3. Các thuốc loãng xương có mặt tại Việt Nam
a) Calcium và vitamin D: rất cần thiết phải bổ
sung hàng ngày, đặc biệt trong suốt thời gian sử
dụng các thuốc điều trị loãng xương.
- Calcium 500 - 1500mg (tùy mức độ thiếu
hụt, lứa tuổi, tình trạng sức khỏe và bệnh lý).
Nguồn cung cấp: thực phẩm (đặc biệt là sữa
& các sản phẩm chế biến từ sữa, dược phẩm (các
chế phẩm chưa Calcium và vitamin D).
- Vitamin D3: 800 - 2.000 UI.
Nguồn cung cấp: dược phẩm, ánh nắng mặt
trời, thực phẩm.
b) Các thuốc đang được sử dụng trên thị trường:
- Chủ yếu là nhóm bisphosphonates:
+ Đường uống:
☑ Hàng tuần: Alendronate 70mg,
Alendronate 70mg + Vitamine D3.
☑ Hàng tháng: Ibandronate 150mg.
+ Đường truyền Tĩnh mạch hàng năm:
Zoledronic Acid (Aclasta). Góp phần tích cực vào
việc cải thiện sự tuân thủ điều trị.
- Strontium Ranelate (Protelos) được sử
dụng cho một số bệnh nhân không dung nạp với
nhóm bisphosphonate.
- Raloxifene được sử dụng phòng ngừa và
điều trị loãng xương sau mãn kinh.
4. Kết luận
Các nghiên cứu cơ bản, các thử nghiệm lâm
sàng đã làm sáng tỏ hơn cơ chế mất xương, các
yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống chu chuyển xương
và phát triển và khẳng định vai trò của các thuốc
mới giúp điều trị loãng xương ngày càng hiệu quả
và phù hợp hơn với từng người bệnh. Chúng ta
cũng biết khả năng chinh phục loãng xương qua
phục hồi xương bị mất vẫn còn là một thách thức
lớn, vì vậy vấn đề tạo dựng ngay từ đầu một khung
xương thật tốt của mỗi người vẫn là điều quan trọng
nhất để phòng ngừa loãng xương và gãy xương
sau này. Khoa học lúc nào cũng đặt ra nhiều vấn đề
mới, những phát hiện trong thời gian qua sẽ là tiền
đề cho những nghiên cứu tiếp theo, nhưng những
khám phá gần đây và sắp tới cho chúng ta hy vọng
về khả năng chế ngự tốn nhất các bệnh lý liên quan
đến tuổi, trong đó có loãng xương.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tiến bộ trong loãng xương và ứng dụng trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 17
CÁC TIẾN BỘ TRONG LOÃNG XƯƠNG Và ỨNG DỤNG TRONG
THỰC HàNH LÂM sàNG TẠI VIỆT NAM
lê anh thư*
*Bệnh viện Chợ Rẫy - Hội Loãng xương TP Hồ Chí Minh
Trong vòng hai thập niên vừa qua, chúng ta
đa có những tiến bộ mang tính cách mạng trong
loãng xương. Các tiến bộ bao gồm những hiểu
biết về sinh học cơ bản của xương, nhận diện hậu
qủa nặng nề của gãy xương trong nhóm có nguy
cơ bị bệnh, nguy cơ tái gãy xương và nguy cơ
tử vong và tìm được các nguy cơ lâm sàng quan
trọng, mật độ xương, các thuốc điều trị mới và các
yếu tố gây loãng xương thứ phát. Thuốc điều trị
để làm giảm nguy cơ gãy xương (bao gồm các
thuốc ức chế huy xương và kích thích tạo xương)
và calcium & vitamin D). Các hướng điều trị mới
nhắm vào cơ chế phân tử trong chuyển hóa xương
đang hứa hẹn hiệu quả cao hơn.
1. Phát triển thuốc điều trị loãng xương mới
dựa trên cơ sở các thành tựu về sinh học
- Denosumab, kháng thể đơn dòng
(monoclonal antibody) kháng RANKL có tác dụng
ức chế hủy xương đã được ứng dụng trên thực tế
lâm sàng với nhiều hứa hẹn về hiệu quả và an toàn.
Trên cơ sở khám phá vai trò của hệ thống
RANKL/RANK/OPG, hệ thống này đóng vai trò
quan trọng trong việc điều phối quy trình chu
chuyển xương (bone remodelling). Vai trò chủ đạo
OPG là ức chế tế bào hủy xương, còn vai trò của
RANKL là kích thích sự biệt hóa (differentiation)
của tế bào hủy xương. Do đó, OPG và RANKL kết
hợp thành một hệ thống kiểm soát quá trình tạo
nên các tế bào hủy xương, kích hoạt quá trình chu
chuyển xương.
- Kháng nguyên scleorotin, đã được nghiên
cứu thực nghiệm (trên chuột) và lâm sàng (trên
các phụ nữ mãn kinh) cho thấy làm tăng mật độ
xương rõ rệt ở các đối tượng nghiên cứu. Những
hiểu biết này dẫn đến một thời đại mới trong điều
trị loãng xương, bằng cách phát triển thuốc như
kháng nguyên sclerostin để tăng tạo xương song
song với các liệu pháp ức chế hủy xương có thể
dẫn đến việc điều trị loãng xương có hiệu quả hơn.
Trên cơ sở:
+ Khám phá scleorostin, một protein bài tiết
bởi các tế bào xương (osteocyte), là một “sản
phẩm” của SOST (một gene nằm ở nhiễm sắc thể
17), nên phát triển kháng nguyên có khả năng ức
chế chức năng sinh học của sclerostin sẽ làm gia
tăng khối lượng xương.
+ Khám phá vai trò, nguồn gốc và chức năng
của tế bào xương (osteocyte - OCT). Tế bào xương
có vai trò rất quan trọng trong chu chuyển xương.
Chính các tế bào xương nhận tín hiệu từ stress
(có thể qua cơ lực hoặc glucocorticosteroid), từ
các thay đổi nội môi (hormon, cytokines) và gửi
tín hiệu đến các tế bào tạo xương và tế bào hủy
xương trên bề mặt của xương và khởi động chu
trình chuyển hóa xương.
+ Một điều hết sức quan trọng là chính tế bào
xương sản sinh ra sclerostin và sclerostin chỉ tìm
thấy trong tế bào xương. Sclerostin di chuyển trên
bề mặt của xương và liên kết với thụ thể LRP5/
LRP6 (những thụ thể kiểm soát lipid) trong hệ
thống tín hiệu đạo Wnt (Wnt signalling pathway)
và ức chế tạo xương.
+ Hệ thống tín hiệu đạo Wnt thực chất là
glycoproteins đóng vai trò điều phối các mô, kể
cả mô xương, kiểm soát sự phát triển của tế bào
tạo xương. Thiếu sclerostin dẫn đến hội chứng
sclerosteosis (với đặc điểm xương đặc một cách
bất bình thường) vì Wnt sẽ sản sinh ra nhiều
tế bào tạo xương làm tăng mật độ xương. Hội
chứng sclerosteosis là do đột biến của gien SOST.
sclerostin là chất ức chế WNT.
- Odanacatib là chất ức chế cathepsin K
(là men cysteine protease, chịu trách nhiệm làm
thoái biến chất cơ bản của xương - bone matrix),
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX18
qua đó ức chế hoạt động của tế bào hủy xương
(osteoclast). Thuốc đã được nghiên cứu phase
III cho thấy an toàn và hiệu quả tăng BMD tương
đương với các thuốc nhóm bisphosphonates và
denosumab, mặc dù các marker hủy xương giảm
ít hơn một chút so với 2 thuốc này.
- Vitamin D không phải là một “vitamin” bình
thường mà thực chất là một loại hormone với các
tác dụng tới mô xương và ngoài mô xương. Khi phơi
nắng, da chúng ta tiếp xúc với tia tử ngoại (UVB),
một lượng cholecalciferol được sản sinh dưới da.
Các tế bào mỡ tiếp tục vận chuyển cholecalciferol
vào hệ thống tuần hoàn và sẽ trải qua hai giai đoạn
chuyển hóa. Giai đoạn thứ nhất, cholecalciferol
trải qua một quy trình chuyển hóa và sản sinh ra
25-hydroxyvitamin D, thường hay viết tắt là 25(OH)
D3. Trong giai đoạn hai, 25(OH)D3 được vận chuyển
đến thận và chuyển hóa thành 1,25-hydroxy vitamin
D (thường viết tắt là 1,25(OH)2D3).
Ngoài việc tham gia duy trì sức khỏe xương,
phòng chống té ngã và điều trị loãng xương, các
khám phá mới đây khẳng định chức năng quan
trọng của vitamin D trong việc duy trì sức khỏe
chung. Thiếu hụt vitamin D còn làm gia tăng nguy
cơ mắc bệnh ung thư, bệnh tim mạch, cao huyết
áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, vảy
nến, viêm đường ruột, viêm khớp, viêm gan,
nhiễm trùng, lao phổi, v.v
- Một loạt thuốc mới có thể trở thành những
liệu pháp điều trị loãng xương như: insulin DDK1
antagonist, GLP 2, PTH, Ronacaleret...
+ Insulin còn có tác động đến quy trình chu
chuyển xương thông qua một marker tạo xương
(osteocalcin). Thiếu insulin trong thụ thể của tế
bào tạo xương có thể dẫn đến giảm tạo xương
và tăng nguy cơ béo phì. Khám phá mới nhất về
mối liên hệ giữa insulin và osteocalcin là một bước
ngoặt quan trọng trong việc tìm hiểu mối liên quan
giữa 2 bệnh đái tháo đường và loãng xương.
+ Các thuốc nhóm raloxifene (lasofoxifene,
bazedoxifene, arzoxifene).
+ Glucagon like peptide 2 (GLP2) là hormone
do ruột phóng thích ra khi có thức ăn. Sự hủy
xương xảy ra tối đa vào buổi tối có liên quan với
việc nhịn đói cả đêm và sử dụng GLP2 tiêm buổi
tối có thể làm giảm sự hủy xương. Nghiên cứu
phase I và II trên phụ nữ mãn kinh cho thấy GLP2
tiêm dưới da buổi tối có tác dụng làm tăng BMD,
giảm các marker hủy xương nhưng không làm
tăng các marker tạo xương.
+ Hormone cận giáp (PTH) dạng xịt vào niêm
mạc mũi.
+ Ronacaleret là một chất ức chế các thụ thể
nhạy cảm calcium (calcium sensing receptor) trên
bề mặt các tế bào cận giáp và thận, làm phóng
thích PTH dạng xung thụ thể nhạy cảm canxi,
đóng vai trò điều hòa nồng độ canxi máu. Kích
thích các thụ thể này làm giảm tiết PTH, ức chế
các thụ thể này làm tăng tiết PTH.
+ Kháng thể kháng Dkk1: Dkk1 là một chất
ức chế WNT tự nhiên, nghĩa là ức chế quá trình
tạo xương. Các nghiên cứu trên chuột cho thấy cải
thiện BMD cũng như tăng các marker tạo xương ở
chuột cắt buồng trứng.
- Các yếu tố tăng trưởng và cytokines (gọi
chung là peptides) làm nên hệ cơ và các yếu tố
có nguồn gốc như cơ như insulin-like growth
factor-1 (IFG-1), fibroblast growth factor (FGF),
interleukin-15 (IL-15), myostatin và osteonectin
đóng vai trò tích cực trong việc chuyển hóa xương.
Tuy nhiên, cơ chế ảnh hưởng của các yếu tố trên
đến các tế bào xương (như osteoblasts, osteoclasts
và osteocytes) vẫn đang cần được làm rõ. Những
khám phá gần đây cho thấy có mối tương tác phức
tạp giữa xương và cơ, khả năng giữ thăng bằng
của cơ thể (thông qua hệ thần kinh-cơ) và quá trình
lão hóa của hệ thống vận động (hệ thống cơ xương
khớp). Những kết quả nghiên cứu gần đây chỉ ra
có mối liên quan chặt giữa yếu cơ và loãng xương.
Yếu cơ được coi là một hội chứng “loãng xương
mới”. Yếu cơ và loãng xương có một số yếu tố nguy
cơ chung như suy giảm hormone sinh dục, cao tuổi
và thiếu vận động thể lực. Loãng xương và yếu cơ
là hai yếu tố đóng góp vào hội chứng “già yếu”. Già
yếu dẫn đến tăng nguy cơ té ngã, gãy xương, bệnh
mãn tính và tử vong.
2. Vấn đề chẩn đoán loãng xương
- Mặc dù khối lượng xương chỉ phản
ánh khoảng 50% sức mạnh của xương (bone
strenght), tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại,
đánh giá khối lượng xương bằng DXA vẫn là một
test quan trọng để chẩn đoán loãng xương (bone
Diễn đàn
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 19
density test). Từ tháng 8 năm 2013, máy Hologic
thế hệ mới Hologic Horizon đã được ứng dụng,
giúp chẩn đoán loãng xương tốt hơn (tiên lượng
gãy xương, phát hiện các gãy xương không điển
hình) đồng thời phát hiện các bệnh lý thường đi
kèm (bệnh lý tim mạch và béo phì).
- Nhiều nghiên cứu cho thấy, các markers chu
chuyển xương cũng có thể được sử dụng để tiên
lượng gãy xương và theo dõi kết quả điều trị.
- Một số kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hỗ trợ như:
+ Thăm dò độ vững chắc của xương: công cụ
để đo độ dày của vỏ xương bằng kỹ thuật chụp cắt
lớp nhiều mặt cắt (MSCT scanner), phương pháp
BIT (Bone Investigational Toolkit).
+ Sử dụng CT scan để tái tạo cấu trúc 3D của
xương, qua đó đánh giá được chất lượng xương,
(thay vì DEXA chỉ đánh giá được khối lượng xương).
+ Đánh giá chất lượng xương, qua cấu trúc
xương bằng phương pháp – Micro MRI. Micro
MRI được coi là biện pháp Sinh thiết xương sống
(Virtual Bone Biopsy), phương tiện để chẩn đoán
và theo dõi loãng xương trong tương lai (The
Future of Osteoporosis Diagnosis and Monitoring).
Tuy nhiên các phương pháp này chưa thể áp
dụng rộng rãi vì giá thành cao, bệnh nhân phải chịu
một lượng tia X lớn (nếu dùng CT hoặc MSCT).
3. Các thuốc loãng xương có mặt tại Việt Nam
a) Calcium và vitamin D: rất cần thiết phải bổ
sung hàng ngày, đặc biệt trong suốt thời gian sử
dụng các thuốc điều trị loãng xương.
- Calcium 500 - 1500mg (tùy mức độ thiếu
hụt, lứa tuổi, tình trạng sức khỏe và bệnh lý).
Nguồn cung cấp: thực phẩm (đặc biệt là sữa
& các sản phẩm chế biến từ sữa, dược phẩm (các
chế phẩm chưa Calcium và vitamin D).
- Vitamin D3: 800 - 2.000 UI.
Nguồn cung cấp: dược phẩm, ánh nắng mặt
trời, thực phẩm.
b) Các thuốc đang được sử dụng trên thị trường:
- Chủ yếu là nhóm bisphosphonates:
+ Đường uống:
☑ Hàng tuần: Alendronate 70mg,
Alendronate 70mg + Vitamine D3.
☑ Hàng tháng: Ibandronate 150mg.
+ Đường truyền Tĩnh mạch hàng năm:
Zoledronic Acid (Aclasta). Góp phần tích cực vào
việc cải thiện sự tuân thủ điều trị.
- Strontium Ranelate (Protelos) được sử
dụng cho một số bệnh nhân không dung nạp với
nhóm bisphosphonate.
- Raloxifene được sử dụng phòng ngừa và
điều trị loãng xương sau mãn kinh.
4. Kết luận
Các nghiên cứu cơ bản, các thử nghiệm lâm
sàng đã làm sáng tỏ hơn cơ chế mất xương, các
yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống chu chuyển xương
và phát triển và khẳng định vai trò của các thuốc
mới giúp điều trị loãng xương ngày càng hiệu quả
và phù hợp hơn với từng người bệnh. Chúng ta
cũng biết khả năng chinh phục loãng xương qua
phục hồi xương bị mất vẫn còn là một thách thức
lớn, vì vậy vấn đề tạo dựng ngay từ đầu một khung
xương thật tốt của mỗi người vẫn là điều quan trọng
nhất để phòng ngừa loãng xương và gãy xương
sau này. Khoa học lúc nào cũng đặt ra nhiều vấn đề
mới, những phát hiện trong thời gian qua sẽ là tiền
đề cho những nghiên cứu tiếp theo, nhưng những
khám phá gần đây và sắp tới cho chúng ta hy vọng
về khả năng chế ngự tốn nhất các bệnh lý liên quan
đến tuổi, trong đó có loãng xương.
TàI LIỆU THAM KHẢO
1. Winkler DG, et al. Osteocyte control of bone
formation via sclerostin, a novel BMP antagonist.
The EMBO Journal (2003) 22, 6267–6276.
2. Papapoulos SE. Targeting sclerostin as
potential treatment of osteoporosis. Ann Rheum
Dis. 2011 Mar;70 Suppl 1:i119-22.
3. Gaudio A, et al. Increased sclerostin
serum levels associated with bone formation and
resorption markers in patients with immobilization-
induced bone loss. J Clin Endocrinol Metab. 2010
May;95(5):2248-53. Epub 2010 Mar 19.
4. Kawai M, et al. Emerging therapeutic
opportunities for skeletal restoration. Nature
Review Drug Discovery 2011;10:141-156.
Diễn đàn
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX20
5. Frost SA, Nguyen ND, Black DA, Eisman
JA, Nguyen TV. Risk factors for in-hospital post-
hip fracture mortality. Bone. 2011 Jun 13. [Epub
ahead of print].
6. Center JR, Bliuc D, Nguyen ND, Nguyen
TV, Eisman JA. Osteoporosis medication and
reduced mortality risk in elderly women and men.
J Clin Endocrinol Metab. 2011 Apr; 96(4):1006-14.
Epub 2011 Feb 2.
7. Ruckle J, Jacobs M, Kramer W et al.:
Single-dose, randomized, double-blind, placebo-
controlled study of ACE-011 (ActRIIA-IgG1) in
postmenopausal women. J. Bone Miner. Res. 24,
744–752 (2009).
6. Fajardo RJ, Manoharan RK, Pearsall RS et al.:
Treatment with a soluble receptor for activin improves
bone mass and structure in the axial and appendicular
skeleton of female cynomolgus macaques (Macaca
fascicularis). Bone 46, 64–71 (2010).
7. Ruckle J, Jacobs M, Kramer W: A single
dose of ACE-011 is associated with increases in
bone formation and decreases in bone resorption
markers in healthy postmenopausal women. J.
Bone Miner. Res. 22,S38 (2007).
8. Bromme D, Lecaille F: Cathepsin K inhibitors
for osteoporosis and potential off-target effects: Expert
Opin. Investig. Drugs 18, 585–600 (2009).
9. Gauthier JY, Chauret N, Cromlish W et
al.: The discovery of odanacatib (MK-0822), a
selective inhibitor of cathepsin K. Bioorg. Med.
Chem. Lett. 18, 923–928 (2008).
10. Stoch SA, Zajic S, Stone J et al.: Effect
of the cathepsin K inhibitor odanacatib on bone
resorption biomarkers in healthy postmenopausal
women: two double-blind, randomized, placebo-
controlled Phase I studies. Clin. Pharmacol. Ther.
86, 175–182 (2009).
11. Bone HG, McClung MR, Roux C et
al.: Odanacatib, a cathepsin-K inhibitor for
osteoporosis: a two-year study in postmenopausal
women with low bone density. J. Bone Miner. Res.
25, 937–947 (2010).
12. Eisman JA, Bone HG, Hosking DJ et al.:
Odanacatib in the treatment of postmenopausal
women with low bone mineral density: Three-year
continued therapy and resolution of effect. J. Bone
Miner. Res. 26(2),242–251 (2011).
13. Cummings SR, San Martin J, McClung
MR et al.: Denosumab for prevention of fractures
in postmenopausal women with osteoporosis. N.
Engl. J. Med. 361, 756–765 (2009).
14. Eastell R, Christiansen C, Grauer A et al.:
Effects of denosumab on bone turnover markers
in postmenopausal osteoporosis. J. Bone Miner.
Res. 26(3),530–537 (2011).
15. Black DM, Delmas PD, Eastell R et al.:
Once-yearly zoledronic acid for treatment of
postmenopausal osteoporosis N. Engl. J. Med.
356, 1809–1822 (2007).
16. Henriksen DB, Alexandersen P, Byrjalsen
I et al.: Reduction of nocturnal rise in bone
resorption by subcutaneous GLP-2. Bone 34,
140–147 (2004).
17. Henriksen DB, Alexandersen P, Hartmann
B et al.: Four-month treatment with GLP-2
significantly increases hip BMD. a randomized,
placebo-controlled, dose-ranging study in
postmenopausal women with low BMD. Bone 45,
833–842 (2009).
18. Kanis JA, Johnell O, Oden A, Johansson
H, McCloskey E: FRAX and the assessment of
fracture probability in men and women from the UK.
Osteoporos. Int. 19, 385–397 (2008).
ABsTRACT
In the past two decades, we have witnessed a revolution in osteoporosis. This includes enhanced
understanding of basic bone biology, recognizing the severe consequences of fractures in terms of morbidity
and short-term re-fracture and mortality risk and case finding based on clinical risks, bone mineral density, new
imaging approaches, and contributors to secondary osteoporosis. Medical interventions that reduce fracture
risk include a wide spectrum of drug therapies (with antiresorptive, anabolic, or mixed effects) and calcium
and vitamin D together. Emerging therapeutic options that target molecules of bone metabolism indicate that
the next decade should offer even greater promise for further improving our treatment approaches.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_tien_bo_trong_loang_xuong_va_ung_dung_trong_thuc_hanh_la.pdf