 Lúa ngắn ngày (< 90 ngày) 
 Chọn giống bò, dê thích hợp 
 Thức ăn gia súc giảm phát thải 
o Áp dụng các giải pháp kỹ thuật để hạn chế 
yếu tố thời tiết không thuận lợi 
o Hạn chế mất nước, giảm công tưới, công 
làm cỏ dại, thất thoát phân bón 
o Kiểm soát dịch bệnh vật nuôi, bổ sung thức 
ăn dinh dưỡng, tăng đề kháng 
o Xây dựng các công trình thuỷ lợi, áp dụng 
phương pháp tưới tiết kiệm nước 
 Sử dụng màng phủ nông nghiệp 
 Đậy rơm giữ ẩm 
 Trồng rau trong nhà lưới 
 Bón phân hữu cơ vi sinh 
 Trồng cây hấp dẫn thiên địch 
 Tưới nhỏ giọt 
 Tưới khô – ướt luân phiên 
 Ao trữ - lót đáy nylon 
 Giảm nhiệt, tăng oxy ao nuôi 
 Dải cây chắn gió (phi lao, dừa) 
 Nâng cao nền chuồng 
o Tận dụng phụ phẩm để tăng thu nhập 
o Tạo sinh kế, thu nhập gia đình 
o Thúc đẩy các dịch vụ đi kèm khác 
 Ủ rơm, bắp cho nuôi heo, bò 
 Nuôi gà vịt với đệm lót sinh học 
 Hầm ủ biogas 
 Dạy nghề làm hàng thủ công 
 Vườn cây ăn trái kết hợp du lịch 
o Tổ chức hợp tác trong sản xuất 
 Mô hình đồng quản lý tai nguyên 
 Câu lạc bộ khuyến nông 
 Tập huấn cộng đồng 
Nhiều ý kiến qua thảo luận với của người dân và cán bộ kỹ thuật địa phương, là nhà 
nước phải có những chính sách phù hợp và kịp thời để giúp người dân ứng phó với biến đổi 
khí hậu tốt hơn, duy trì sản xuất và nâng cao đời sống của người sản xuất. Người dân bày tỏ 
về việc thiếu các thông tin thị trường đầy đủ và chưa có hình thức bảo hiểm sản xuất, nông 
sản khi có thiên tai, dịch bệnh. Cụ thể các đề xuất của người dân liên quan đến chính sách 
bào gồm các điểm chính: 
- Có chính sách hỗ trợ vốn sản xuất, giảm thuế và bớt các thủ tục cho vay mượn; 
- Tổ chức các phương án phòng chống thiên tai và thời tiết bất thường; 
- Cần có quỹ bảo hiểm thiên tai gây mất mùa cho nông dân; 
- Thành lập lực lượng thanh niên xung kích ứng phó mưa bão, cháy rừng; 
- Cung cấp kịp thời thông tin thị trường, diễn biến môi trường, dịch bệnh để nông dân 
có kế hoạch chủ động trong sản xuất; 
- Hình thành và trợ giúp thường xuyên các hình thức hợp tác sản xuất, câu lạc bộ 
khuyến nông, phổ biến kinh nghiệm sản xuất trong nông dân; tạo mối liên kết chặt 
chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ. 
- Duy trì và phát triển diện tích rừng phòng hộ và đặc dụng chống gió bão, sạt lở; 
- Tăng cường quản lý về chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, nguồn thủy sản; 
- Triển khai đề án xây dựng nông thôn mới ở các xã; 
- Tạo điều kiện thuận lợi để các chuyên gia kỹ thuật từ các Viện/ Trường và các tổ 
chức phi chính phủ triển khai các dự án thí điểm liên quan đến sản xuất nông nghiệp 
thích nghi với biến đổi khí hậu. 
4. KẾT LUẬN 
Nhiều mô hình nói trên đã được triển khai ở nhiều vùng giồng cát ven biển ĐBSCL và 
thu được những kết quả rất đáng khích lệ, đặc biệt là các mô hình sản xuất thích nghi với biến 
đổi khí hậu. Tuy nhiên, sản phẩm từ sản xuất nông ngư nghiệp thường bị chi phối lớn do yếu 
tố thị trường và ít được phân tích đầy đủ. Việc triển khai áp dụng các mô hình canh tác nói 
trên cần duy trì theo hướng phát triển bền vững, trong đó vai trò hỗ trợ của chính quyền, các 
nhà khoa học và các tổ chức xã hội dân sự là rất cần thiết. 
Nghiên cứu này đề xuất là cần có những hoạt động tư liệu hoá các mô hình sản xuất trên 
các hệ sinh thái khác nhau. Các mô hình canh tác thành công cần được đúc kết, chia sẻ và 
nhân rộng. Các loại hình sản xuất chưa phù hợp hoặc thiếu tính khả thi, nhân rộng cần được 
đánh giá nguyên nhân, các hạn chế và đề xuất các giải pháp khắc phục. Một điểm xem xét và 
cần triển khai trong các nghiên cứu tới là cần có một quy hoạch chi tiết phát triển kinh tế - xã 
hội các vùng giồng cát ven biển ở ĐBSCL có lồng ghép bối cảnh biến đổi khí hậu trong các 
quyết định. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bishnu B. Hhandari, 2013. Participatory Rapid Appraisal (PRA). Published by Institute for Global 
Environmental Strategies (IGES). 22 pages. 
GTZ (2010). Sổ tay hướng dẫn Công cụ Phân tích Biến đổi Khí hậu. Nhà xuất bản Lao động. 
Le Anh Tuan, Le Van Du and Skinner, T. (ed), 2012, Rapid Integrated & Ecosystem-Based Assessment of 
Climate Change Vulnerability & Adaptation for Ben Tre Province, Vietnam. Completed under the ‘Global 
Cooperation on Water Resource Management’ (WWF and Coca-Cola) and the ‘Capacity building and 
sustainable production’ programme (WWF – DANIDA) by World Wildlife Fund for Nature (WWF). 
Rapid Integrated & Ecosystem-Based Assessment of Climate Change Vulnerability & Adaptation for Ben 
Tre Province, Vietnam. 
Lê Anh Tuấn, 2011. Method for Integrating Climate Change into Local Social Economic Development 
Planning. Agriculture Publishing House (in Vietnamese and English). 46p. 
Lê Anh Tuấn, Trương Quốc Cần, Lê Văn Dũ, Phạm Thị Bích Ngọc, Vũ Thế Thường, Trần Thị Thanh Toan và 
Trần Văn Lợi, 2013. Tổng hợp một số hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Đồng bằng Sông 
Cửu Long. Báo cáo Nghiên cứu kết hợp của SRD – DRAGON – AFAP, 76 trang. 
Nguyễn Bảo Vệ, 2005. Phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho đồng bào 
dân tộc trên đất giồng cát tỉnh Trà Vinh. Đề tài Nghiên cứu Khoa học với Sở Khoa Học Công nghệ và Môi 
trường tỉnh Trà Vinh. 
Nguyễn Hồng Phượng, 2010. So sánh hiệu quả sản xuất của ba mô hình canh tác trên đất giồng cát tại huyện 
Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, trường Đại học Cần Thơ, 124 trang. 
Võ Quang Minh và Lê Văn Khoa, 2013. Giáo trình Quản lý và Khai thác Tài nguyên Đất đai. Nhà xuất bản Đại 
học Cần Thơ, 245 trang. 
Võ Thị Gương, Võ Quang Minh, Dương Nhựt Long, Nguyễn Duy Cần và Đặng Duy Minh, 2011. Xây dựng hệ 
thống canh tác thích hợp trên đất nhiễm mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu tại tỉnh Bến Tre. 
Vũ Trường Sơn, Nguyễn Biểu, Nguyễn Địch Dỹ, Doãn Dình Lâm, Trịnh Nguyên Tính, Trần Trọng Thịnh, 
2009. Tiến hóa Holocen vùng ven biển Hậu Giang. Có thể truy cập từ trang web: 
SUMMARY 
CULTIVATION MODELS COPING WITH CLIMATE CHANGE 
FOR THE COATAL SAND DUNES IN THE MEKING RIVER DELTA 
Le Anh Tuan4, Hoang Thi Thuy, Vo Van Ngoan 
The Mekong Delta has about 48,822 hectares of coastal sand dunes. It is the narrow land strips 
distribute parallel to the coastlines, concentrated mainly in the coastal provinces having river mouths as Tien 
Giang, Ben Tre, Tra Vinh, Soc Trang and Bac Lieu. The sand dunes have light soil mechanics; the main 
characteristics are typical sandy loam soil, slightly acidity, low natural fertility, absorbable water and often dried 
in the top layer. However, the sand dunes are places having relatively high population density, there is quite 
diverse on agriculture - forestry - fishery production. They are key areas providing all kinds of vegetables, 
poultry – cattle husbandry, forestry plantings, agriculture and fishery services, agricultural and seafood 
processing and aquaculture sources to coastal neighborhood areas. 
During the past decade, the coastal sand dunes were under a number of adverse effects due to 
unfavorable weather, such as rising high temperatures, abnormal rainfall, cyclones, erosion and salinization. The 
trends of unfavorable climate create many potential risks to the lives and livelihoods of the people. This paper is 
to summarize the fieldwork surveys, to outline discussions with different livelihood groups, to recognize and to 
evaluate the adaptability of the agriculture, forestry and fishery cultivation models in communities at the local 
communes, there are reasonable copings with climate change impacts. The study also suggested policy 
improvements for creating incentives in the long-term sustainable development for the region. 
Keywords: Climate change; Mekong Delta; Coastal sand dunes; Cropping patterns; Reasonable coping. 
4
 Corresponding author: Le Anh Tuan, E-mail: latuan@ctu.edu.vn 
View publication stats
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_mo_hinh_canh_tac_ung_pho_voi_bien_doi_khi_hau_cho_vung_giong_cat_ven_bien_o_dong_bang_song_cuu_l.pdf