Trước hết, theo chúng tôi, CQ NQQG
tương lai của Việt Nam cần đảm bảo tính
độc lập, một đặc trưng cốt yếu không thể
thiếu để được coi là CQ NQQG theo quan
điểm chung của cộng đồng quốc tế hiện nay.
Tính độc lập cũng là một yêu cầu không thể
thiếu để bảo đảm hoạt động thực chất, hiệu
quả của CQ NQQG.
Việc thành lập CQ NQQG có tính độc
lập theo các nguyên tắc Paris không phải là
bất khả thi ở nước ta hiện nay, vì:
- Tính độc lập của CQ NQQG chỉ có
nghĩa là CQ NQQG không phải chịu sự can
thiệp tùy tiện của các cơ quan công quyền
và các chủ thể khác.
- Tính độc lập không có nghĩa là CQ
NQQG không có trách nhiệm giải trình với
bất kỳ chủ thể nào. Thực tế trên thế giới cho
thấy, các CQ NQQG, dù thành lập theo mô
hình nào, cũng phải báo cáo và chịu sự giám
sát của một chủ thể khác, như Nghị viện,
Chính phủ, hay nguyên thủ quốc gia. Ví dụ,
Ủy ban Nhân quyền của Malaysia (SUHAKAM) phải chịu trách nhiệm trước Nghị
viện Malaysia thông qua việc nộp báo cáo
hàng năm và bất cứ báo cáo đặc biệt nào
khác cho cơ quan này12, còn Ủy ban Nhân
quyền quốc gia của Hàn Quốc (NHRCK)
phải nộp báo cáo hàng năm cho Quốc hội và
Tổng thống13. Trách nhiệm báo cáo và chịu
sự giám sát là để bảo đảm CQ NQQG có
trách nhiệm giải trình, và chỉ được hoạt
động trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy
định. Vì thế, một CQ NQQG độc lập không
phải là một thiết chế “vô chính phủ”, “muốn
làm gì thì làm”.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nguyên tắc Paris về tính độc lập của cơ quan nhân quyền quốc gia và việc áp dụng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
CAÁC NGUYÏN TÙÆC PARIS VÏÌ TÑNH ÀÖÅC LÊÅP CUÃA
CÚ QUAN NHÊN QUYÏÌN QUÖËC GIA VAÂ VIÏÅC AÁP DUÅNG ÚÃ VIÏÅT NAM
Lã Khánh Tùng*
Vũ Công Giao**
* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
** PGS,TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
cơ quan nhân quyền quốc gia;
các Nguyên tắc Paris; tính độc
lập; tính đa dạng; quyền con
người.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 08/10/2016
Biên tập: 23/11/2016
Duyệt bài: 29/11/2016
Article Infomation:
Keywords: National human
rights institutions; the Paris
Principles; independence; plu-
ralism; human rights.
Article History:
Received: 08 Otc. 2016
Edited: 23 Nov. 2016
Approved: 29 Nov. 2016
Tóm tắt:
Bài viết phân tích quy định về tính độc lập của các cơ quan nhân quyền
quốc gia trong các nguyên tắc Paris và bình luận về khả năng áp dụng ở
Việt Nam. Theo các tác giả, cơ quan nhân quyền quốc gia có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Dù theo nhiều
mô hình khác nhau, cộng đồng quốc tế thường sử dụng các Nguyên tắc
Paris về địa vị của các cơ quan nhân quyền quốc gia (1993) làm căn cứ để
đánh giá, phân loại các cơ quan này. Các tác giả chỉ ra rằng, theo các nguyên
tắc Paris, các cơ quan nhân quyền quốc gia - bên cạnh các yêu cầu về căn
cứ pháp lý (được thành lập bởi Hiến pháp hoặc luật), phải có sự đa dạng về
thành phần, đồng thời có thẩm quyền càng rộng càng tốt. Hơn nữa yêu cầu
về tính độc lập là một tất yếu. Nhưng dù độc lập, các cơ quan này vẫn phải
tuân thủ pháp luật và chịu sự giám sát của công chúng. Do đó, việc thiết
lập cơ quan nhân quyền quốc gia tại Việt Nam phù hợp với các Nguyên tắc
Paris là một kế hoạch khả thi.
Abstract:
The article provides analysis of the independent principles of national
human rights institutions (NHRIs) in the Paris Principles and gives
discussions on the possibility for application of these principles in Vietnam.
According to the authors, NHRIs play an important role in protection and
promotion of the human rights in several countries. While they are followed
by a number of models in the world, the Paris Principles relating to the
status of national institutions (1993) are used as the standards benchmark
for evaluation and classify these NHRIs. As demonstrated by the authors,
under the Paris Principles, the NHRIs, along with the requirements on the
legal status (under the Constitution or the laws) should be in a pluralism
and have broad mandates as possible. Moreover, their independence is
required as an indispensable principle. While being as an independent
entity, they have to comply with the law and under the public supervision.
Thus, it is a feasible scheme to establish a national human rights institution
complying with the Paris Principles in Vietnam.
1. Các nguyên tắc Paris và yêu cầu về tính
độc lập của cơ quan nhân quyền quốc gia
1.1 Sự hình thành và nội dung chính
của các nguyên tắc Paris
Ngay từ năm 1946, Hội đồng Kinh tế
- Xã hội của Liên hiệp quốc (ECOSOC) đã
đề nghị các quốc gia “xem xét khả năng
thành lập các nhóm thông tin hoặc ủy ban
quyền con người quốc gia để hợp tác trong
các hoạt động trên lĩnh vực này với Ủy ban
Quyền con người Liên hiệp quốc (LHQ)”1.
Trong các thập niên 1960 và 1970, trên diễn
đàn LHQ đã diễn ra nhiều cuộc thảo luận về
cơ quan nhân quyền quốc gia (CQ NQQG),
trong đó tập trung vào phương thức làm việc
của các cơ quan này trong việc thực thi các
chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
Năm 1978, Ủy ban Quyền con người LHQ
đã tổ chức một cuộc hội thảo nhằm soạn ra
các hướng dẫn cho việc tổ chức và hoạt
động của các CQ NQQG tại Giơ-ne-vơ
(Thụy Sỹ). Kết quả của cuộc hội thảo này là
một bộ hướng dẫn được thông qua và được
chấp thuận bởi Ủy ban Quyền con người và
Đại hội đồng LHQ.
Năm 1991, Ủy ban Quyền con người
LHQ tổ chức một hội thảo nữa về CQ
NQQG ở Paris (từ ngày 7 đến 09/10/1991).
Kết luận của Hội thảo được phê chuẩn bởi
Ủy ban Quyền con người trong Nghị quyết
số 1992/54 như là các nguyên tắc liên quan
đến địa vị của các CQ NQQG (Principles
relating to the status of national institutions,
còn được gọi là các nguyên tắc Paris)2. Văn
kiện này sau đó được phê chuẩn bởi Đại hội
đồng LHQ trong Nghị quyết số 48/134 ngày
20/12/1993 và hiện được coi là nền tảng cho
tổ chức và hoạt động của các CQ NQQG
trên thế giới.
Đến nay, cơ chế quốc gia về bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người tuy được hiểu
theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau tại các
quốc gia, nhưng đều hướng tới thực hiện
những nghĩa vụ của nhà nước được nêu
trong hiến pháp, pháp luật quốc gia, cũng
như trong các văn kiện quốc tế về quyền con
người. Nòng cốt của cơ chế này chính là các
cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền (National Institution on the Protection
and Promotion of Human Rights, hoặc
national human rights institutions - NHRIs).
Các nguyên tắc Paris có vai trò như một
“luật mềm” điều chỉnh việc xây dựng và vận
hành của các cơ quan này.
Về tổ chức của CQ NQQG, các
nguyên tắc Paris khuyến nghị cần bảo đảm
sự đa dạng của cơ quan này, thể hiện qua
việc có đại diện của nhiều loại cơ quan, tổ
chức trong xã hội, trong đó bao gồm3:
- Các tổ chức phi chính phủ hoạt động
trên lĩnh vực quyền con người và chống
phân biệt đối xử;
- Các tổ chức công đoàn;
- Các tổ chức xã hội và nghề nghiệp
liên quan như đoàn luật sư, hiệp hội của các
bác sỹ, nhà báo, các nhà khoa học...;
- Các tổ chức tôn giáo;
- Các trường đại học;
- Các nghị viện;
- Các cơ quan chính phủ.
Về thẩm quyền, các nguyên tắc Paris
khuyến khích việc trao cho CQ NQQG các
thẩm quyền “càng rộng càng tốt”, và thẩm
quyền đó cần được quy định trong hiến pháp
hoặc văn bản luật. Cụ thể, CQ NQQG cần
có các thẩm quyền sau4 :
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
1 Nghị quyết số 2/9 ngày 21/6/1946.
2 Xem toàn văn bản tiếng Anh tại
Pages/StatusOfNationalInstitutions.aspx. Xem bản tiếng Việt trong cuốn sách “Giới thiệu các văn kiện quốc tế về
Quyền con người“, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Lao động - Xã hội, 2011, tr. 916.
3 Các nguyên tắc Paris, Mục 2 (Cơ cấu và các bảo đảm cho sự độc lập và đa dạng).
4 Các nguyên tắc Paris, Mục 1 (Thẩm quyền và trách nhiệm).
- Trình lên chính phủ, nghị viện và bất
kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác những
quan điểm, khuyến nghị, đề xuất và báo cáo
về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến thúc đẩy
và bảo vệ quyền con người;
- Thúc đẩy và bảo đảm sự tương thích
của pháp luật quốc gia với các văn kiện pháp
lý quốc tế về nhân quyền mà quốc gia là
thành viên, và việc áp dụng chúng một cách
hiệu quả;
- Khuyến khích việc phê chuẩn, gia
nhập và áp dụng các văn kiện quốc tế về
quyền con người;
- Đóng góp ý kiến xây dựng các báo
cáo quốc gia về nhân quyền để trình lên các
ủy ban và cơ quan LHQ cũng như cho các
cơ quan khu vực;
- Hợp tác với LHQ, các cơ quan của
LHQ, các cơ quan khu vực và CQ NQQG
của các nước khác;
- Hỗ trợ việc xây dựng các chương
trình giảng dạy và nghiên cứu về quyền con
người và tham gia triển khai các chương
trình đó trên thực tế;
- Phổ biến các quyền con người và nỗ
lực chống mọi hình thức phân biệt đối xử,
đặc biệt là phân biệt đối xử về sắc tộc, bằng
việc tăng cường nhận thức cho công chúng
qua việc giáo dục, thông tin, hợp tác với các
cơ quan báo chí.
Về các phương thức hoạt động, theo
các nguyên tắc Paris, các CQ NQQG cần
được5:
- Xem xét bất kỳ vấn đề nào về quyền
con người thuộc phạm vi chức năng của cơ
quan, một cách chủ động hoặc theo đề nghị
của chính quyền hoặc của các tổ chức, cá
nhân khác;
- Xem xét ý kiến của bất kỳ cá nhân
nào và tìm kiếm bất kỳ thông tin, tài liệu cần
thiết nào cho việc đánh giá thực trạng về
quyền con người mà thuộc về phạm vi chức
năng hoạt động của cơ quan;
- Trực tiếp trả lời công luận hoặc
thông qua các cơ quan báo chí, đặc biệt
trong việc phổ biến các ý kiến và khuyến
nghị của cơ quan;
- Gặp gỡ định kỳ các thành viên của
cơ quan;
- Thiết lập các nhóm hoạt động, các
văn phòng địa phương hoặc khu vực nhằm
hỗ trợ việc thực hiện các chức năng của cơ
quan;
- Duy trì tư vấn cho các cơ quan, tổ
chức khác của quốc gia có trách nhiệm trong
việc giải quyết các vấn đề về quyền con
người (đặc biệt là các cơ quan thanh tra, hòa
giải);
- Phát triển quan hệ với các tổ chức
phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực quyền
con người.
1.2 Yêu cầu về sự độc lập của CQ
NQQG
Các nguyên tắc Paris đặc biệt quan
tâm đến tính độc lập, bên cạnh tính đa thành
phần (đa dạng) của CQ NQQG. Điều đó thể
hiện ở việc văn kiện này dành hẳn một mục
riêng (mục 2, trong tổng số 4 mục) để đề cập
đến các yếu tố cần thiết bảo đảm cho tính
độc lập và đa dạng của CQ NQQG. Hai yếu
tố độc lập và đa dạng có quan hệ đến nhau.
Tính độc lập trước hết là độc lập với các cơ
quan nhà nước (cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp, cơ quan ở trung ương cũng như
địa phương). CQ NQQG cần độc lập với nhà
nước bởi lẽ nhà nước - do chức năng của
mình, chính là chủ thể đầu tiên, trước hết có
các nghĩa vụ và khả năng bảo vệ, bảo đảm
nhân quyền một cách hiệu quả, nhưng đồng
thời cũng là thủ phạm chính của những vi
phạm nhân quyền. Ngoài ra, CQ NQQG
cũng cần độc lập với các đảng phái chính trị,
13
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Các nguyên tắc Paris, Mục 3 (Các phương pháp hoạt động).
tổ chức xã hội, tổ chức tư nhân... Vị trí của
CQ NQQG phải đứng giữa nhà nước và xã
hội, mà không nghiêng hẳn về bên nào. Để
có được thế đứng đó, cơ quan này phải có
thành phần từ cả hai khối nhà nước và các
tổ chức xã hội.
Ba yếu tố chính để bảo đảm tính độc
lập cho CQ NQQG được các nguyên tắc
Paris nêu ra trong Mục 2 của văn kiện này
là: 1) Thành phần đa dạng, bao gồm đại diện
của nhiều loại cơ quan, tổ chức trong xã hội;
2) Bảo đảm điều kiện vật chất đủ và ổn định;
3) Nhiệm kỳ của thành viên được bảo đảm
ổn định6.
Về thành phần, như đã nêu ở mục trên,
các nguyên tắc Paris khuyến nghị thành viên
của CQ NQQG không chỉ gồm những người
làm việc trong bộ máy nhà nước, mà cần có
cả những thành viên của các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức công đoàn, các tổ
chức xã hội và nghề nghiệp, các tôn giáo,
các trường đại học...
Về điều kiện vật chất, các nguyên tắc
Paris khuyến nghị cần bảo đảm có cơ sở
vật chất tương xứng để các CQ NQQG có
thể hoạt động hiệu quả, đặc biệt là có
nguồn ngân sách đầy đủ. CQ NQQG cần
có đội ngũ nhân viên riêng và tài sản riêng
để có thể “độc lập với chính phủ và không
bị phụ thuộc vào bất cứ sự kiểm soát tài
chính nào mà có thể ảnh hưởng đến sự độc
lập của nó”7.
Về nhiệm kỳ của thành viên CQ
NQQG, các nguyên tắc Paris khuyến nghị
cần bảo đảm sự ổn định nhiệm kỳ. Để đạt
được mục tiêu đó, quyết định bổ nhiệm
thành viên CQ NQQG cần ghi rõ thời hạn
cụ thể cho thẩm quyền mà họ được giao phó.
Một thành viên CQ NQQG có thể làm việc
nhiều nhiệm kỳ, miễn là sự đa dạng trong cơ
cấu thành viên của cơ quan được đảm bảo.
Mặc dù nêu ra nhiều tiêu chí và
khuyến nghị, các nguyên tắc Paris không ấn
định một mô hình CQ NQQG duy nhất áp
dụng chung cho mọi quốc gia. Cho đến nay,
có ba mô hình CQ NQQG phổ biến trên thế
giới là Ủy ban Nhân quyền quốc gia, Thanh
tra Quốc hội (Ombudsman)8 và Viện Nghiên
cứu. Tuy nhiên, mô hình Ủy ban (gồm nhiều
thành viên) được nhiều quốc gia lựa chọn
nhất, mô hình Ombudsman chủ yếu hiện
diện ở một số quốc gia châu Âu, mô hình
Viện Nghiên cứu chỉ tồn tại ở một vài nước9.
2. Vận dụng quy định về tính độc lập của
cơ quan nhân quyền quốc gia trong các
nguyên tắc Paris ở Việt Nam
Trong tiến trình Kiểm điểm định kỳ
phổ quát (UPR) vòng 2 tại Hội đồng Nhân
quyền LHQ (năm 2014), bên cạnh việc chấp
nhận nguyên tắc chung là tăng cường các cơ
chế trong nước để thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền, Nhà nước Việt Nam đồng thời chấp
nhận khuyến nghị về việc thành lập CQ
NQQG. Nhà nước Việt Nam cũng tuyên bố
sẽ “cân nhắc” (giving consideration towards)
áp dụng hướng dẫn của các nguyên tắc Paris
trong việc thành lập CQ NQQG10.
Đến nay, ở Việt Nam vẫn có hai luồng
14
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Các nguyên tắc Paris, Mục 2 (Cơ cấu và các bảo đảm cho sự độc lập và đa dạng).
7 Các nguyên tắc Paris, Mục 2 (Cơ cấu và các bảo đảm cho sự độc lập và đa dạng), điểm 2.
8 Cơ chế Ombudsman xuất hiện đầu tiên tại Nghị viện Thụy Điển vào năm 1809. Thuật ngữ “Ombudsman” có nguồn
gốc từ tiếng Thụy Điển (có nghĩa là người đại diện). Tại một số quốc gia, Ombudsman tương đương với Thanh tra
Quốc hội hoặc Thanh tra Nhà nước. Ombudsman có một bộ máy giúp việc, thường gọi là Văn phòng Ombudsman.
Nguồn:
9 Theo nghiên cứu năm 2009 của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ (OHCHR).
10 Xem Báo cáo Quốc gia về thực hiện quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế kiểm định kỳ phổ cập (UPR) chu kỳ
II,
co-che-kiem-dinh-ky-pho-cap-(upr)-chu-ky-ii-(phan-1).html.
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
quan điểm liên quan đến vấn đề trên. Thứ
nhất, nếu đã thành lập CQ NQQG thì cần
bảo đảm nó thực sự độc lập, còn nếu không
bảo đảm tính độc lập thì không nên thành
lập vì sẽ không có uy tín, không tạo sự tin
tưởng trong cộng đồng. Thứ hai, bước đầu
có thể thành lập CQ NQQG chưa độc lập
nhưng sẽ điều chỉnh dần (mở rộng thẩm
quyền, mở rộng sự tham gia). Dù chưa
độc lập nhưng việc hiện diện một cơ quan
như vậy ít nhất cũng sẽ làm cho công chúng,
bộ máy nhà nước và giới truyền thông quan
tâm hơn đến việc bảo vệ, thúc đẩy quyền
con người11.
Trước hết, theo chúng tôi, CQ NQQG
tương lai của Việt Nam cần đảm bảo tính
độc lập, một đặc trưng cốt yếu không thể
thiếu để được coi là CQ NQQG theo quan
điểm chung của cộng đồng quốc tế hiện nay.
Tính độc lập cũng là một yêu cầu không thể
thiếu để bảo đảm hoạt động thực chất, hiệu
quả của CQ NQQG.
Việc thành lập CQ NQQG có tính độc
lập theo các nguyên tắc Paris không phải là
bất khả thi ở nước ta hiện nay, vì:
- Tính độc lập của CQ NQQG chỉ có
nghĩa là CQ NQQG không phải chịu sự can
thiệp tùy tiện của các cơ quan công quyền
và các chủ thể khác.
- Tính độc lập không có nghĩa là CQ
NQQG không có trách nhiệm giải trình với
bất kỳ chủ thể nào. Thực tế trên thế giới cho
thấy, các CQ NQQG, dù thành lập theo mô
hình nào, cũng phải báo cáo và chịu sự giám
sát của một chủ thể khác, như Nghị viện,
Chính phủ, hay nguyên thủ quốc gia. Ví dụ,
Ủy ban Nhân quyền của Malaysia (SUHA-
KAM) phải chịu trách nhiệm trước Nghị
viện Malaysia thông qua việc nộp báo cáo
hàng năm và bất cứ báo cáo đặc biệt nào
khác cho cơ quan này12, còn Ủy ban Nhân
quyền quốc gia của Hàn Quốc (NHRCK)
phải nộp báo cáo hàng năm cho Quốc hội và
Tổng thống13. Trách nhiệm báo cáo và chịu
sự giám sát là để bảo đảm CQ NQQG có
trách nhiệm giải trình, và chỉ được hoạt
động trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy
định. Vì thế, một CQ NQQG độc lập không
phải là một thiết chế “vô chính phủ”, “muốn
làm gì thì làm”.
- Tính độc lập không có nghĩa là thành
phần của CQ NQQG chỉ bao gồm đại diện
của các tổ chức phi chính phủ. Thực tế cho
thấy, CQ NQQG ở các quốc gia, dù theo mô
hình nào, cũng khuyến khích sự tham gia
của nhiều cơ quan, tổ chức và tầng lớp xã
hội khác nhau, bao gồm các cơ quan nhà
nước. Ví dụ, thành phần CQ NQQG Kenya
có 02 thành viên là người khuyết tật, 03 là
người Hồi giáo và 06 là người Thiên chúa
giáo; CQ NQQG Pháp bao gồm đại diện của
các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong
lĩnh vực nhân quyền, những cá nhân và
chuyên gia có trình độ hiện đang tham gia
các tổ chức nhân quyền quốc tế, công đoàn,
cơ quan giám sát, 02 thành viên của Nghị
viện và 01 thành viên của Hội đồng Kinh tế
- xã hội; CQ NQQG của Cộng hoà Liên
bang Đức bao gồm đại diện của “Diễn đàn
Nhân quyền” hiệp hội bao trùm của các tổ
chức nhân quyền ở Đức, Ủy ban Nhân
11 Xem Kỷ yếu Hội thảo Thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia của Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, do Ban chỉ đạo
Nhân quyền của Chính phủ tổ chức tại Hà Nội ngày 14/9/2016.
12 Xem Báo cáo thường niên của SUHAKAM gửi nghị viện Malaysia,
brary/get_file?p_l_id=35723&folderId=23964&name=DLFE-7714.pdf.
13 Xem Frauke Lisa Seidensticker Anna Wuerth, Cơ quan nhân quyền quốc gia – Mô hình, chương trình, thách thức và
giải pháp (nghiên cứu cho Bộ Ngoại giao Việt Nam),
tachments/1018/NHRI_study_final_vn.pdf, tr.13.
quyền và Cứu trợ nhân đạo của Quốc hội
Liên bang, hiệp hội lớn nhất của Đức về
người khuyết tật, các bộ tài trợ và Hội đồng
Liên bang Quốc gia, giới học thuật và giới
truyền thông...14. Nói cách khác, CQ NQQG
không phải là một thiết chế do các tổ chức
phi chính phủ điều hành để “giám sát”, “đối
lập” với nhà nước.
Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam,
thành lập một CQ NQQG độc lập sẽ góp
phần duy trì sự ổn định và phát triển của xã
hội. Hiện tại, bộ máy nhà nước ta đã có
nhiều cơ quan có tính độc lập tương đối (toà
án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, kiểm
toán...), vì thế tính độc lập của một thiết chế
không phải là điều xa lạ, nhạy cảm hay cấm
kỵ ở Việt Nam. CQ NQQG có thể có tính
độc lập ở mức độ cao hơn so với tất cả các
cơ quan khác của bộ máy nhà nước hiện nay,
song vẫn nằm trong hệ thống, và vì vậy hoàn
toàn có thể xây dựng và vận hành được.
Thứ hai, CQ NQQG tương lai của
Việt Nam không nhất thiết phải theo mô
hình sẵn có nào đó để bảo đảm tính độc lập.
Vì tính độc lập của CQ NQQG không phụ
thuộc vào mô hình, mà phụ thuộc vào việc
bảo đảm các yếu tố nhất định khi thành lập
và vận hành nó, đặc biệt là 03 yếu tố: thành
phần đa dạng, bao gồm đại diện của nhiều
loại cơ quan, tổ chức trong xã hội; bảo đảm
điều kiện vật chất đủ và ổn định; cơ chế bổ
nhiệm và nhiệm kỳ của thành viên ổn định,
phù hợp. Với hoàn cảnh hiện nay, việc đặt
CQ NQQG trong khuôn khổ của Quốc hội
(do Quốc hội thành lập, có trách nhiệm giải
trình trước Quốc hội) có thể dễ bảo đảm tính
độc lập hơn. Ngoài ra, mô hình Uỷ ban
Nhân quyền quốc gia với nhiều uỷ viên có
thể thuận lợi hơn cho việc bảo đảm tính độc
lập, ít nhất là về mặt tính đại diện.
Thứ ba, về một số khía cạnh cụ thể:
- Thành phần của CQ NQQG tương
lai của Việt Nam nên bao gồm đại diện của
một số cơ quan nhà nước trung ương, các tổ
chức chính trị - xã hội, đại diện của các tôn
giáo, khối học thuật, một số chuyên gia,
nhân sĩ, trí thức có uy tín cao và hiểu biết về
nhân quyền.
- Việc bảo đảm vật chất, kinh phí hàng
năm của CQ NQQG cần do Quốc hội quyết
định theo luật; ngoài ra cần có quy định bảo
đảm cơ sở vật chất, bộ máy giúp việc cho
CQ NQQG.
- Về cơ chế bổ nhiệm và nhiệm kỳ của
thành viên, các thành viên của CQ NQQG
do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đề
cử, Quốc hội bổ nhiệm; cần xây dựng các
tiêu chuẩn khách quan, rõ ràng cho việc đề
cử, bổ nhiệm thành viên của CQ NQQG;
nhiệm kỳ thành viên CQ NQQG có thể cùng
hoặc không cùng với nhiệm kỳ đại biểu
Quốc hội.
Tóm lại, từ việc nghiên cứu các tiêu
chuẩn quốc tế, kinh nghiệm của các quốc
gia khác và bối cảnh thực tiễn của nước ta,
có thể thấy rằng, khi xây dựng CQ NQQG,
Việt Nam hoàn toàn có thể và nên có các
quy định để bảo đảm tính độc lập của nó
phù hợp với các nguyên tắc Paris. Điều này
trước hết là để bảo đảm hiệu quả của cơ
quan này trong việc bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người ở nước ta trong thời gian
tới. Thêm vào đó, việc xây dựng CQ NQQG
có tính độc lập sẽ góp phần tạo lập sự tin
tưởng của người dân, các tổ chức xã hội
trong nước, và cộng đồng quốc tế với cam
kết và hành động trên lĩnh vực nhân quyền
của Nhà nước Việt Nam n
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Xem, Frauke Lisa Seidensticker Anna Wuerth, tài liệu đã dẫn, tr. 18, 26, 30;
Cao uỷ Nhân quyền LHQ, National Human Rights Institutions: History, Principles, Rolesand Responsibilities,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_nguyen_tac_paris_ve_tinh_doc_lap_cua_co_quan_nhan_quyen.pdf