Các tiêu chuẩn đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay

Những bất cập trên đây đòi hỏi các cơ quan xây dựng pháp luật cần tăng cường hơn nữa các chế tài xử phạt và nghiêm minh trong việc áp dụng đối với những cá nhân và tổ chức vi phạm pháp luật môi trường. Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước địa phương cần nhanh chóng tìm các biện pháp tiếp cận với công nghệ hiện đại khi xử lý chất thải rắn và lỏng của các nước tiên tiến để áp dụng ở Việt Nam. Vấn đề môi trường nước ta hiện nay cần phải được coi là công việc quan trọng nhất trong các công việc quan trọng đặt trên bàn nghị sự của các cơ quan nhà nước. Tiến hành một chiến lược bảo vệ môi trường lâu dài và bền vững, theo đó các dự án trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, phát triển kinh tế, phát triển điện lực, phát triển giáo dục- đào tạo phải đặt tiêu chí bảo vệ và khôi phục môi trường sống lên hàng đầu. Thêm nữa, cần tách Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường thành hai Bộ là Bộ Khoa học - công nghệ và Bộ Môi trường. Trên thế giới, nhiều nước cũng đã nhìn thấy tầm quan trọng của vấn đề môi trường đối với đời sống quốc gia nên đã thành lập Bộ Môi trường, ví dụ Hoa Kỳ năm 1990 đã thành lập Bộ Môi trường. Ngoài ra, nước ta cần nhanh chóng xây dựng Bộ luật môi trường để có thể hệ thống hoá pháp luật môi trường một cách đồng bộ và thống nhất trong một văn bản pháp luật có mức độ hệ thống hoá và pháp điển hoá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và bảo vệ môi trường.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 185 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tiêu chuẩn đánh giá mức độ đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5112009 NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THÁI VĨNH THẮNG * 1. Xây dựng hệ thống pháp luật phát triển toàn diện Xây dựng hệ thống pháp luật phát triển toàn diện là xây dựng hệ thống pháp luật phát triển đầy đủ các ngành luật và các chế định pháp luật, không những phát triển về mặt hình sự mà phát triển cả về mặt dân sự; không những phát triển các thiết chế về nhà nước mà phát triển cả các thiết chế của công dân; không những phát triển pháp luật về thương mại, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, đầu tư mà còn phát triển cả pháp luật về bảo vệ thiên nhiên, môi trường và pháp luật về an sinh xã hội. Hệ thống pháp luật Việt Nam trước thời kỳ đổi mới là một hệ thống pháp luật phát triển không toàn diện và cân đối vì nó nặng về hình sự mà nhẹ về dân sự, nặng về các thiết chế nhà nước mà nhẹ về các thiết chế công dân. Do chính sách kế hoạch hoá tập trung và cơ chế hành chính quan liêu bao cấp nên hệ thống pháp luật này chủ yếu tạo (*) PGS,TS. Đại học Luật Hà Nội. CÁC TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐẢM BẢO YÊU CẦU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Ngày nay, không ít quốc gia đứng trước một tình trạng nan giải là tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển cao; xuất hiện nhiều trung tâm công nghiệp, nhiều cao ốc, nhiều siêu thị hàng hoá phong phú; xe hơi trên đường phố nhiều hơn nhưng đạo đức xã hội xuống cấp, môi trường bị tàn phá nặng nề; nạn ách tắc giao thông ngày càng trầm trọng; khoảng cách về thu nhập giữa nông thôn và đô thị, giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng. Đó chính là dấu hiệu của sự phát triển không bền vững. Mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên cho đến nay hầu như những người nghiên cứu về phát triển bền vững đều có quan điểm tương đối thống nhất về các tiêu chí phát triển bền vững là tốc độ phát triển kinh tế phải liên tục và đều đặn đi liền với phát triển văn hoá- xã hội, bảo vệ thiên nhiên, môi trường và bảo đảm công bằng và an sinh xã hội. 6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009 NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT điều kiện cho kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phát triển mà không tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa như kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân phát triển. Pháp luật hình sự khá đầy đủ, còn hệ thống pháp luật phục vụ cho nền kinh tế thị trường hầu như không có. Do quyền tự do kinh doanh của công dân chưa được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận nên công dân không thể thành lập công ty, không thể có các tư liệu sản xuất như máy cày, máy kéo, ô tô tải, nhà xưởng. Do thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân không được khuyến khích phát triển nên trong xã hội có quan điểm khá lệch lạc là chỉ có cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hoặc công nhân làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước mới được xã hội tôn trọng; còn dân làm nghề tự do, nhất là những người buôn bán nhỏ thì bị coi là dân “phe phẩy”. Hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời kỳ này vô hình trung đã trói buộc tư duy độc lập, sáng tạo của con người. Người sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nước không quan tâm đến sản phẩm của mình được tiêu thụ trên thị trường như thế nào. Người nông dân ngoài phần thuế đóng cho nhà nước, sản phẩm lúa gạo dư thừa chỉ có thể bán cho nhà nước theo giá quy định, không được bán trên thị trường tự do. Điều này đã làm cho người nông dân không muốn sản xuất và kinh tế nông nghiệp vì thế mà trì trệ trong một thời gian khá dài. Nền kinh tế khép kín, không có đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và cũng không có đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Trong điều kiện không có sự giao lưu và tương tác với các nền kinh tế lớn trên thế giới, kinh tế cũng như khoa học và công nghệ Việt Nam lạc hậu so với nhiều nước trên thế giới. Từ năm 1986 sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế với nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế phi XHCN như kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện phát triển bình đẳng như những thành phần kinh tế khác. Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được ban hành với những chính sách mở cửa thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc các nhà kinh doanh nước ngoài đầu tư, đưa vốn và công nghệ mới vào Việt Nam đã làm cho nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng thay đổi theo hướng phát triển. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế bền vững, nhiều vấn đề mới được đặt ra với Việt Nam, nhất là khi chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trước hết, phải nhận thức một cách đầy đủ và kịp thời việc đổi mới tư duy trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật toàn diện. Hệ thống pháp luật này phải tính đến các chuẩn mực quốc tế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Để được gia nhập WTO, Việt Nam đã tiếp nhận nhiều quy định của WTO mà hầu như trước đây không có trong tư duy pháp luật XHCN nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Trước hết, đó là các nguyên tắc của hệ thống thương mại của WTO, như: Nguyên tắc thương mại không phân biệt đối xử -quy chế tối huệ quốc (MFN). Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng vì nó được quy định ngay tại Điều 1, Điều 2 của GATS và Điều 4 của TRIPS. Tên gọi của nguyên tắc này là quy chế tối huệ quốc có thể làm cho mọi người nghĩ rằng WTO áp dụng một chế độ đãi ngộ đặc biệt, tuy nhiên trên thực tế, nguyên tắc này dùng để chỉ sự không biệt đối xử, nghĩa là đối xử công bằng với tất cả các thành viên WTO. Nói một cách cụ thể hơn, MFN có nghĩa là khi một nước giảm bớt hàng rào thương mại, mở cửa thị trường nước mình thì nước này phải dành sự đãi ngộ như vậy đối với hàng hoá và dịch vụ cùng loại của tất cả các đối tác thương mại, cho dù đối tác Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 7112009 đó giàu hay nghèo, mạnh hay yếu1. - Nguyên tắc đối xử quốc gia- đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa. Nguyên tắc đối xử quốc gia có nghĩa là dành cho các nước khác chế độ đãi ngộ như chế độ đãi ngộ trong nước và nó cũng được thể hiện trong cả ba hiệp định chính của WTO (Điều 3, Điều 17 của GATS và Điều 3 của TRIPS). Nguyên tắc này có nghĩa hàng nhập khẩu và hàng nội địa cần phải được đối xử bình đẳng, ngay sau khi hàng nhập khẩu xâm nhập thị trường nội địa. Nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với lĩnh vực dịch vụ, thương hiệu, bản quyền, bằng sáng chế nước ngoài cũng như trong nước. Nguyên tắc tự do hoá thương mại từng bước và bằng con đường đàm phán. Tự do hoá thương mại được các nước tham gia WTO thừa nhận như là một trong những nguyên tắc quan trọng của WTO. Nguyên tắc này phát sinh từ một nhu cầu khách quan hiện nay là xu hướng toàn cầu hoá trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Nhu cầu này đòi hỏi phải giảm bớt và tháo gỡ các rào cản thương mại như hàng rào thuế quan và những biện pháp cấm nhập khẩu hay hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế định lượng nhập khẩu Từ khi GATT ra đời (năm 1947-1948) đến nay đã diễn ra 8 vòng đàm phán thương mại. Thời kỳ đầu các vòng đàm phán xoay quanh vấn đề cắt giảm thuế quan áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Nhờ các cuộc đàm phán này vào khoảng giữa những năm 70, ở các nước công nghiệp phát triển, thuế quan đã giảm đến mức dưới 4%. Đến thập niên 80, phạm vi đàm phán đã được mở rộng, bao trùm cả những hàng rào phi thuế quan đối với những hàng hóa và những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Nguyên tắc dự đoán trước được nhờ ràng buộc, cam kết và minh bạch hoá chính sách, pháp luật. Chính sách, pháp luật ổn định và minh bạch sẽ khuyến khích đầu tư và tạo việc làm. Người tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế nhờ tự do cạnh tranh, nghĩa là họ có thêm nhiều cơ hội lựa chọn và được hưởng một mức giá thấp. Hệ thống thương mại đa biên cụ thể hoá những nỗ lực của chính phủ các quốc gia thành viên nhằm tạo một môi trường thương mại ổn định và dễ dự đoán. Đối với WTO, việc các quốc gia thành viên thoả thuận mở cửa thị trường hàng hoá hay dịch vụ đồng nghĩa với việc ràng buộc các cam kết. WTO yêu cầu các thành viên của tổ chức mình phải tìm cách làm cho các quy tắc thương mại trở nên rõ ràng và công khai, minh bạch. Nguyên tắc thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh. Có thể nói rằng, hệ thống pháp luật của WTO là một hệ thống các quy tắc nhằm đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh. Đó là những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử (quy chế tối huệ quốc), đối xử quốc gia nhằm bảo đảm những điều kiện thương mại bình đẳng cũng như những quy định về chống bán phá giá (xuất khẩu với giá thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm chiếm thị phần) và trợ cấp xuất khẩu. Nguyên tắc khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế. Hệ thống pháp luật của WTO góp phần vào quá trình phát triển và cải cách kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, do bên cạnh các nước kinh tế phát triển, trong WTO còn tồn tại các quốc gia đang phát triển nên các Hiệp định của WTO cũng thừa kế các quy định của GATT trước đây về việc dành sự trợ giúp đặc biệt ưu đãi hơn về thương mại cho các nước đang phát triển. Theo các nguyên tắc cơ bản trên đây của WTO, Việt Nam đang cố gắng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình nhằm thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các cam kết của mình khi gia nhập WTO. (1) Xem: Tìm hiểu tổ chức thương mại thế giới (WTO) do Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế tổ chức biên dịch, Nxb. Lao động- Xã hội, 2005, tr. 25. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 8 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009 2. Mở rộng và đảm bảo thực hiện các quyền tự do của công dân Theo Amartya Sen, người được giải thưởng Nobel về kinh tế học, phát triển là quyền tự do. Theo ông, quyền tự do cá nhân của con người là tài sản độc nhất, không thuộc riêng bất kỳ dân tộc nào, bất kỳ khu vực nào, bất kỳ truyền thống lịch sử và trí tuệ hoặc tôn giáo nào và đó chính là nguồn gốc của năng lực tham gia chính trị, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Trong cuốn sách “Phát triển là quyền tự do” ông đã viết: “Chúng ta sống trong một thế giới giàu có chưa từng thấy, một loại giàu có mà cách đây một hoặc hai thế kỷ khó có thể tưởng tượng được. Thế giới của chúng ta cũng đã trải qua những thay đổi đáng chú ý vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế. Thế kỷ XX đã thiết lập chế độ quản lý dân chủ và có sự tham gia quản lý của nhân dân như là mô hình tổ chức chính trị ưu việt. Các khái niệm về nhân quyền và tự do chính trị đã trở thành một bộ phận quan trọng của ngôn ngữ hùng biện hiện đang thịnh hành. Tuổi thọ trung bình của người dân cao hơn bao giờ hết. Cũng vậy, các vùng khác nhau trên toàn cầu liên kết với nhau chặt chẽ hơn bao giờ hết, không chỉ trong lĩnh vực buôn bán, thương mại và liên lạc, mà cả trong những ý tưởng và lý tưởng tương tác lẫn nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng sống trong một thế giới có sự tước đoạt, nghèo khổ và áp bức đáng lưu ý. Có nhiều vấn đề mới và cũ, kể cả sự nghèo khổ dai dẳng và những nhu cầu cơ bản không được đáp ứng, nạn đói chết người và tình trạng đói nghèo rộng khắp, tình trạng vi phạm các quyền tự do chính trị và quyền tự do cơ bản, sự sao nhãng một cách phổ biến những lợi ích và vai trò của phụ nữ và những đe doạ ngày càng lớn đối với môi trường và tính bền vững của đời sống kinh tế xã hội của chúng ta. Chúng ta có thể quan sát thấy nhiều sự tước đoạt ấy, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở các nước giàu cũng như các nước nghèo”. Theo quan điểm của Amartya Sen, việc mở rộng quyền tự do vừa được coi là mục đích cơ bản vừa được coi là phương tiện chủ yếu của sự phát triển. Phát triển bao gồm việc xoá bỏ các hạn chế quyền tự do làm cho nhân dân ít có lựa chọn và ít có cơ hội để thực thi vai trò cá nhân hợp lý của mình. Các quyền tự do kinh tế và chính trị củng cố lẫn nhau chứ không đối nghịch nhau. Cũng như vậy, các cơ hội xã hội về giáo dục và chăm sóc y tế lại có thể bổ sung cho các cơ hội tham gia kinh tế và chính trị của cá nhân. Các mối liên hệ lẫn nhau giữa các quyền tự do cá nhân có tính công cụ quan trọng bao gồm các cơ hội kinh tế, các quyền tự do chính trị, các cơ sở xã hội, các đảm bảo về tính minh bạch và an toàn xã hội. Các thiết chế xã hội bao gồm các thể chế nhà nước, thị trường, hệ thống pháp luật, các chính đảng, phương tiện truyền thông, các nhóm lợi ích công cộng và các diễn đàn thảo luận công cộng có sự đóng góp nhất định vào việc đảm bảo và tăng cường các quyền tự do thiết yếu của công dân và được coi là những tác nhân tích cực cho sự phát triển bền vững2. Sự phát triển bền vững có thể được coi là một quá trình mở rộng các quyền tự do thực sự mà người dân được hưởng. Việc tập trung vào các quyền tự do của con người là sự tương phản với những quan điểm hạn hẹp về sự phát triển, chẳng hạn như quan điểm coi phát triển chỉ là sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tăng thu nhập cá nhân, hoặc công nghiệp hoá, hoặc tiến bộ công nghệ, hoặc là hiện đại hoá xã hội. Tất nhiên, tăng trưởng GNP hoặc thu nhập cá nhân có ý nghĩa hết sức quan trọng với vai trò là phương tiện để mở rộng các quyền tự do mà các thành viên trong xã hội được hưởng. Tuy nhiên, các quyền tự do cũng phụ thuộc vào những nhân tố quyết định khác như hệ thống giáo dục và y tế, các quyền chính trị và dân sự của công dân như mức độ công dân được tham gia vào những quyết sách quan trọng của nhà (2) Amartya Sen, Phát triển là tự do, Nxb. Thống kê, 2002, tr. 9. NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 9112009 nước. Cũng như vậy, công nghiệp hoá hoặc tiến bộ công nghệ hoặc hiện đại hoá xã hội có thể đóng góp quan trọng vào việc mở rộng các quyền tự do của con người nhưng tự do còn phụ thuộc vào các điều kiện khác nữa. Nếu quyền tự do là điều kiện mà sự phát triển thúc đẩy thì có một sự tranh luận lớn về việc nên tập trung vào mục tiêu hàng đầu đó chứ không phải một số phương tiện cụ thể hay tập trung vào một số công cụ được sự lựa chọn đặc biệt nào đó. Việc nhìn nhận sự phát triển theo nghĩa mở rộng các quyền tự do thiết yếu sẽ dẫn dắt sự chú ý tới các mục đích làm cho phát triển phải toàn diện và bền vững, chứ không chỉ đơn thuần chú ý đến một số phương tiện có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển. Sự phát triển đòi hỏi phải gạt bỏ những nguồn gốc chủ yếu làm hạn chế quyền tự do của con người như sự nghèo khổ cũng như sự chuyên chế. Nếu sự nghèo khổ tước đoạt khả năng và cơ hội về hoạt động kinh tế và chính trị của con người thì sự chuyên chế hoặc sự trấn áp quá mức của các nhà nước độc tài cũng đưa đến hậu quả như vậy. Trong nhiều trường hợp, sự hạn chế quá mức các quyền tự do là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo như: người nông dân sản xuất ra lương thực nhưng không được bán trên thị trường tự do; việc cấm lưu thông hàng hoá làm cho người sản xuất không bán được sản phẩm của mình; việc pháp luật không cho phép công dân quyền tự do kinh doanh làm cho người dân không thể giàu lên được; việc cấm mua bán đất làm hạn chế khả năng kinh doanh bất động sản của công dân. Theo Amartya Sen, quyền tự do là nhân tố trung tâm của quá trình phát triển vì hai lý do cơ bản sau đây: - Lý do về ước lượng - việc đánh giá sự tiến bộ phải được tiến hành chủ yếu căn cứ vào việc dự liệu các quyền tự do của con người có được tăng cường hay không; - Lý do về hiệu quả - việc đạt được sự phát triển là hoàn toàn phụ thuộc vào quyền tự do hoạt động của con người. Cũng theo tác giả này, các quyền tự do của con người vừa là mục tiêu vừa là công cụ đảm bảo sự phát triển xã hội. Có năm loại quyền tự do và cơ hội mang tính công cụ: 1) các quyền tự do chính trị; 2) các quyền tự do kinh tế; 3) các cơ hội xã hội; 4) các bảo đảm về tính minh bạch; 5) các bảo đảm về an toàn xã hội. Các quyền tự do và các cơ hội có sự tương tác lẫn nhau và đều có vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững. Tự do chính trị (dưới hình thức tự do ngôn luận và tự do tuyển cử) góp phần thúc đẩy an ninh kinh tế. Các cơ hội xã hội (một hệ thống giáo dục và y tế chất lượng cao) tạo điều kiện dễ dàng cho các hoạt động kinh tế. Các điều kiện kinh tế (dưới hình thức cơ hội tham gia vào thương mại và sản xuất) có thể góp phần tạo ra sự giàu có cá nhân và những nguồn lực công cộng cho các cơ sở tiện nghi xã hội. Các quyền tự do khác nhau có thể có sự tương hỗ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, quyền tiếp cận thông tin được nhiều quốc gia trên thế giới coi như là điều kiện không thể thiếu để có thể phát triển bền vững. Không phải ngẫu nhiên mà Thụy Điển- quốc gia được coi là một trong những quốc gia phát triển toàn diện và bền vững nhất lại là quốc gia ban hành Luật tiếp cận thông tin sớm nhất (năm 1776). Vào những năm 1990 mới chỉ có 13 quốc gia ban hành Luật tiếp cận thông tin thì đến năm 2008 đã có 86 quốc gia ban hành Luật tiếp cận thông tin. Với luật này, thông tin được coi là tài sản quốc gia. Ngày nay, quyền tiếp cận thông tin như một nền tảng thiết yếu của chế độ dân chủ. Nói cách khác, dân chủ chính là khả năng của người dân tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình ra quyết định của cơ quan nhà nước - những quyết định mà người dân chính là người chịu hậu quả. Muốn tham gia vào quá trình này, người dân phải có quyền tiếp cận thông tin. Ở nước ta, muốn thực hiện phương châm mọi công việc quan trọng của nhà nước 10 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009 dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra thì phải đảm bảo cho công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành xây dựng Luật tiếp cận thông tin. Có thể nói, đây là bước hoàn thiện mới cho việc bảo đảm quyền tự do của công dân. 3. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường Đây là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững. Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống bao gồm bảo vệ các nguồn nước, các hệ sinh thái động, thực vật, rừng, đất đai, sự trong sạch của không khí, tầng ô zôn. Trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, chúng ta đã phạm nhiều sai lầm khi không chú ý đúng mức đến vấn đề bảo vệ môi trường. Những “dòng sông chết” như sông Tô Lịch, sông Séc, Sông Lừ ở Hà Nội, sông Sài Gòn ở TP. Hồ Chí Minh, sông Thị Vải ở Đồng Nai xuất hiện ngày càng nhiều. Đó chính là hệ quả của việc phát triển đô thị ồ ạt mà không quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các hệ thống xử lý nước thải. Do nguồn nước ô nhiễm nặng nề mà nguy cơ bệnh tật của người dân Việt Nam hiện nay khá cao. Nguồn nước ô nhiễm cũng khiến các loại rau xanh cung cấp cho các đô thị ở Việt Nam cũng có nguy cơ ô nhiễm cao do nguồn nước tưới cây không được trong sạch. Nguồn nước ô nhiễm khiến không khí cũng bị ô nhiễm do mùi bốc lên từ các dòng sông và kênh rạch. Do tốc độ đô thị phát triển nhanh nhưng kết cấu hạ tầng cơ sở không được thay đổi cơ bản nên hiện tượng ùn tắc giao thông ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh ngày càng trầm trọng. Đi liền với nạn ùn tắc giao thông là ô nhiễm không khí. Mức độ ô nhiễm không khí ở các đô thị lớn ở Việt Nam do bụi đường, khói xe và đất cát rơi vãi từ các xe chở nguyên vật liệu trong thành phố là khá cao. Đây là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ người thành phố mắc các bệnh về xoang, mũi, họng, phổi khá cao. Vấn đề xử lý rác đô thị cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách như nhiều bãi rác lớn do xử lý thiếu khoa học nên đã gây ô nhiễm cho nhân dân khu vực gần bãi rác. Hiện tượng tiếng ồn do động cơ ô tô, tàu hoả và các loại còi xe cùng với các loại ô nhiễm khác đã làm cho người dân thành thị có chất lượng cuộc sống giảm sút mặc dù thu nhập của họ có thể tăng lên. Những bất cập trên đây đòi hỏi các cơ quan xây dựng pháp luật cần tăng cường hơn nữa các chế tài xử phạt và nghiêm minh trong việc áp dụng đối với những cá nhân và tổ chức vi phạm pháp luật môi trường. Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước địa phương cần nhanh chóng tìm các biện pháp tiếp cận với công nghệ hiện đại khi xử lý chất thải rắn và lỏng của các nước tiên tiến để áp dụng ở Việt Nam. Vấn đề môi trường nước ta hiện nay cần phải được coi là công việc quan trọng nhất trong các công việc quan trọng đặt trên bàn nghị sự của các cơ quan nhà nước. Tiến hành một chiến lược bảo vệ môi trường lâu dài và bền vững, theo đó các dự án trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, phát triển kinh tế, phát triển điện lực, phát triển giáo dục- đào tạo phải đặt tiêu chí bảo vệ và khôi phục môi trường sống lên hàng đầu. Thêm nữa, cần tách Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường thành hai Bộ là Bộ Khoa học - công nghệ và Bộ Môi trường. Trên thế giới, nhiều nước cũng đã nhìn thấy tầm quan trọng của vấn đề môi trường đối với đời sống quốc gia nên đã thành lập Bộ Môi trường, ví dụ Hoa Kỳ năm 1990 đã thành lập Bộ Môi trường. Ngoài ra, nước ta cần nhanh chóng xây dựng Bộ luật môi trường để có thể hệ thống hoá pháp luật môi trường một cách đồng bộ và thống nhất trong một văn bản pháp luật có mức độ hệ thống hoá và pháp điển hoá cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và bảo vệ môi trường. (Kỳ sau đăng tiếp) NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_tieu_chuan_danh_gia_muc_do_dam_bao_yeu_cau_phat_trien_be.pdf
Tài liệu liên quan