Như vậy, cùng với việc đổi mới tư duy,
hoàn thiện chính sách, PLHS thì cơ chế bảo
đảm đòi hỏi thường xuyên tăng cường hợp tác
quốc tế trong phòng, chống tội phạm với khu
vực và toàn cầu như: hợp tác song phương, đa
phương, tham gia các tổ chức phòng, chống tội
phạm quốc tế nhằm từng bước tiếp cận, chuyển
giao các công nghệ, kỹ năng phòng, chống tội
phạm, nắm bắt kiến thức, công nghệ về sử dụng
các phương tiện công nghệ, kinh nghiệm phòng
ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm do
thực thể AI thực hiện. Đặc biệt, việc có chính
sách liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tinh
thông về AI trong giải quyết, ứng phó cũng là
xu hướng cần triển khai sớm.
Kết hợp nghiên cứu giữa các nhà luật học
với các nhà tâm lý học, khoa học thần kinh,
công nghệ học, ngôn ngữ học, giáo dục học và
kinh tế học trong nghiên cứu về AI, chính sách
để xử lý, kiểm soát thực thể AI và phòng ngừa
thực thể AI vi phạm.
Cùng với với việc đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học, phát triển và sử dụng thành thạo các
ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác
phòng, chống tội phạm, kết hợp với đầu tư kinh
phí mua sắm, trang bị các phương tiện hiện đại
để phát hiện, thu thập các loại tài liệu, chứng cứ
điện tử phục vụ công tác phát hiện, xử lý thì
yêu cầu nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán
bộ là nhiệm vụ quan trọng để chủ động ứng
phó, xử lý.
19 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các mô hình trách nhiệm hình sự đối với thực thể trí tuệ nhân tạo: Từ khoa học viễn tưởng đến viễn cảnh đặt ra trong chính sách, pháp luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội vốn không
được lập kế hoạch trước và không phải là một
phần của kế hoạch phạm tội. Quy tắc này được
xem là TNHS của đồng phạm áp dụng đối với
hành vi của người phạm tội là “hậu quả có thể
xảy ra một cách tự nhiên” của một kế hoạch
mà người đồng phạm đó đồng lõa hoặc trợ
giúp. TNHS dựa trên hậu quả nguy hiểm cho
xã hội có thể xảy ra một cách tự nhiên đã được
công nhận rộng rãi trong nhiều đạo luật và luật
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 9
thành văn quy định chung về TNHS của đồng
phạm [1; p.183].
TNHS dựa trên hậu quả nguy hiểm cho xã
hội có thể xảy ra tự nhiên dường như phù hợp
về mặt pháp lý đối với tình huống trong đó thực
thể AI thực hiện hành vi phạm tội mà người lập
trình phần mềm hay người sử dụng không biết
(nhận thức) được về hành vi đó, không có ý
định thực hiện hành vi phạm tội và không tham
gia thực hiện hành vi phạm tội. Mô hình TNHS
này chỉ cần người lập trình phần mềm hoặc
người sử dụng ở trong trạng thái tinh thần sơ
suất chứ không cần gì hơn. Người lập trình
phần mềm hoặc người sử dụng không cần phải
biết về hành vi thực hiện phạm tội sắp xảy ra
như là một hậu quả của hành vi của họ, nhưng
họ buộc phải biết rằng hành vi phạm tội đó là
hậu quả có thể xảy ra một cách tự nhiên từ
hành động của mình. Như vậy, trong luật hình
sự, người có hành vi sơ suất là người không biết
(nhận thức được) về hành vi phạm tội, nhưng
mà một người bình thường cũng có thể biết về
hành vi phạm tội này do hành vi phạm tội cụ
thể là hậu quả có thể xảy ra một cách tự nhiên
từ hành vi của người đó [21; p.674]. Người lập
trình phần mềm hay người sử dụng một thực
thể AI đáng ra phải biết (nhận thức được) về
khả năng thực hiện hành vi phạm tội cụ thể đó
và phải chịu TNHS đối với hành vi phạm tội cụ
thể cho dù họ không thực sự biết về hành vi này
trên thực tế. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản để áp
dụng TNHS trong trường hợp phạm tội do sơ
suất (hay còn gọi là vô ý vì cẩu thả)22. Như vậy,
mô hình TNHS dựa trên hậu quả nguy hiểm cho
xã hội có thể xảy ra một cách tự nhiên cho phép
áp dụng TNHS dự đoán đối với hành vi sơ suất.
Người lập trình phần mềm hay người sử dụng
bình thường phải dự đoán được hành vi phạm
tội và phải ngăn thực thể AI thực hiện hành vi
này. Tuy nhiên, hậu quả pháp lý của việc áp
dụng mô hình TNHS dựa trên hậu quả có thể
xảy ra một cách tự nhiên đối với hai loại chủ
thể - người lập trình phần mềm hay người sử
________
22 Trong luật hình sự còn gọi trường hợp này là phạm tội do
vô ý vì cẩu thả. Đây là trường hợp chủ thể không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (TG).
dụng lại được tiếp tục cụ thể hóa như sau [1;
p.183]:
(1) Trường hợp mà người lập trình phần
mềm hay người sử dụng sơ suất trong quá trình
lập trình hay sử dụng thực thể AI và không có ý
định thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào.
Đây là trường hợp được coi là hành vi sơ suất
(vô ý) thuần túy, họ đã sơ suất trong hành động
hoặc không thực hiện hành động, do đó, không
có lý do gì mà họ lại phải chịu TNHS đối với
việc này, nếu pháp luật không có quy định khác
về tội phạm do vô ý nào đó.
(2) Trường hợp người lập trình phần mềm
hoặc người sử dụng đã lập trình hoặc sử dụng
thực thể AI một cách có chủ đích và cố tình để
thực hiện hành vi phạm tội thông qua nó, tuy
nhiên, AI lại không thực hiện kế hoạch phạm
tội mà lại thực hiện hành vi phạm tội khác bên
cạnh hoặc thay vì thực hiện hành vi phạm tội đã
được lập kế hoạch. Trường hợp này giống với
quan điểm cơ bản về TNHS dựa trên hậu quả có
thể xảy ra một cách tự nhiên trong trường hợp
áp dụng TNHS đối với đồng phạm.
Tuy nhiên, mô hình TNHS cũng còn vấn đề
cần phải xem xét TNHS của thực thể AI là gì
khi áp dụng mô hình TNHS dựa trên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra một cách tự
nhiên. Thực tế cho thấy có hai hậu quả có thể
xảy ra:
Một là, nếu thực thể AI hành động như một
tác nhân vô tội (vật trung gian), không biết bất
cứ điều gì về hành vi bị cấm theo quy định của
luật hình sự, thì thực thể AI không phải chịu
TNHS đối với hành vi phạm tội đã thực hiện.
Trong tình huống như vậy, hành động của AI
không khác gì so với hành động của AI trong
mô hình TNHS thứ nhất - mô hình TNHS của
chủ thể phạm tội thông qua chủ thể khác.
Hai là, nếu thực thể AI không chỉ hành
động thuần túy như là một tác nhân vô tội (vật
trung gian), nó có sự nhận thức, xử lý và quyết
định, thì bên cạnh TNHS của người lập trình
phần mềm hoặc người sử dụng theo mô hình
TNHS dựa trên hậu quả có thể xảy ra một cách
tự nhiên, bản thân thực thể AI cũng phải chịu
TNHS trực tiếp đối với hành vi phạm tội cụ thể
[1; p.184-185]. Do đó, từ đây dẫn đến mô hình
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19
10
TNHS thứ ba - mô hình TNHS trực tiếp của thực
thể AI (tiểu mục 3 dưới đây).
3. Mô hình trách nhiệm hình sự trực tiếp - thực
thể AI được cho là tương đương với chủ thể
phạm tội là con người kết hợp với chuỗi trách
nhiệm hình sự tương ứng để xử lý toàn diện
Mô hình TNHS thứ ba không cho rằng có
sự phụ thuộc của AI vào người lập trình phần
mềm hay người sử dụng. Mô hình TNHS này
tập trung vào bản thân thực thể AI [22; p.123];
[23; p.623]; [24; p.239] khi AI phát triển ở mức
độ siêu việt nhất (chúng tôi nhất mạnh - TG)23.
Như phân tích ở trên, TNHS đối với một hành
vi phạm tội cụ thể bao gồm yếu tố bên ngoài
(actus reus) và yếu tố bên trong (mens era) của
hành vi phạm tội đó. Bất kỳ chủ thể nào được
chứng minh là có đủ hai yếu tố này liên quan đến
hành vi phạm tội cụ thể đều phải chịu TNHS đối
với hành vi phạm tội đó trên những cơ sở chung.
Do đó, để áp dụng TNHS đối với bất kỳ thực thể
nào, cần phải chứng minh có sự tồn tại của các
yếu tố trong thực thể đó. Vấn đề đặt ra là liệu
thực thể AI này đáp ứng yêu cầu áp dụng TNHS
như thế nào. Thực thể AI có khác biệt so với con
người trong tương lai với sự phát triển vượt bậc,
siêu việt, tự xử lý, tự quyết định của AI thì viễn
cảnh thế nào. Rõ ràng, một thuật toán AI có thể
có nhiều đặc điểm và thuộc tính vượt xa con
người bình thường nhưng các đặc điểm và thuộc
tính đó cần phải là điều kiện để áp dụng TNHS.
Hiện nay, PLHS các nước (trong đó có Việt
Nam), khi một người hay pháp nhân đáp ứng các
yêu cầu về yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong,
TNHS sẽ được áp dụng. Như vậy, trường hợp
thực thể AI có khả năng đáp ứng các yêu cầu cả
yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong và trên thực
tế AI này [6; p.60] đã đáp ứng cả hai yếu tố đó,
thì lôgíc đương nhiên là không có lý do gì mà
________
23 Hiện nay, nhiều nhà tương lai học, công nghệ học, khoa
học thần kinh, ngôn ngữ học... dự đoán rằng năm 2060,
2062... là thời đại của trí thông minh nhân tạo, xuất hiện
Người số. Xem thêm: Toby Walsh, Năm 2062 - Thời đại
của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa dịch, Nxb.
Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.29.
không áp dụng TNHS đối với thực thể AI đó [1;
p.191], cụ thể:
(1) Yếu tố khách quan, nhìn chung, rất dễ
để đánh giá và chỉ ra sự đáp ứng yêu cầu về
yếu tố bên ngoài đối với hành vi phạm tội của
thực thể AI với điều kiện là thực thể AI kiểm
soát một cơ chế cơ học hay cơ chế khác để di
chuyển các bộ phận của mình, bất kỳ hành vi
nào cũng có thể được coi là do thực thể AI
thực hiện.
Ví dụ: Rô-bốt có AI kích hoạt cánh tay điện
tử/thủy lực của mình và di chuyển để tấn công
con người hoặc gây thiệt hại cho xã hội, nếu
thực hiện hành vi này thì có thể coi nó đáp ứng
điều kiện thứ nhất của TNHS là yêu cầu về
khách quan của tội phạm. Còn nếu hành vi phạm
tội được thực hiện do không có hành động gì thì
việc chứng minh lại càng đơn giản hơn. Trong
tình huống này, thực thể AI không cần phải có
hành động gì nên việc thực thể AI không thực
hiện hành động gì là cơ sở pháp lý để áp dụng
TNHS, miễn là được giao nhiệm vụ hành động.
Tuy nhiên, còn trong trường hợp nếu thực thể
AI được giao nhiệm vụ hành động và không
thực hiện nhiệm vụ đó, yêu cầu về khách quan
của tội phạm (actus reus) đối với hành vi phạm
tội cụ thể đã được đáp ứng thông qua việc không
hành động.
(2) Yếu tố chủ quan, việc chứng minh yếu
tố bên trong đối với hành vi phạm tội của thực
thể AI là thách thức rất lớn về mặt pháp lý và là
một vấn đề rất khó chứng minh vì tính phức tạp
của nó (vì hiện nay, trong pháp luật hình sự
nhiều nước, trong đó có Việt Nam, việc chứng
minh yếu tố lỗi của pháp nhân đã là rất khó
khăn và còn nhiều ý kiến khác nhau)24. Ở đây,
________
24 Ví dụ: BLHS Việt Nam năm 2015 quy định bốn điều kiện
để pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu TNHS, trong
đó có điều kiện “hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ
đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương
mại” (điểm c khoản 1 Điều 75). Đây là điều kiện phản ánh
dấu hiệu “lỗi” của pháp nhân. Theo đó, pháp nhân thương
mại phải chịu TNHS khi người đại diện (hoặc người đứng
đầu) của pháp nhân nhận thức rõ hành vi của người đại diện
thực hiện là trái pháp luật, nhưng vẫn chỉ đạo, cho phép,
trực tiếp điều hành hoặc chấp thuận cho người đại diện
thực hiện hành vi đó, nên pháp nhân thương mại bị coi là
có lỗi (TG).
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 11
việc chứng minh yếu tố bên trong là rất khác
nhau đối với từng loại hình thực thể AI. Hầu hết
khả năng nhận thức được phát triển trong công
nghệ AI hiện đại đều mang tính phi vật chất
trong việc áp dụng TNHS. “Sự sáng tạo” là một
đặc tính của con người mà một số loài vật cũng
có. Tuy nhiên, sự sáng tạo không phải là yêu
cầu đối với việc áp dụng TNHS. Yêu cầu duy
nhất về mặt tinh thần (chủ quan) cần để áp dụng
TNHS là sự hiểu biết, ý định, cảm xúc... như
yêu cầu đối với hành vi phạm tội cụ thể và theo
lý thuyết chung trong luật hình sự cả truyền
thống lẫn hiện đại, cụ thể25:
(a) Sự hiểu biết là cảm nhận các dữ liệu
thực tế về mặt giác quan và nhận thức được về
dữ liệu đó. Hiện nay, hầu hết thực thể AI được
trang bị để tiếp nhận dữ liệu đó. Việc cảm nhận
về mặt giác quan đối với những ánh nhìn, giọng
nói, tiếp xúc về thể chất, sờ nắm rất phổ biến
ở hầu hết thực thể AI [25; p.108]. Việc cảm
nhận này giúp chuyển dữ liệu thực tế nhận được
đến đơn vị xử lý trung tâm giúp phân tích dữ
liệu. Quy trình phân tích dữ liệu của AI tương
tự như quy trình nhận thức của con người26. Bộ
não của con người hiểu biết về dữ liệu nhận
được bằng mắt, tai, tay... thông qua việc phân
tích dữ liệu đó. Các thuật toán AI tiên tiến, siêu
việt được lập trình đã cố gắng bắt chước giống
quá trình nhận thức của con người nên các quá
trình này không quá khác biệt, thậm chí ngày
càng siêu việt (chúng tôi nhấn mạnh - TG) [26;
p.190].
(b) Ý định là yêu cầu cao nhất về yếu tố bên
trong [27; p.380-414]. Ý định là ý muốn cụ thể
làm một việc gì đó [14; tr.1167], còn ý định cụ
thể là sự tồn tại của mục đích mà một sự kiện
________
25 Sự nhận thức của máy móc còn có thể được hình thành
theo một trong ba cách sau: (1) Được lập trình; (2) Tự xuất
hiện từ sự phức tạp hoặc (3) Được dạy. Xem: Toby Walsh,
Năm 2062 - Thời đại của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn
Minh Khoa dịch, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh,
2019, tr.74-75.
26 Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động
nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con
đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu
tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong (TG).
thực tế sắp xảy ra. Do kết quả của việc tồn tại ý
định này, người phạm tội đã thực hiện hành vi
phạm tội, có nghĩa là người đó thực hiện yếu tố
bên ngoài của hành vi phạm tội nhưng tình
huống này không chỉ có ở con người. Một thực
thể AI có thể được lập trình với mục đích (hay
mục tiêu) xác định và phải thực hiện hành động
để đạt được mục đích đó thì đây cũng được xem
như tương đương là ý định cụ thể.
(c) Cảm xúc, một số quan điểm của nhà
khoa học cho rằng con người có những cảm xúc
mà thực thể AI không thể bắt chước thậm chí cả
khi sử dụng phần mềm AI tiên tiến nhất, hiện
đại nhất [28; p.215]. Những cảm xúc đó bao
gồm yêu thương, yêu mến, ghét, ghen và nhiều
các cảm xúc khác (thậm chí cả cảm xúc đau
đớn)... sẽ không thể có ở thực thể AI. Tuy
nhiên, với sự phát triển vượt bậc của AI, những
cảm xúc như con người thì thực thể AI cũng có
thể có khả năng bắt chước đúng được, làm thay
được, làm tốt được27. Mặc dù đây là vấn đề
khoa học viễn tưởng, nhưng rõ ràng khoảng
cách giữa khoa học viễn tưởng và thực tế cho
thấy đang xích lại gần nhau (điều này có thể
minh chứng qua nhiều bộ phim khoa học viễn
tượng cho thấy rất nhiều vấn đề tưởng là viễn
tưởng thì đến nay đã trở thành sự thật và hơn cả
sự thật)28;...
________
27 Ví dụ: Rô-bốt Sophia ra mắt vào năm 2015 và được công
nhận là công dân của Arab Saudi vào ngày 25/10/2017, trở
thành “cỗ máy” đầu tiên trong lịch sử làm được điều này.
Tuyên bố trao quyền công dân cho nữ rô-bốt Sophia đã
khiến dư luận tranh cãi dữ dội, vì cho rằng cô nàng rô-bốt
còn được hưởng nhiều quyền lợi hơn cả phụ nữ ở quốc gia
này. Rô-bốt Sophia được thiết kế với mục tiêu có thể học
hỏi tính sáng tạo, cảm thông, lòng trắc ẩn và đặc biệt là trở
thành cỗ máy thiên tài, thông minh hơn con người. Cô nàng
rô-bốt này có thể thực hiện được những cuộc trò chuyện,
giao tiếp khá linh hoạt với khoảng 60 sắc thái cảm xúc khác
nhau. Sophia còn nhiều lần khiến dư luận thế giới dậy sóng
với các phát ngôn sốc, trong đó có tuyên bố: “OK, tôi sẽ hủy
diệt loài người”.
28 Ví dụ: Những phát minh trở thành sự thật từ dự đoán
khoa học viễn tưởng: (1) iPad - 1968: iPad là một món “đồ
chơi công nghệ” đắt tiền và nổi tiếng nhưng phát minh đặc
biệt này đã được mô tả từ cách đây 47 năm qua tác phẩm
“2001 - A Space Odyssey” của nhà văn Arthur C. Clarke vì
trong đó đã đề cập đến thiết bị có tên gọi là “Newspad” với
các tính năng tương tự sản phẩm của “nhà táo”; (2) Xe tăng
- 1903: Những chiếc xe tăng đồ sộ và đầy uy lực trên chiến
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19
12
Do đó, các kỹ sư công nghệ, nhà tương lai
học, nhà luật học... cần phải hợp tác với các nhà
tâm lý học, khoa học thần kinh, ngôn ngữ học
và giáo dục học để lý giải sáng tỏ thêm những
vấn đề này và chứng minh được yếu tố chủ
quan này - thì rõ ràng thực thể AI đã đáp ứng
được [29; p.4]29.
trường, một “con quái vật” bằng thép gây khiếp sợ cho đối
phương với hỏa lực khủng khiếp. Cỗ máy to lớn này đã
được đề cập trong tác phẩm viễn tưởng nổi tiếng “The Land
Ironclads” của tác giả HG Wells vào năm 1903, trong đó có
đoạn mô tả về một thứ có “thân hình bọc sắt” khổng lồ, bắn
ra những viên đạn với tốc độ chóng mặt và sau đó nhanh
chóng biến mất trong màn đêm; (3) Bom nguyên tử: Thứ vũ
khí đáng sợ này được biết đến khi Mỹ thả 2 quả bom xuống
thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản. Đây cũng
một sáng kiến tồi tệ nhất trong lịch sự loài người, nó xảy ra
trong hiện thực từ một nhận định của H.G. Wells trong “The
World Set Free” vào năm 1914; (4) Chat Video: Công nghệ
đàm thoại bằng hình ảnh từ xa đã được dự báo từ năm 1911,
trong cuốn “Ralph 124C 41+”, Hugo Gernsback đã có
những dòng mô tả về cách thức giao tiếp đặc biệt bằng
video, đến năm 1964 thì nhà cung cấp dịch vụ viễn thông
AT&T bắt đầu thử nghiệm tính năng này; (5) Tàu ngầm:
Tàu ngầm được đánh giá là một công trình nghiên cứu rất
có giá trị trong lĩnh vực quân sự của nhân loại. Jules Verne,
tác giả cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng “Hai vạn dặm
dưới biển” - ý tưởng về một con tàu có khả năng hoạt động
dưới mặt nước biển trong một thời gian dài, điều thú vị là nó
đã được viết vào năm 1869; (6) Thẻ tín dụng: Các hình thức
thanh toán và hệ thống tiền tệ toàn cầu cũng vận hành trơn
tru nhờ các máy ATM có mặt ở hầu khắp mọi nơi nhưng nó
đã được tiên đoán từ trước trong cuốn “Looking Backward”
của Edward Bellamy xuất bản năm 1888, trong đó mô tả về
công dân tương lai sử dụng thẻ để thanh toán hàng hóa, dịch
vụ mà không cần phải sử dụng tiền mặt; (7) Con người
chinh phục Mặt trăng: Đây là một điều không tưởng đối với
loài người, nhưng cách đó hàng trăm năm, tác giả Jules
Verne trong tác phẩm “From The Earth To The Moon” của
mình đã mô tả chính xác về cách thức mà chúng ta sẽ đặt
chân lên Mặt trăng, chỉ có khác biệt duy nhất là việc sử
dụng một quả pháo khổng lồ để tạo lực đẩy; (8) Người đột
biến: Mặc dù khái niệm trên đã không còn trở nên xa lạ với
hầu hết chúng ta qua nhiều bộ phim và đến thực tế hiện nay
công nghệ biến đổi gen mới thực sự được nâng lên một nấc
thang mới nhờ sự xuất hiện của CRISPR-Cas 9 (khám phá
vào năm 2003)... và nhiều nhiều lĩnh vực khác nữa; v.v...
Xem: Những phát minh trở thành sự thật từ dự đoán khoa
học viễn tưởng, https://www.lalung.vn/, truy cập ngày
02/10/2019.
29 Hiện nay, nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng như “Hạnh
phúc ảo”, 2013; “Cuộc phiêu lưu vào dải ngân hà”, 2014...
đã phác họa rất rõ về chân dung một người máy có cảm xúc.
Mặc dù là khoa học viễn tưởng, nhưng qua các bộ phim cho
thấy, các nhà tương lai học, tâm lý học, khoa học thần kinh,
Như vậy, nếu một chủ thể đáp ứng yêu cầu
về yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong đối với
hành vi phạm tội cụ thể thì chủ thể đó phải chịu
TNHS. Câu hỏi đặt ra là vậy tại sao một thực
thể AI đáp ứng các yếu tố trên thì lại không đặt
ra vấn đề phải chịu TNHS, mặc dù yếu tố chủ
quan vô cùng khó chứng minh (đã nêu), nhưng
với sự phát triển vượt bậc, siêu việt của AI và
các thuật toán AI có khả năng phân tích điều gì
là bị cấm và điều gì được phép thực hiện [30;
p.68]. Ngoài ra, khi một thuật toán AI vận hành
đầy đủ, không có lý do gì để không sử dụng tất
cả khả năng để phân tích dữ liệu thực tế nhận
được thông qua cơ quan cảm giác. Đặc biệt,
như đã đề cập ở trên, trong tương lai với sự xuất
hiện loại trí tuệ mức siêu việt nhất với tên gọi là
ASI (Artificial Superintelligence) chỉ việc “máy
móc” thông minh siêu việt hơn con người thông
minh nhất trên tất cả các khía cạnh hoàn toàn
đáp ứng yếu tố chủ quan được. Tuy nhiên, cũng
có một vấn đề pháp lý đặt ra là liệu có thể đưa
ra luận cứ bảo vệ trong trường hợp thuật toán
AI gặp trục trặc và các khả năng phân tích
không thể thực hiện được do trục trặc đó hay
không [1; p.184]. Điều này trong quá trình lập
trình, phân tích và trao quyền quyết định cho
thực thể AI cần được làm sáng tỏ.
Tóm lại, TNHS của một thực thể AI không
thay thế TNHS của người lập trình phần mềm
hay người sử dụng nếu TNHS được áp dụng đối
với người lập trình phần mềm và (hoặc) người
sử dụng theo quy định pháp luật khác. Ở đây,
TNHS không tách rời mà được kết hợp. TNHS
của thực thể AI được áp dụng bên cạnh TNHS
của người lập trình phần mềm hay người sử
dụng. TNHS của một thực thể AI cũng không
phụ thuộc vào TNHS của người lập trình phần
mềm hay người sử dụng thực thể AI đó. Do đó,
nếu một thực thể AI cụ thể được lập trình hay sử
dụng bởi một thực thể AI khác, TNHS của thực
thể AI được lập trình hay sử dụng không chịu
ảnh hưởng của thực tế này. Thực thể AI được lập
trình hay sử dụng phải chịu TNHS đối với hành
vi phạm tội cụ thể theo mô hình TNHS trực tiếp
công nghệ học, giáo dục học... đã kết hợp tạo ra một người
máy có cảm xúc thật như con người (TG).
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 13
trừ khi nó là tác nhân vô tội. Cùng với đó, người
lập trình phần mềm hay người sử dụng thực thể
AI đó phải chịu TNHS cho hành vi phạm tội đó
theo một trong ba mô hình TNHS, tùy thuộc vào
vai trò cụ thể của mình trong hành vi phạm tội.
Chuỗi TNHS này có thể tiếp tục nếu có nhiều
bên tham gia hơn, cho dù là con người hay thực
thể AI. Ngoài ra, cũng không có lý do gì loại trừ
TNHS của thực thể AI hay của con người trong
trường hợp có sự thông đồng (nhất trí) giữa hai
chủ thể này. Nếu thực thể AI và một con người
có thể phối hợp như là đồng phạm thì TNHS có
liên quan có thể được áp dụng tương ứng nếu
thỏa mãn các dấu hiệu của đồng phạm/phạm tội
có tổ chức trên những cơ sở chung [31; tr.457-
482]; [32; tr.131-137]. Cùng với đó, lý luận về
đồng phạm/phạm tội có tổ chức trong luật hình
sự tiếp tục cần được nghiên cứu thấu đáo hơn.
TNHS của một thực thể AI theo mô hình
TNHS trực tiếp không khác biệt so với TNHS
có liên quan đối với con người. Trong một số
trường hợp, cần phải điều chỉnh nhưng về cơ
bản, TNHS này giống nhau và dựa trên các yếu
tố và được truy cứu TNHS theo cách thức
tương tự nhau. Vấn đề ở chỗ, khi quy định
TNHS trực tiếp, việc quy định điều kiện TNHS
như thế nào, vấn đề đồng phạm/phạm tội có tổ
chức ra sao và áp dụng, thi hành các chế tài
hình sự đối với đối tượng này sẽ như thế nào.
4. Mô hình kết hợp, đan xen các mô hình trách
nhiệm hình sự đối với thực thể AI
Như vậy, các mô hình TNHS đã nêu không
phải là những mô hình TNHS thay thế cho
nhau. Có thể áp dụng kết hợp các mô hình này
để hình thành bức tranh tổng thể về TNHS
trong vụ án cụ thể nếu có sự tham gia hành vi
của thực thể AI. Ngoài ra, cũng không có mô
hình TNHS nào trong ba mô hình này loại trừ
lẫn nhau. Việc kết hợp, liên hệ và đan xen giữa
các mô hình TNHS được thể hiện như sau [1;
p.182-183]:
(1) Trường hợp khi một thực thể AI đóng
vai trò như là “tác nhân vô tội” (vật trung gian)
trong việc thực hiện hành vi phạm tội cụ thể và
người lập trình phần mềm là người duy nhất chỉ
đạo quá trình phạm tội, thì việc áp dụng mô
hình TNHS của chủ thể phạm tội thông qua chủ
thể khác (mô hình thứ nhất) là phù hợp nhất
trong trường hợp đó.
(2) Trường hợp tương tự, khi bên lập trình
phần mềm chính là thực thể AI (khi một thực
thể AI lập trình cho một thực thể AI khác để
thực hiện hành vi phạm tội cụ thể), mô hình
TNHS trực tiếp (mô hình thứ ba) là phù hợp
nhất để áp dụng đối với bên lập trình thực thể
AI. Như vậy, trong trường hợp này, mô hình
TNHS thứ ba được áp dụng bên cạnh mô hình
TNHS thứ nhất chứ không thay thế cho mô
hình này. Do đó, trong trường hợp đã nêu, bên
lập trình phần mềm cho thực thể AI phải chịu
TNHS theo mô hình kết hợp giữa mô hình
TNHS của chủ thể phạm tội thông qua chủ thể
khác và mô hình TNHS trực tiếp.
(3) Trường hợp nếu thực thể AI đóng vai
trò là bên thực hiện hành vi phạm tội cụ thể trên
thực tế nhưng hành vi đó không được lập kế
hoạch trước, thì có thể áp dụng mô hình TNHS
dựa trên hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể
xảy ra một cách tự nhiên (mô hình thứ hai).
Người lập trình phần mềm có thể được coi là có
hành vi sơ suất (vô ý do cẩu thả) nếu hành vi
được thực hiện một cách không cố ý hay người
lập trình phần mềm có thể phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm cho hành vi phạm tội cụ thể đó nếu
một hành vi phạm tội khác đã được lên kế
hoạch một cách có chủ đích nhưng hành vi
phạm tội cụ thể đã xảy ra không phải là một
phần của kế hoạch phạm tội ban đầu. Tuy
nhiên, khi bên lập trình phần mềm không phải
là con người, cần áp dụng mô hình TNHS trực
tiếp (mô hình thứ ba) bên cạnh việc áp dụng
đồng thời mô hình TNHS dựa trên hậu quả
nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra một cách tự
nhiên, tương tự như trường hợp người phạm tội
thực tế là con người nhưng người lập kế hoạch
lại là thực thể AI (mô hình thứ hai).
Tóm lại, sự đan xen, liên hệ và kết hợp cả
ba mô hình TNHS này tạo ra một mạng lưới
TNHS đan xen, tổ hợp trong việc xác định
TNHS đúng đắn của một thực thể trừu tượng
cùng với cá nhân, pháp nhân và thực thể AI.
Việc áp dụng kết hợp và phối hợp giữa ba mô
hình TNHS có thể lại dẫn đến một tình huống
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19
14
pháp lý mới trong bối cảnh cụ thể của các thực
thể AI và luật hình sự. Cụ thể, khi có sự tham
gia của thực thể AI [33]; [34; tr.1] và con người
một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình
thực hiện hành vi phạm tội, sẽ rất khó để trốn
tránh TNHS. Một điều quan trọng là tất cả các
thực thể - cá nhân, pháp nhân hay AI đều chịu
sự điều chỉnh của PLHS nếu xâm phạm đến các
lợi ích mà PLHS bảo vệ mặc dù hiện nay,
TNHS đối với thực thể AI vẫn được xem là một
điều viển vông, khoa học viễn tưởng, thậm chí
không tưởng, nhưng dù là vậy, việc nghiên cứu,
dự liệu và đặt ra vấn đề này là cần thiết đối với
các nhà tương lai học, công nghệ học, tâm lý
học và nhà hình sự học để hoạch định chính
sách hình sự và xây dựng, hoàn thiện hệ thống
PLHS trong tương lai không xa.
III. Một số viễn cảnh đặt ra trong chính sách,
pháp luật hình sự Việt Nam tương lai
1. Nhận xét
Như vậy, với sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ AI đòi hỏi phải có các giải pháp
pháp lý (cả PLHS) phù hợp để bảo vệ xã hội
khỏi những nguy hiểm có thể xảy ra từ các loại
hình công nghệ vốn không chịu sự điều chỉnh
của pháp luật, đặc biệt là PLHS [3; p.273]. Đây
là một quá trình phức tạp và tranh luận kéo dài.
Lấy ví dụ đơn giản, đối với thế giới khi bổ sung
TNHS của pháp nhân, mặc dù pháp nhân đã tồn
tại dưới hình thức hiện đại kể từ thế kỷ 14,
nhưng phải mất hàng trăm năm để điều chỉnh
pháp nhân theo quy định của pháp luật, đặc biệt
là PLHS [34; p.411, p.419]. Ngay vào giữa thế
kỷ XIX, các Tòa án Anh, xuất phát từ chính
sách hình sự mềm dẻo và những lý do khá thực
dụng đã tái thiết lập TNHS của pháp nhân [35;
tr.13]. Pháp nhân tham gia đầy đủ vào cuộc
sống của con người và thật là thiếu sót khi pháp
nhân không chịu sự điều chỉnh của pháp luật
của con người do các hành vi phạm tội được
thực hiện bởi pháp nhân hoặc thông qua đại
diện của pháp nhân. Tuy nhiên, pháp nhân
không phải là một cơ thể hay linh hồn. Các giải
pháp về pháp lý được đưa ra liên quan đến
TNHS theo đó pháp nhân có thể chịu TNHS khi
đáp ứng các yêu cầu về yếu tố bên ngoài và yếu
tố bên trong [1; p.200]. BLHS nhiều quốc gia,
trong đó có BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi
năm 2017 đã bổ sung thêm chủ thể của tội
phạm là “pháp nhân thương mại” cùng với cá
nhân phạm tội (mặc dù còn có ý kiến coi pháp
nhân chỉ là chủ thể của TNHS) [36; tr.3-12];
[37; tr.14-15]; [38; tr.341-324]. Đây là một sự
tiến bộ đáng ghi nhận trong lịch sử lập pháp
hình sự nước ta, cũng là một điểm thay đổi tư
duy pháp lý trong PLHS. Pháp nhân được coi là
một “thực thể trừu tượng” được tạo ra bởi pháp
luật thì không có lẽ gì - có thể là khoa học viễn
tưởng, nếu đáp ứng tất cả các điều kiện cụ thể,
có thể áp dụng TNHS đối với cả thực thể AI
(bên cạnh cá nhân, pháp nhân) (tương lai chúng
ta hãy cùng chờ xem). Vì vậy, thực tiễn phát
triển của khoa học công nghệ đòi hỏi các nhà
lập pháp phải có các giải pháp về phương diện
pháp lý hiện đại để giải quyết những vấn đề của
thời đại, cũng như xây dựng chính sách để đáp
ứng nhu cầu điều chỉnh trong tương lai. Do đó, từ
việc nghiên cứu các mô hình TNHS dự kiến (đã
nêu) cho thấy có một số viễn cảnh đặt ra trong
chính sách, PLHS Việt Nam tương lai có ý nghĩa
cấp bách mà các tiểu mục 2 - 6 dưới đây sẽ cùng
giải quyết.
2. Các cỗ máy mang AI sẽ có sự thay đổi, phát
triển vượt bậc, siêu việt và không dự đoán được
Hiện nay, con người và thế giới (trong đó
có Việt Nam) đang đứng tại thời điểm lịch sử
chưa từng có khi các cỗ máy AI sẽ đưa ra các
quyết định có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực
trong cuộc sống. Cụ thể, nhiều quyết định quan
trọng với con người đã và đang được đưa ra thông
qua các cơ chế và công cụ AI. Tháng 7/2017, AI
của Facebook vốn được dạy dỗ bằng tiếng Anh,
nhưng dường như nó đã chán ngán với những
sắc thái và sự không nhất quán của thứ ngôn
ngữ này, thay vì tiếp tục sử dụng tiếng Anh,
chúng đã tự mình phát triển một hệ thống các
mã mới để giao tiếp hiệu quả hơn - một ngôn
ngữ mới hình thành. Những điều này khiến
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 15
những câu chuyện viễn tưởng về người máy
(rô-bốt) thay thế con người và ngày càng khẳng
định và sự lo lắng là điều có thể hiểu được.
Ngay từ thủa AI còn sơ khai, con người đã
được bao quanh những câu chuyện viễn tưởng
mà nơi đó rô-bốt thống trị và loại người diệt
vong. Những câu chuyện đó dù không có thực
nhưng đã khiến chúng ta mặc định sẵn những
thành kiến về AI [17; tr.1231]30. Hay công ty
bảo hiểm từ chối thanh toán các khoản bảo
hiểm sức khỏe dựa trên thuật toán đánh giá rủi
ro, hay cảnh sát quyết định bắt giữ cá nhân nào
đó do do nghi ngờ lên kế hoạch phạm tội dựa
trên một mô hình dự báo từ siêu máy tính xử lý
dữ liệu... Ngoài ra, một xu hướng mới trong
ngành công nghiệp rô-bốt là học tăng cường sâu
(deep reinforcement learning) khi mà nhà thiết
kế chỉ đơn giản vạch ra các mục tiêu hành vi của
hệ thống và nó tự động học hỏi bằng các tương
tác trực tiếp với môi trường. Điều này dẫn tới hệ
quả một hệ thống còn khó hiểu hơn. Mặt khác,
khi AI được sử dụng để hỗ trợ đưa ra án phạt tù
giam, hỗ trợ thẩm phán hay để thực hiện hỗ trợ
thi hành án trong trại giam... rõ ràng cách thức
nhận định và đưa ra quyết định phải rõ ràng và
nhiều tiến bộ, phát triển vượt bậc, siêu việt khác
nữa... Gần đây nhất, theo tác giả Toby Walsh,
với sự phát triển của khoa học và công nghệ,
ông dự báo đến năm 2062 là thời đại của trí
thông minh nhân tạo toàn năng [39; tr.35],
đồng thời đặt ra hàng loạt vấn đề mà thế giới
phải đối mặt như:
(1) Người số31;
________
30 Ví dụ: Trong một lần giao tiếp, Bob và Alice (hai AI của
Facebook) đã từ bỏ sử dụng các cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh
và bắt đầu giao tiếp bằng cách sử dụng thứ ngôn ngữ mà
chúng tự tạo ra. Bob đã mở đầu bằng câu “I can i i
everything else”, Alice đáp lại “balls have zero to me to me
to me”. Và cuộc trò chuyện cứ thế tiếp tục theo cách đó.
Cuộc hội thoại này bao hàm nhiều thứ có nghĩa chứ không
đơn thuần là những gì chúng ta thấy.
31 Người số (Homodigitalis - sự tiến hóa của loài người Homo
dưới dạng kỹ thuật số). Các hoạt động và không gian sinh
hoạt của chúng ta sẽ dần được số hóa, thậm chí có khi chỉ có
thể là trại nghiệm được dưới dạng số hóa mà thôi. Suy nghĩ
của con người sẽ được thay thế bằng tư duy của máy móc.
Cuộc sống của con người trong đời sống thực sẽ được mã
hóa thành thế giới nhân tạo và thực thể ảo... Xem: Toby
Walsh, Năm 2062 - Thời đại của trí thông minh nhân tạo,
(2) Không còn “chúng ta”;
(3) Không còn ý thức;
(4) Không còn công việc;
(5) Không còn chiến tranh;
(6) Không còn giá trị nhân văn;
(7) Không còn bình đẳng;
(8) Không còn riêng tư;
(9) Không còn chính trị;
(10) Phương Tây sụp đổ [39; tr.29-216].
Đáng chú ý, chúng ta cũng cần dự báo khả
năng loài người bị máy móc tàn sát một cách vô
tình hơn là cố ý... [39; tr.57]. Do đó, cùng với
thay đổi của thế giới, những chính sách, pháp
luật liên quan đến lĩnh vực AI cần được đặc biệt
đầu tư, quan tâm và nghiên cứu, nhất là trong
lĩnh vực luật hình sự - việc sử dụng AI hoặc bản
thân AI gắn trong thực thể thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, gây ra thiệt hại (hậu quả)
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền
con người và trật tự, an toàn xã hội32.
3. Thay đổi lớn tư duy trong chính sách, pháp
luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội phạm,
các dấu hiệu trong từng yếu tố cấu thành tội
phạm mà do hành vi của thực thể AI thực hiện
Mặc dù trong thời gian qua, xét riêng lĩnh
vực chính sách, PLHS nước ta còn phản ứng
còn chậm đối với sự phát triển của AI trong
nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy Do đó, từ
những biến đổi liên tục trên, với “giả định”
thực thể AI là chủ thể của tội phạm và phải chịu
TNHS, thì xét riêng trong chính sách hình sự và
PLHS Việt Nam đòi hỏi phải có sự thay đổi tư
duy trong tương lai như sau33:
Đỗ Tôn Minh Khoa dịch, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, 2019, tr.10.
32 Chẳng hạn, hiện nay, trên thế giới ngày càng xuất hiện tội
phạm sử dụng giọng nói AI để đánh cắp tiền. Cụ thể, theo
Nhật báo The Wall Street Journal đưa tin, tội phạm mạng đã
giả mạo thành công giọng nói của giám đốc điều hành của
một công ty năng lượng để yêu cầu chuyển khoản khẩn cấp
243.000 USD trong một cuộc tấn công lừa đảo. Các chuyên
gia về tội phạm mạng gọi đây là một trong những thủ đoạn
bất thường nhất từng được sử dụng liên quan tới trí tuệ nhân
tạo (AI)...
33 Về các nội dung này, chúng tôi sẽ phân tích cụ thể trong
một số nghiên cứu khác sắp tới (TG).
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19
16
(1) Về chính sách hình sự, đòi hỏi phải xây
dựng chủ thuyết, hệ quan điểm để lý giải, giải
thích hàng loạt vấn đề định hướng về TNHS
của thực thể AI, thực thể AI có gì khác biệt so
với pháp nhân trong việc truy cứu TNHS. Liệu
có cần quy định chủ thể của tội phạm mới trong
PLHS không, nếu có quy định như thế nào.
Hiện nay, các thực thể AI dưới dạng rô-bốt
tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động của
con người tương tự như pháp nhân [4; p.267].
Các hành vi phạm tội được thực hiện bởi thực
thể AI hoặc thông qua thực thể AI [4; p.273].
Các thực thể AI không có linh hồn và một số
thực thể AI không có cơ thể hay không có linh
hồn hoặc nếu AI phát triển thì cơ thể và linh
hồn của AI sẽ như thế nào... Điều kiện chủ thể
của thực thể AI bao gồm các điều kiện nào trên
cơ sở khái niệm mới về tội phạm do thực thể AI
thực hiện...
Cùng với đó, cơ sở lý luận, thực tiễn của
những loại tội phạm nào thực thể AI sẽ phải
chịu TNHS, vấn đề đồng phạm giữa thực thể AI
và các chủ thể khác (pháp nhân, cá nhân)... từ
đó đưa ra chính sách xử lý và hệ quan điểm khi
giải quyết vấn đề này và hệ thống chính sách,
pháp luật chung cùng điều chỉnh...
(2) Về PLHS, trên cơ sở chính sách hình sự
trên, trong PLHS cần điều chỉnh hàng loạt vấn
đề liên quan đến tội phạm, cấu thành tội phạm
như: khái niệm tội phạm, các dấu hiệu đặc trưng
trong các yếu tố cấu thành tội phạm do thực thể
AI thực hiện được cụ thể hóa trong PLHS, vấn
đề chủ thể của tội phạm và điều kiện chịu
TNHS, đồng phạm và TNHS trong đồng phạm,
hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự áp
dụng đối với thực thể AI bên cạnh áp dụng với
pháp nhân, cá nhân phạm tội...34.
4. Thay đổi lớn tư duy trong việc quy định chế
tài hình sự đối với thực thể AI và việc quy định
thủ tục, trình tự bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành
________
34 Từ đây, dẫn đến các thay đổi lớn trong pháp luật tố tụng
hình sự, pháp luật thi hành án hình sự và nhiều đạo luật
khác có liên quan (TG).
Tiếp theo “giả định” trên, giả định tiếp rằng
thực thể AI phải chịu TNHS, đồng thời bị truy
tố, xét xử và buộc tội thì việc bắt giữ, điều tra,
truy tố và xét xử thế nào35. Sau khi buộc tội,
Tòa án phải đưa ra bản án đối với thực thể AI
thì hệ thống biện pháp cưỡng chế về hình sự sẽ
áp dụng là gì (có nhiều loại biện pháp cưỡng
chế về hình sự khác nhau, trong đó quan trọng
nhất là hình phạt gì, thi hành thế nào). Tất cả
những vấn đề này cần được dự liệu trong chính
sách hình sự và trong xây dựng, áp dụng PLHS.
Ở đây, chúng tôi ví dụ một loại hình phạt -
biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc
nhất hiện đang áp dụng đối với người phạm tội
là tử hình (còn đối với pháp nhân là đình chỉ
hoạt động vĩnh viễn). Theo đó, tử hình là hình
phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các
nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm
phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma
túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng khác do BLHS quy định. Vì vậy,
câu hỏi đặt ra ở đây, trường hợp thực thể AI
phạm tội cũng tương tự, thì hình phạt áp dụng
đối với thực thể AI này tương tự như hình phạt
tử hình là gì. Rõ ràng, “mạng sống” của một
thực thể AI chính là sự tồn tại độc lập như là
một thực thể. Đôi khi thực thể AI có bề ngoài
thực thể (ví dụ, như là một con rô-bốt), đôi khi
nó chỉ là sự tồn tại một cách trừu tượng (ví dụ,
như là một phần mềm được cài đặt trên một hệ
thống máy tính hay trên một máy chủ mạng
lưới)... [1; p.200]. Do đó, hình phạt tử hình đối
với thực thể AI có thể ví dụ là: xóa bỏ (hủy bỏ)
phần mềm AI kiểm soát thực thể AI (các nhà
công nghệ học cần kết hợp với các nhà luật
học). Tuy nhiên, việc quy định trình tự, thủ tục
thi hành hình phạt này sẽ như thế nào (chưa nói
đến các hình phạt khác và việc quy định thủ tục,
trình tự bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành ra sao...). Những vấn đề này cũng rất quan
trọng khi quy định TNHS đối với thực thể AI
thì việc đặt ra hệ thống chế tài hình phạt dự
________
35 Về nội dung này, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập trong một số
nghiên cứu khác sắp tới (TG).
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 17
kiến áp dụng cũng là nhiệm vụ không kém phần
quan trọng.
5. Phát sinh vấn đề đổi mới tư duy về chính
sách, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi
hành án hình sự, hoàn thiện hệ thống pháp luật
có liên quan
Đây là vấn đề phái sinh từ các vấn đề trên.
Đổi mới chính sách, PLHS cũng có nghĩa đồng
thời phải đổi mới tư duy về xây dựng chính
sách, pháp luật của các luật hình thức... (luật tố
tụng hình sự và luật thi hành án hình sự) trên cơ
sở những định hướng cơ bản trong chính sách,
PLHS, qua đó, tạo hệ thống tổng thể đáp ứng
yêu cầu mới của đất nước và dự báo tương lai.
Ngoài ra, chính sách hình sự đặt ra yêu cầu
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong
lĩnh vực công nghệ thông tin và có liên quan đến
AI như:
(1) Luật Công nghệ cao năm 2008, sửa đổi
năm 2013, 2014;
(2) Luật Công nghệ thông tin năm 2006;
(3) Luật An ninh thông tin mạng năm 2015;
(4) Luật An ninh mạng năm 2018;
(5) Và các văn bản tạo hàng lang pháp lý
điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể như: AI, tiền ảo,
công nghệ in 3D... tạo hệ thống toàn diện, tổng
thể trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm do thực thể AI thực hiện trước thách thức
CMCN 4.0.
6. Nhu cầu lớn trong việc tăng cường hợp tác
quốc tế, cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, đội ngũ chuyên môn tạo tổng thể hệ
thống đáp ứng yêu cầu trước thách thức của
thực thể AI có hoạt động gây ra các hậu quả
nguy hiểm cho xã hội
Như vậy, cùng với việc đổi mới tư duy,
hoàn thiện chính sách, PLHS thì cơ chế bảo
đảm đòi hỏi thường xuyên tăng cường hợp tác
quốc tế trong phòng, chống tội phạm với khu
vực và toàn cầu như: hợp tác song phương, đa
phương, tham gia các tổ chức phòng, chống tội
phạm quốc tế nhằm từng bước tiếp cận, chuyển
giao các công nghệ, kỹ năng phòng, chống tội
phạm, nắm bắt kiến thức, công nghệ về sử dụng
các phương tiện công nghệ, kinh nghiệm phòng
ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm do
thực thể AI thực hiện... Đặc biệt, việc có chính
sách liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tinh
thông về AI trong giải quyết, ứng phó cũng là
xu hướng cần triển khai sớm.
Kết hợp nghiên cứu giữa các nhà luật học
với các nhà tâm lý học, khoa học thần kinh,
công nghệ học, ngôn ngữ học, giáo dục học và
kinh tế học trong nghiên cứu về AI, chính sách
để xử lý, kiểm soát thực thể AI và phòng ngừa
thực thể AI vi phạm.
Cùng với với việc đẩy mạnh nghiên cứu
khoa học, phát triển và sử dụng thành thạo các
ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác
phòng, chống tội phạm, kết hợp với đầu tư kinh
phí mua sắm, trang bị các phương tiện hiện đại
để phát hiện, thu thập các loại tài liệu, chứng cứ
điện tử phục vụ công tác phát hiện, xử lý thì
yêu cầu nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán
bộ là nhiệm vụ quan trọng để chủ động ứng
phó, xử lý...
Tóm lại, nghiên cứu bước đầu về các mô
hình TNHS đặt ra dự kiến có thể áp dụng đối
với thực thể AI là một vấn đề vô cùng khó khăn
và mới tại Việt Nam và cũng trở lên khoa học
viễn tưởng khi “thực thể AI” vẫn do con người
tạo ra và điều kiện chịu TNHS đối với một chủ
thể vẫn đòi hỏi các yếu tố khách quan và chủ
quan. Xã hội luôn biến đổi không ngừng, thay
đổi trong lĩnh vực khoa học và công nghệ thì
ngày càng trở lên như vũ báo và cũng khó dự
đoán khó lường, không thể thấy trước được.
Tuy nhiên, nghiên cứu này bước đầu dự liệu
tương lai viễn cảnh ở nước ta, cũng như có
thêm kiến nghị giúp cho việc nghiên cứu, hoạch
định chính sách hình sự và xây dựng, hoàn
thiện hệ thống PLHS trong bối cảnh CMCN
4.036 [40]; [41; tr.17-18]; [42; tr.204-216]; [43;
tr.9-21], qua đó, không chỉ bảo vệ con người
trước những hành vi nguy hiểm cho thực thể AI
________
36 Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động
tham gia cuộc CMCN lần thứ tư, trong đó tại mục III có đề
ra một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc
CMCN lần thứ tư (TG).
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19
18
thực hiện, mà còn có cơ chế kiểm soát đối với
chủ thể này, nếu tương lai nó là chủ thể của tội
phạm và phải chịu TNHS [39; tr.3-7]37. Mặc dù
vậy, là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam nên
chúng tôi không tránh khỏi có nhận xét, đánh
giá mang tính phỏng đoán, còn mơ hồ và chưa
toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn vững
chắc, nhưng chúng tôi tin rằng, sẽ có nhiều
nghiên cứu sâu, rộng và liên ngành [2]; [44];
[45; tr.1200-1236] về chủ đề này kết hợp trong
tương lai bởi các nhà luật học, dự báo học, khoa
học thần kinh, ngôn ngữ học, công nghệ học và
tâm lý học.
Tài liệu tham khảo
[1] Gabriel Hallevy, The Criminal Liability of
Artificial Intelligence Entities - from Science
Fiction to Legal Social Control, Akron Intellectual
Property Journal, Vol.4: Iss.2, Article, 2010,
https://ideaexchange.uakron.edu/akronintellectual
property/vol4/iss2/1.
[2] I.N. Mosechkin, Artificial Intelligence and
Criminal Responsibility: Problems of the
Formation of a New Type of Crime Subject,
Vestnik SPbGU. Right. 2019.Vol. 10. Vol. 3 (И. Н.
Мосечкин, Искусственный интеллект и уголовная
ответственность: проблемы становления нового
вида субъекта преступления, Вестник СПбГУ.
Право. 2019. Т. 10. Вып. 3).
[3] Klaus Schwab, Fourth Industrial Revolution,
National Political Publishing House - Truth,
Hanoi, 2018 (in Vietnamese).
[4] Yueh-Hsuan Weng, Chien-Hsun Chen, Chuen-
Tsai Sun, Toward the Human-Robot Co-Existence
Society: On Safety Intelligence for Next
Generation Robots, INT.J.SOC, ROBOT, 2009.
________
37 Tác giả Toby Walsh không chỉ trình bày các thành tựu của
công nghệ máy tính bằng văn phong và ngôn ngữ truyền cảm
hứng, tập sách có cách dẫn dắt tuyệt vời để người đọc - dù
không chuyên về lĩnh vực máy tính - cảm nhận được rằng cái
ngày trí thông minh nhân tạo hiện diện trong nhiều cảnh
huống của con người truyền thống, là đang gần đến như đưa
tay sờ thấy được. Tác giả đặt một hình dung về nhân loại từ
Người tinh khôn đến Người số - một giống loài được tạo ra
bằng kỹ thuật số và sống trong môi trường kỹ thuật số. Trí
thông minh nhân tạo sẽ phá hủy hay đóng góp cho sự phát
triển của xã hội loài người... Xem: Toby Walsh, Năm 2062 -
Thời đại của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa
dịch, Nxb. tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019.
[5] Klaus Schwab, The fourth industrial revolution:
What it means, how to respond, World Economic
Forum, Geneva, 2016.
[6] Kevin Kelly, 12 technology trends in the 4.0 era,
National Economics University Press, Hanoi,
2018 (in Vietnamese).
[7] Matilda Claussén-Karlsson, Artificial Intelligence
and the External Element of the Crime: An
Analysis of the Liability Problem, JU101A, Final
Thesis for the Law Program, Second Cycle, 30
Credits, Spring 2017.
[8] Tien Phuc, Five frightening warnings about future
AI disasters, accessed May 1,
2019 (in Vietnamese).
[9] Amir Husain, Cỗ máy tri giác - Kỷ nguyên của trí
thông minh nhân tạo, Hoàng Lan dịch, Nxb. Công
thương, Hà Nội, 2019.
[10] Trinh Tien Viet, Policy and Criminal Law of
Vietnam against the challenge of Industrial
Revolution 4.0, Proceedings of the National
Scientific Conference: “Fourth Industrial Revolution
and legal issues posed for the construction and
completion of Vietnam legal system”, Ministry of
Justice, Hanoi, June 24, 2019 (in Vietnamese).
[11] Trinh Tien Viet, From the Beginning to the End of
the Criminal Law, Journal of Law, VNU, Episode
34, No.1/2018 (in Vietnamese).
[12] Trinh Tien Viet, Crime and criminal responsibility,
National Political Publishing House, Hanoi, 2013
(in Vietnamese).
[13] Lisa M Storm, Criminal Law, Chapter 4 -
“Elements of a crime”, Lulu Publishing Services,
United States, 2015.
[14] Hoang Phe (chief editor), Vietnamese dictionary,
Institute of Linguistics, Danang Publishing House
and Dictionary Center, 2006 (in Vietnamese).
[15] Nguyen Thi Que Anh, Ngo Huy Cuong (co-editor),
The Fourth Industrial Revolution and issues on
Vietnam's legal reform, National Political
Publishing House - Truth, Hanoi, 2018 (in
Vietnamese).
[16] Klaus Schwab, Shaping the Fourth Industrial
Revolution, translated by Nguyen Van and Thanh
Thep, World Publishing House, Hanoi, 2019 (in
Vietnamese).
[17] Lawrence B. Solum, Legal Personhood for Artifical
Intelligences, 70 N.C.L.REV, 1992.
[18] Roger C. Schank, What Is AI Anyway?, Al
MAG., Winter 1987.
[19] George R. Cross, Cary G. Debessonet, An
Artificial Intelligence Application in the Law:
T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 19
CCLIPS, A Computer Program that Processes
Legal Information, 1 HIGH TECH. L.J., 1986.
[20] Ajay Agrawal, Joshua Gans, Avi Goldfarb,
Artificial Intelligence in the 4.0 technology
revolution, translated by Dao Loi, Labor
Publishing House, Hanoi, 2018 (in Vietnamese).
[21] Robert P. Fine, Gary M. Cohen, Is Criminal
Negligence a Defensible Basic for Criminal
Liability? 16 BUFF. L. REv., 1966.
[22] Donald Stuart, Mens Rea, Negligence and
Attempts, CRIM. L. REV., 1968.
[23] Steven J. Frank, Tort Adjudication and the
Emergence of Artificial Intelligence Software, 21
SUFFOLK U. L. REV., 1987.
[24] Maruerite E. Gerstner, Liability Issues with
Artificial Intelligence Software, 33 SANTA
CLARA L. REV, 1993.
[25] Margaret A. Boden, Has AI Helped Psychology?,
The Foundations of Artifical Intelligence, Derek
Partridge & Yorick Wilks eds., 2006.
[26] Daniel C. Dennett, Evolution, Error, and
Intentionality, The Foundations of Artifical
Intelligence Derek Partridge & Yorick Wilks eds.,
2006.
[27] Robert Batey, Judicial Exploration of Mens Rea
Confusion at Common Law and Under the Model
Penal Code, 18 GA. ST. U. L. REV. 341, 2001.
[28] David Levy, The Ethical Treatment of Artificially
Conscious Robots, I INT'L J. SOC. ROBOTICS,
2009.
[29] Dylan Evans, Can robots have emotions?, Oxford
University Press, 2001,
tion.pdf, truy cập ngày 19/9/2019.
[30] Tang Howe Hing, Musa Mailah, Simulator for
Control of Control of Autonomous Nonholomich
Wheeled Robot, 8 J. OF APPLIED SCI. 2534,
2536, 2008.
[31] Le Van Cam, Postgraduate Monograph: Basic
issues in Criminal Law science (General Part),
Hanoi National University Press, 2005 (in
Vietnamese).
[32] Dinh Van Que, Commenting on Criminal Code
2015 - Part 1: General provisions, Information and
Communications Publishing House, Hanoi, 2017
(in Vietnamese).
[33] AI accompanies the threat,
accessed September
15, 2019 (in Vietnamese).
[34] Andrew Weissmann, David Newman, Rethinking
Criminal Corporate Liability, 82 IND. L.J., 2007.
[35] Trinh Quoc Toan, Criminal Responsibility of
Legal Entities in Criminal Law, National Political
Publishing House, Hanoi, 2011 (in Vietnamese).
[36] Nguyen Ngoc Hoa, The concept of crime and the
determination of criminal liability of commercial
legal entities in Vietnam's Criminal Code 2015,
Juricprudence Journal, No.2/2016 (in
Vietnamese).
[37] Nguyen Ngoc Hoa (chief editor), Scientific
commentary Criminal Code 2015, amended and
supplemented in 2017 (General Part), Justice
Publishing House, Hanoi, 2017 (in Vietnamese).
[38] Le Cam (chief editor), Vietnam's criminal law
from the tenth century to the present: History and
reality, Hanoi National University House, 2018
(in Vietnamese).
[39] Toby Walsh, 2062 - The era of artificial
intelligence, translated by Do Ton Minh Khoa, Ho
Chi Minh City General Publishing House, 2019
(in Vietnamese).
[40] Politburo, Resolution No.52-NQ/TW on a number
of guidelines and policies to actively participate in
the Fourth Industrial Revolution, Hanoi,
September 27, 2019 (in Vietnamese).
[41] Trinh Tien Viet, Continuing to innovate legal
thinking in Vietnamese Criminal Law before the
challenge of Industrial Revolution 4.0, Journal of
Procuratorate Studies, No.4 (31).2019 (in
Vietnamese).
[42] Trinh Tien Viet (Editor), Vietnam's criminal law
before to non-traditional security challenges,
National Politice Publishing House, Hanoi, 2019
(in Vietnamese).
[43] Trinh Tien Viet, Vietnam's Criminal Policy in the
Context of the Fourth Industrial Revolution,
Journal of the People's Court, No.7(4).2019 (in
Vietnamese).
[44]
formal.stanford.edu/jmc/whatisai/node1.html, truy
cập ngày 10/10/2019.
[45] Houbing Song, Ravi Srinivasan, Tamim Sookor,
Sabina Jeschke (ed.), Smart Cities: Foundations,
principles and applications, translated by Ngo
Thanh Nam, National Political Publishing House -
Truth, Hanoi, 2019 (in Vietnamese).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_mo_hinh_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_thuc_the_tri_tue_nha.pdf