Cần quan tâm, giáo dục các em trong việc
phòng chống bạo lực, đánh nhau và các tai nạn,
thương tích, đặc biệt là ở đối tượng nam sinh.
Gia đình, nhà trường và xã hội cần quan tâm
sức khỏe tâm thần cho các em
Nhà trường nên phối hợp với các cơ quan
chức năng có liên quan tổ chức các chương trình
giáo dục phòng chống thuốc lá, rượu/bia; cũng
như có các biện pháp can thiệp thích hợp đối với
những học sinh đã và đang sử dụng rượu/bia,
thuốc lá, giúp các em nhận thức và thay đổi
hành vi để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của
bản thân. Phụ huynh học sinh cần quan tâm,
tránh và hạn chế tạo điều kiện cho các em sử
dụng rượu bia vì phần lớn học sinh có rượu/bia
để uống là từ gia đình.
Các chương trình giáo dục sức khỏe sinh
sản, đặc biệt là về nội dung tình dục an toàn nên
đưa vào sớm hơn để các em có kiến thức và kỹ
năng tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân vì phần
lớn các em không sử dụng bao cao su, cũng như
các biện pháp tránh thai khác.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề sức khỏe ở học sinh 13 đến 15 tuổi tại phường 8 thành phố Vũng Tàu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 402
CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE Ở HỌC SINH 13 ĐẾN 15 TUỔI
TẠI PHƯỜNG 8 THÀNH PHỐ VŨNG TÀU
Nguyễn Doãn Thành*, Dương Tiểu Phụng*, Nguyễn Thủy Tiên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Học sinh là đối tượng dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến những hành vi ảnh
hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, cần thiết có một nghiên cứu điểm để mở rộng vấn đề này trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các hành vi sức khỏe và các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi 13 – 15 tại
phường 8 thành phố Vũng Tàu
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên toàn bộ học sinh từ 13 ‐15 tuổi tại phường 8, thành
phố Vũng Tàu. Khi thực hiện, điều tra viên hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho học sinh về cách tự điền vào bộ câu hỏi
và hướng dẫn, giải đáp những thắc mắc của học sinh nếu các em chưa hiểu các vấn đề trong suốt quá trình học
sinh tự điền vào bộ câu hỏi.
Kết quả nghiên cứu: Kết quả điều tra 614/630 em cho thấyphần lớn học sinh ăn nhiều rau, trái cây. Tỷ lệ
học sinh thường ăn rau, trái cây ít nhất 1 lần/ngày lần lượt là 90,7% và 83,9%, tỷ lệ này ở nữ cao hơn ở nam
(p=0,02). Có 45,7% và 40,2% học sinh thường uống nước ngọt có gas và ăn thức ăn nhanh ít nhất 1
lần/ngày;22,5% không có ngày nào tham gia hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày; 11,2% thật sự nghĩ đến việc
tự tử/12 tháng qua. Có 13,8% bị tấn công thể chất, 17,1% bị chấn thương nặng ít nhất 1 lần/12 tháng qua, các
tỷ lệ này ở nam cao hơn nữ (p<0,001 và p=0,001). 47,2% học sinh hút thuốc lá ít nhất 1 ngày/30 ngày qua. Tỷ lệ
học sinh uống rượu/bia là 29,3%.Có 47,4% có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên biết
được các em làm gì vào thời gian rãnh, tỷ lệ này ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi (p=0,001) và 51,3% học
sinh có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra lời khuyên cho các em.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra vấn đề sức khỏe của học sinh ở thời điểm điều tra và những
định hướng ưu tiên can thiệp, dự phòng bệnh tật cho học sinh ở địa phương và đây cũng là cơ sở cần thiết cho
nghiên cứu mở rộng về các hành vi nguy cơ sức khỏe ở học sinh trong tương lai.
Từ khóa: hành vi sức khỏe, học sinh, Vũng Tàu
SUMMARY
HEALTH BEHAVIORS AMONG CHILDREN SCHOOL‐AGED 13 ‐15 YEARS
IN COMMUNE 8, VUNG TAU CITY
Nguyen Doan Thanh, Duong Tieu Phung, Nguyen Thuy Tien
* Y Hoc Tp. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 402 – 409
Background: Student is vulnerable to the environment which lead to behaviors affecting health.
Objectives: To determine the prevalence and determinants of health behaviors among children school‐aged
13‐15 years in district 8, Vung Tau City.
Method: Cross‐sectional study of all children school‐aged 13‐15 years in commune 8 Vung Tau city.
Results: 630 school children were enumerated, but there were 614 students participated in the study. The
research result indicates that most of students usually eat plenty of vegetables and fruits. The percentage of eating
vegetables and fruit one or more times per day during the previous 30 days were 90.7% and 83.9% respectively,
* Viện Y tế Công cộng Tp. HCM
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Doãn Thành ĐT: 0989028559Email: nguyendoanthanh@ihph.org.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 403
these proportions were higher in female compared to male (p=0.02).There were 45.7% and 40.2% of students who
usually drink fizzy drinks and eat fastfood one or more times per day during the previous 30 days. 22.5% of
students had no physically active day for a total of at least 60 minutes per day. 11.2% of student seriously
considered attempting suicide during the past 12months; 13.8% were in a physical fight, 17.1% were seriously
injured one or more times during the past 12 months, these proportions were higher in male compared to female
(p<0.0001 and p=0.001). The percentage of smoking one or more times per day during the prevous 30 days was
47.2%. 29.3% of students drank alcohol. 2.8% of students had sexual intercourse, 35.3% of those had the frist
sexual intercourse at under 11 years old. There were 47.4% of students who have parents or guardians always
know what students spend on free time, this proportion was greater in the boys than the girls (p=0.001) and
51.3% of students who have parents or guardians always give advices to them.
Conclusion: The study results provide a background for conducting interventions, preventing local students
from diseases and will establish a baseline for further studies on risk behaviors among students in the future.
Key words: health behaviours, school children,Vung Tau
ĐẶT VẤNĐỀ
Lứa tuổi học đường là giai đoạn các em dễ bị
tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến
những hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe. Theo
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có hơn 2,6 triệu
người từ 10 – 24 tuổi tử vong mỗi năm, chủ yếu
là do các nguyên nhân có thể phòng ngừa được.
Trong đó, chấn thương là nguyên nhân gây tử
vong và tàn tật hàng đầu ở trẻ em trong độ tuổi
đi học, khoảng 430 người trong độ tuổi từ 10 – 24
tuổi tử vong mỗi ngày do hành vi bạo lực mang
tính cá nhân(4). Tổ chức Y tế Thế giới đã phát
triển bộ công cụ điều tra GSHS (Global school‐
based student health survey)để khảo sát hành vi
nguy cơ sức khoẻ và các yếu tố bảo vệ ở học sinh
trong các trường học. Hiện nay, học sinh Việt
Nam là nguồn nhân lực tương lai dồi dào, cần
được xã hội và các ngành chức năng quan tâm,
chăm sóc.Đây cũng là đối tượng dễ bị ảnh
hưởng sức khoẻ nếu chúng ta không có các biện
pháp dự phòng và nâng cao sức khoẻ một cách
chủ động, thích hợp; đặc biệt là ở lứa tuổi vị
thành niên. Theo điều tra quốc gia về vị thành
niên và thanh niên Việt Nam cho thấy tỷ lệ sử
dụng rượu/bia có khuynh hướng gia tăng và
tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở vị thành niên và
thanh niên có xu hướng giảm.
Thành phố Vũng Tàu là một trong những
thành phố du lịch lớn và phát triển tại Việt
Nam.Hiện nay, học sinh tại vùng đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề sức khỏe, đặc biệt là lứa
tuổi vị thành niên. Theo kết quả điều tra của
bệnh viện tâm thần Bà Rịa‐ Vũng Tàu, trong 100
học sinh trung học cơ sở thì có 19 em mắc các
vấn đề về sức khỏe tâm lý, tâm thần(1). Vì thế,
việc điều tra về các hành vi nguy cơ sức khoẻ ở
học sinh từ 13 đến 15 tuổi trong các trường học
tại vùng theo như WHO hiện đang hưởng ứng ở
các nước trên thế giới được xem là rất cần thiết,
quan trọng. Nghiên cứu này giúp nhận biết các
hành vi nguy cơ sức khoẻ và các yếu tố bảo vệ ở
học sinh trong tình hình hiện nay tại vùng. Kết
quả nghiên cứu góp phần đưa ra những định
hướng can thiệp, dự phòng bệnh tật cho học
sinh ở địa phương và là cơ sở cần thiết cho
nghiên cứu mở rộng về các hành vi nguy cơ sức
khỏe ở học sinh trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Xác định tỷ lệ các hành
vi sức khỏe và các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi
13 – 15 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu
Mục tiêu cụ thể
Xác định tình trạng dinh dưỡng, tỷ lệ các
hành vi sức khỏe bao gồm hành vi ăn uống, vệ
sinh cá nhân, hoạt động thể lực, sức khỏe tâm
thần, bạo hành và chấn thương không chủ định,
sử dụng rượu, thuốc lá, hành vi tình dục ở học
sinh từ 13 đến 15 tuổi tại phường 8 thành phố
Vũng Tàu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 404
Xác định tỷ lệ các yếu tố bảo vệ ở học sinh
tuổi 13 – 15 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu
Xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh
dưỡng, các hành vi sức khỏe, các yếu tố bảo vệ
với một số đặc điểm của học sinh: tuổi, giới.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Từtháng 5‐12/2013 tại phường 8 thành phố
Vũng Tàu.
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh 13 đến 15 tuổi đang học tại các
trường thuộc phường 8 thành phố Vũng Tàu,
tỉnh Bà Rịa ‐ Vũng Tàu vào năm học 2012‐2013.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn toàn bộ học sinh từ 13 – 15 tuổi đang
học tại các trường trên địa bàn phường 8, thành
phố Vũng Tàu vào thời điểm điều tra.
Công cụ và phương pháp thu thập dữ kiện
Điều tra viên đo chiều cao và cân nặng học
sinh bằng thước và cân chuyên dụng. Học sinh
tự điền vào bộ câu hỏi của WHO. Bộ câu hỏi bao
gồm các mục: thông tin chung, hành vi ăn uống,
vệ sinh cá nhân, hoạt động thể lực, sức khỏe tâm
thần, chấn thương và bạo hành, sử dụng thuốc
lá, sử dụng rượu/bia, hành vi tình dục, các yếu tố
bảo vệ.
Điều tra viên được tập huấn kỹ về phương
pháp thu thập số liệu. Điều tra viên hướng dẫn
chi tiết, cụ thể cho học sinh về cách tự điền vào
bộ câu hỏi và hướng dẫn, giải đáp những thắc
mắc của học sinh nếu các em chưa hiểu các vấn
đề trong suốt quá trình học sinh tự điền vào bộ
câu hỏi.
Thực hiện giám sát trong suốt quá trình thu
thập số liệu nhằm đảm bảo thông tin chính xác
và không bị thiếu. Điều tra viên và các giáo viên
giám sát, quản lý học sinh nhằm đảm bảo các em
tự điền vào bộ câu hỏi một cách nghiêm túc.
Số liệu được nhập bằng Epidata 3.02, phân
tích bằng Stata 10.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của đối tượng nghiêu cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh
thuộc ba lứa tuổi 13, 14 và 15 tuổi tương đương
nhau, với tỷ lệ lần lượt là 35%, 30,9% và 34,1%.
Tỷ lệ nữ sinh và nam sinh tương đương nhau
(50,7% và 49,3%). Tỷ lệ học sinh bị suy dinh
dưỡng là 8%, có khoảng 15% học sinh thừa
cân/béo phì.
Các hành vi sức khỏe, yếu tố bảo vệ và các
yếu tố liên quan
Hành vi ăn uống, vệ sinh cá nhân
Phần lớn học sinh ăn nhiều rau, trái cây;
83,9% thường ăn trái cây ít nhất 1 lần/ngày, tỷ lệ
này ở nữ cao hơn ở nam. Tỷ lệ học sinh thường
ăn rau ít nhất 1 lần/ngày là 90,7%. Tỷ lệ học sinh
thường uống nước ngọt có gas ít nhất 1 lần/ngày
là 45,7%, có 40,2% thường ăn thức ăn nhanh ít
nhất 1 lần/ngày. Có sự khác biệt về tỷ lệ ăn trái
cây, rau củ giữa nam sinh và nữ sinh, giữa
những học sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau.
Những tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với nam
sinh, ở học sinh 13, 14 tuổi cao hơn so với học
sinh 15 tuổi (p<0.001).
Vệ sinh cá nhân ở học sinh khá tốt, chỉ có
8,3% học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa
tay trước khi ăn có 4,5% không bao giờ hoặc hiếm
khi rửa tay sau khi đi vệ sinh, 10,7% học sinh
không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay bằng xà
phòng. Tỷ lệ đánh răng < 1 lần/ngày ở học sinh 15
tuổi cao hơn so với học sinh 13 và 14 tuổi.
Hoạt động thể lực
Bảng 1: Thời gian tham gia hoạt động thể lực, hoạt
động tĩnh tại, đi xe đạp/đi bộ ở học sinh (n=614)
Đặc tính N (%) Đặc tính N (%)
Số ngày hoạt
động thể lực
Thời gian dành cho các
hoạt động tĩnh tại
0 ngày 138 (22,5) Ít hơn 1
giờ/ngày
32 (5,2)
1 ngày 116 (18,9) 1-2 giờ/ngày 181 (29,5)
2 ngày 118 (19,2) 3-4 giờ/ngày 232 (37,8)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 405
Đặc tính N (%) Đặc tính N (%)
3 ngày 91 (14,8) 5-6 giờ/ngày 83 (13,5)
4 ngày 47 (7,7) 7-8 giờ/ngày 47 (7,6)
5 ngày 23 (3,8) > 8 giờ/ngày 39 (6,4)
6 ngày 25 (4,0)
7 ngày 56 (9,1)
Số ngày đi xe
đạp/đi bộ
0 ngày 116 (18,9)
1 ngày 67 (10,9)
2 ngày 41 (6,7)
3 ngày 33 (5,4)
4 ngày 33 (5,4)
5 ngày 28 (4,6)
6 ngày 76 (12,3)
7 ngày 220 (35,8)
Có 22,5% học sinh không có ngày nào tham
gia hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày. Tỷ lệ
này ở nữ cao hơn so với nam (27,7% so với 17,2%;
p=0,002), ở học sinh 15 tuổi cao hơn so với 13, 14
tuổi ((30,1% so với 15,8% và 21,6%; p=0,002). Có
18,9% học sinh không đi xe đạp đến trường hoặc
từ trường về nhà, 65,3% học sinh dành ít nhất 3
giờ/ngày cho các hoạt động tĩnh tại.
Sức khỏe tâm thần
Tỷ lệ học sinh thường xuyên hoặc luôn luôn
cảm thấy cô đơn trong 12 tháng qua là 9,3%, tỷ lệ
này ở nữ sinh cao hơn so với nam sinh. Có 7,6%
thường xuyên hoặc luôn luôn cảm thấy lo lắng
đến nỗi không ngủ được vào ban đêm, 11,1%
thường xuyên hoặc luôn luôn cảm thấy khó tập
trung. Có 11,2% thật sự nghĩ đến việc tự tử trong
12 tháng qua, tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với
nam sinh (14,5% so với 7,6%; p=0,007). Trong đó
có 23,2% học sinh có hành vi tự tử dẫn đến bị
thương, ngộ độc hay sử dụng thuốc quá liều mà
phải đến cơ sở y tế.
Bạo hành và chấn thương không chủ định
Tỷ lệ học sinh bị tấn công thể chất, đánh
nhau, bị chấn thương nặng ít nhất 1 lần/12 tháng
qua lần lượt là 13,8%, 14,9% và 17,1%. Các tỷ lệ
này ở nam sinh cao hơn so với nữ sinh, với tỷ lệ
lần lượt là 18,8% so với 9,0%, 23,4% so với 9,7%,
22,4% so với 12,5% (p<0,001). Các loại chấn
thương chủ yếu là gãy xương/trật khớp (27,1%),
chấn thương đầu cổ (12,2%). Nguyên nhân gây
chấn thương phần lớn là do té ngã (42,1%), tai
nạn giao thông (9,3%), bị đánh/đánh nhau
(7,5%). Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt ít nhất 1 ngày
trong 30 ngày qua là 13,3%. Cách thức bắt nạt
chủ yếu là trêu đùa vì hình dáng bên ngoài
(19,3%), bị tẩy chay/phớt lờ (8,4%), bị trêu bằng
những câu nói/những bình luận, cử chỉ liên quan
đến tình dục (7,2%). Không có sự khác biệt về tỷ
lệ bị bắt nạt ít nhất là 1 ngày trong 30 ngày qua
giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh
thuộc lứa tuổi khác nhau.
Sử dụng rượu bia, thuốc lá
Bảng 2: Sử dụng thuốc lá, rượu bia ở học sinh
Đặc tính N (%) Đặc tính N (%)
Tuổi hút thuốc lá
lần đầu
Uống rượu bia
lần đầu
≤ 7 tuổi 9 (25,0) ≤ 7 tuổi 42 (23,3)
8 hoặc 9 tuổi 4 (11,1) 8 hoặc 9 tuổi 28 (15,6)
10 hoặc 11 tuổi 2 (5,6) 10 hoặc 11 tuổi 28 (15,6)
12 hoặc 13 tuổi 10 (27,8) 12 hoặc 13 tuổi 50 (27,8)
14 hoặc 15 tuổi 11 (30,5) 14 hoặc 15 tuổi 32 (17,7)
Tổng 36 (100) Tổng 180 (100)
Số ngày hút thuốc/30 ngày
qua
Số ngày uống đồ
uống có cồn
0 ngày 19 (52,8) 0 ngày 92 (51,1)
1 hoặc 2 ngày 10 (27,8) 1 hoặc 2 ngày 65 (36,1)
3-5 ngày 3 (8,3) 3-5 ngày 17 (9,5)
6-9 ngày 1 (2,8) 6-9 ngày 2 (1,1)
10-19 ngày 1 (2,8) 10-19 ngày 2 (1,1)
30 ngày 2 (5,5) 20-29 ngày 2 (1,1)
Tổng 36 (100) Tổng 180 (100
Số ngày hút thuốc
thụ động
Số đơn vị
rượu/bia
0 ngày 30 (26,3) < 1 đơn vị rượu 42 (47,7)
1 hoặc 2 ngày 42 (36,8) 1 đơn vị rượu 29 (32,9)
3 hoặc 4 ngày 18 (15,8) 2 đơn vị rượu 7 (8,0)
5 hoặc 6 ngày 4 (3,5) 3 đơn vị rượu 3 (3,4)
7 ngày 20 (17,6) 4 đơn vị rượu 2 (2,3)
Tổng 114 (100) Tổng 88 (100)
Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá là 5,9%. Đa số học
sinh hút thuốc lá lần đầu lúc 12 đến 15 tuổi, có
25% học sinh hút thuốc lá lần đầu lúc ≤ 7 tuổi. Tỷ
lệ học sinh hút thuốc lá ít nhất 1 ngày/30 ngày
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 406
qua là 47,2%. Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá thụ
động ít nhất 1 ngày trong 30 ngày qua là 73,7%.
Tỷ lệ học sinh uống rượu/bia là 29,3%, Phần
lớn học sinh uống rượu bia lần đầu lúc 12‐13
tuổi (27,8%) và ≤ 7 tuổi (23,3%). Có 48,9% học
sinh có ít nhất 1 ngày uống thức uống có cồn và
52,3% uống ít nhất 1 đơn vị rượu trong 30 ngày
qua. Phần lớn học sinh có rượu/bia để uống là
do gia đình cho (61,4%). Có 26,7% học sinh bị
say rượu ít nhất là 1‐2 lần. 61,5% có cha mẹ hoặc
người chăm sóc uống rượu/bia, 59,6% có bạn bè
uống rượu/bia. Kết quả nghiên cứu cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ
lệhút thuốc lá lần đầu, tỷ lệ uống rượu bia lần
đầu lúc ≤ 14 tuổi giữa những học sinh thuộc các
lứa tuổi khác nhau. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ hút thuốc lá, uống rượu
bia ít nhất là 1‐2 ngày trong 30 ngày qua, tỷ lệ
hút thuốc lá thụ động ít nhất là 1‐2 ngày, tỷ lệ
uống ít nhất đơn vị rượu trong 30 ngày qua giữa
nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh thuộc
các lứa tuổi khác nhau.
Hành vi tình dục
Tỷ lệ học sinh đã quan hệ tình dục là 2,78%.
Tỷ lệ học sinh không có sử dụng bao cao su
trong lần quan hệ tình dục vừa rồi là 64,7%.
35,3% không sử dụng các biện pháp tránh thai
khác. Không có sự khác biệt về các hành vi tình
dục giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học
sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau.
Các yếu tố bảo vệ
Tỷ lệ học sinh có cha mẹ hoặc người trông
nom luôn luôn, thường xuyên kiểm tra bài tập
về nhà là 33,6%; tỷ lệ này ở nam sinh cao hơn nữ
sinh, ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi. Có
47,4% biết được các em làm gì và thời gian rảnh;
tỷ lệ này ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi.
Có 56,4% học sinh có cha mẹ hoặc người trông
nom không bao giờ hoặc hiếm khi can thiệp vào
việc của học sinh. 51,3% có cha mẹ hoặc người
trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra
lời khuyên cho các em.
BÀN LUẬN
Về chế độ ăn rau và trái cây, kết quả
nghiên cứu cho thấy phần lớn học sinh có ăn
rau và trái cây trong 30 ngày qua. Kết quả này
phù hợp với một số nghiên cứu trên thế
giới(5,6). Điều này có lợi cho sức khỏe của các
em. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn
nhiều rau và trái cây tốt cho sức khỏe, làm
giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư và
những bệnh mạn tính khác(2). Kết quả nghiên
cứu cho thấy phần lớn học sinh có ý thức vệ
sinh cá nhân tốt. Tỷ lệ học sinh không đánh
răng hoặc đánh răng ít hơn 1 lần/ngày rất thấp
(3,6%). Đa số học sinh thường xuyên rửa tay
trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, chỉ có 8,3%
học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay
trước khi ăn, 4,5% học sinh không bao giờ hoặc
hiếm khi rửa tay sau khi đi vệ sinh. Các kết
quả này phù hợp với một số điều tra về hành
vi sức khỏe của học sinh tại một số quốc gia
trên thế giới(5,6,7).Việc giữ gìn vệ sinh cá nhân
tốt ở các em có lợi cho sức khỏe, giúp phòng
ngừa các bệnh lý về răng miệng và một số
bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa như tiêu
chảy, giun sán – các vấn đề sức khỏe thường
gặp ở lứa tuổi học đường.
Nghiên cứu cũng cho thấy phần lớn học sinh
ít tham gia vào những hoạt động thể chất. Tỷ lệ
học sinh có 7 ngày hoạt động thể chất ít nhất 60
phút/ngày trong 1 tuần qua là rất thấp (9,1%).
Thời gian dành cho các hoạt động tĩnh tại ở học
sinh như xem tivi, sử dụng máy vi tính, chơi
game, ngồi tán gẫu với bạn bè khá cao. Có đến
65,3% học sinh dành ≥ 3 giờ/ngày cho các hoạt
động tĩnh tại vào một ngày điển hình (bảng 1).
So với kết quả nghiên cứu về các hành vi sức
khỏe ở một số quốc gia trên thế giới, học sinh
trong nghiên cứu này dành nhiều thời gian cho
các hoạt động tĩnh tại nhiều hơn so với học sinh
ở các nước khác(6,7). Việc ít tham gia các hoạt
động thể lực, dành nhiều thời gian cho những
hoạt động tĩnh tại ảnh hưởng đến sức khỏe của
học sinh, là một trong những yếu tố nguy cơ dẫn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 407
đến tình trạng thừa cân, béo phì và các vấn đề
sức khỏe khác(9,3). Nhà trường, gia đình, các cơ
quan chức năng cần chú trọng giáo dục các em
về tầm quan trọng của các hoạt động thể lực
trong việc phòng chống thừa cân – béo phì; cũng
như khuyến khích, động viên, nhắc nhở các em
tham gia các hoạt động thể lực.Điều này góp
phần làm giảm gánh nặng trong tương lai về các
bệnh mạn tính liên quan đến thừa cân‐béo phì.
Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh có một
số vấn đề về sức khỏe tâm thần, tuy nhiên các tỷ
lệ này không cao. Kết quả này tương tự với một
số nghiên cứu trên thế giới(5,6). Tỷ lệ học sinh
trong nghiên cứu tại Vũng Tàu có mức độ
thường xuyên gặp phải các vấn đề về sức khỏe
tâm thần là khá thấp. Điều này có thể được giải
thích là do phần lớn các em có nhiều bạn thân,
có đến 68,2% học sinh có ít nhất là 3 người bạn
thân; những người bạn thân sẽ giúp các em chia
sẻ, tâm sự, trút bỏ, giảm bớt những lo lắng,
phiền muộn, giải tỏa tâm lý. Về hành vi tự tử,
kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh thật
sự nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng qua là
11,2%. Trong số đó có 23,2% học sinh có hành vi
tự tử dẫn đến bị thương, ngộ độc hay sử dụng
thuốc quá liều mà phải đến bác sĩ hay nhân viên
y tế. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu
trên thế giới(6).
Tỷ lệ học sinh bị tấn công thể chất ít nhất là 1
lần trong 12 qua thấp hơn so với tỷ lệ được tìm
thấy trong các cuộc điều tra về hành vi sức khỏe
của học sinh ở một số quốc gia trên thế giới(5,6,7).
Điều này cho thấy tình hình bạo lực ở học sinh
tại vùng vẫn còn thấp hơn so với nhiều khu vực
trên thế giới. Vì thế, nhà trường và gia đình cần
có các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn trước
khi tình trạng này gia tăng trong những năm
tiếp theo. Về tình hình các chấn thương nặng, kết
quả nghiên cứu cho thấy có 17,1% học sinh bị
chấn thương nặng ít nhất là 1 lần trong vòng 12
tháng qua. Tỷ lệ này thấphơn so với tỷ lệ được
tìm thấy trong một số nghiên cứu khác(5,6,7).
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh
hút thuốc lá lần đầu lúc ≤ 13 tuổi tương đương
với tỷ lệ tìm được trong nghiên cứu về hành vi
sức khỏe của học sinh tại Thái Lan và
Indonesia(6,5). Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá ít nhất
là 1 ngày trong 30 ngày qua (47,2%) cao hơn so
với tỷ lệ được tìm thấy trong nghiên cứu tại Thái
Lan (8,2%)(6) và Indonesia (10,9%)(5). Điều này có
thể được giải thích là do tỷ lệ học sinh có người
thân hút thuốc lá trong nghiên cứu tại thành phố
Vũng Tàu là khá cao (55,2%). Việc hút thuốc lá ở
người thân có ảnh hưởng đến tình hình hút
thuốc lá ở trẻ. Những trẻ tiếp xúc với khói thuốc
lá ở gia đình có khả năng hút thuốc lá cao gấp
1,5 đến 2 lần so với những trẻ không có tiếp
xúc(8).Ngoài ra, một vấn đề quan trọng khác nữa
là tỷ lệ học sinh hút thuốc lá thụ động ít nhất 1
ngày là khá cao (73,7%.). Việc hút thuốc lá thụ
động có ảnh hưởng đến sức khỏe không kém so
với việc hút thuốc lá chủ động. Hút thuốc lá thụ
động là nguyên nhân dẫn đến các bệnh mạch
vành, hô hấp ở người lớn; dẫn đến đột tử ở trẻ
sơ sinh và dẫn đến tình trạng sinh con nhẹ cân ở
phụ nữ mang thai. Ở trẻ em, hút thuốc lá thụ
động là một trong những nguyên nhân góp
phần của khoảng 31% các trường hợp tử vong(8).
Về việc uống rượu/bia ở học sinh, nghiên
cứu cho thấy tỷ lệ uống rượu/bia ở học sinh
(29,3%) cao hơn so với điều tra tại Thái Lan vào
năm 2008 (14,8%)(6). Bên cạnh đó, tỷ lệ học sinh
có ít nhất 1 ngày uống thức uống có cồn (48,9%),
tỷ lệ học sinh uống ít nhất 1 đơn vị rượu/bia
(52,3%) trong 30 ngày qua cũng cao hơn so với
kết quả nghiên cứu tại Thái Lan và
Indonesia(6,5). Điều này cho thấy sự đáng lo ngại
về tình hình sử dụng rượu/bia ở học sinh tại
vùng.Đây là một vấn đề sức khỏe ảnh hưởng lớn
đến các em.
Tỷ lệ học sinh đã quan hệ tình dục là 2,78%.
Trong số những học sinh đã quan hệ tình dục có
70,6% là ở tuổi từ 13 trở xuống, đây là đối tượng
cần được quan tâm bảo vệ, chăm sóc phòng
ngừa thông qua giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh
sản. Đáng chú ý hơn, kết quả nghiên cứu còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 408
cho thấy trong số những học sinh đã quan hệ
tình dục thì có 17,7% học sinh có quan hệ tình
dục với 2 người, tỷ lệ này cũng tương tự cho
những học sinh có quan hệ tình dục ≥ 6 người.
Điều đó khẳng định thêm hiện trạng mang tính
xã hội về quan hệ tình dục tuổi học sinh đã là hồi
chuông báo động về một thực tế đáng lo ngại mà
cộng đồng xã hội cần quan tâm để tìm nguyên
nhân và giải pháp ngăn ngừa.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phụ
huynh học sinh chưa thật sự quan tâm nhiều đến
các em.Tỷ lệ học sinh có cha mẹ hoặc người trông
nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên
kiểm tra bài tập về nhà của học sinh là 33,6%. Có
47,4% học sinh có cha mẹ hoặc người trông
nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên biết
được các em làm gì vào thời gian rảnh. Tỷ lệ học
sinh có cha mẹ hoặc người trông nom/chăm sóc
luôn luôn hoặc thường xuyên hiểu được những
khó khăn và lo lắng của học sinh là 31,9%. Có
51,3% học sinh có cha mẹ hoặc người trông
nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên đưa
ra lời khuyên và hướng dẫn cho các em. Các kết
quả này tương tự như một số điều tra về hành vi
sức khỏe ở học sinh trên thế giới(6,7). Đây là điều
đáng lưu ý trong việc quan tâm, giám sát của nhà
trường và phụ huynh học sinh. Nhà trường, phụ
huynh có vai trò rất quan trọng trong việc chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe cho các em.Mối quan hệ tích
cực giữa giáo viên, phụ huynh và học sinh là yếu
tố giúp làm giảm tỷ lệ trầm cảm, tự tử, sử dụng
chất gây nghiện, bạo lực và quan hệ tình dục sớm
ở học sinh.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Các vấn đề sức khỏe ở học sinhđược rút ra:
Học sinh của trường còn ít tham gia các hoạt
động thể lực
Đang có vấn đề về chấn thương do đánh nhau
Ở học sinh, thật sự đang có những em nghĩ
đến việc tự tử trong 12 tháng qua, tỷ lệ này ở nữ
sinh cao hơn so với nam sinh.
Hành vi hút thuốc lá và sử dụng rượu bia
cũng là vấn đề nổi bật
Hành vi quan hệ tình dục tỷ lệ khá cao học
sinh không sử dụng bao cao su trong lần quan
hệ tình dục cũng như không sử dụng các biện
pháp tránh thai khác trong lần vừa rồi.
Vì vậy, nhà trường, gia đình và xã hội cần
chú ý:
Tăng cường giáo dục, thường xuyên nhắc
nhở về chế độ ăn uống, vận động thể lực hợp lý
cho học sinh;
Cần quan tâm, giáo dục các em trong việc
phòng chống bạo lực, đánh nhau và các tai nạn,
thương tích, đặc biệt là ở đối tượng nam sinh.
Gia đình, nhà trường và xã hội cần quan tâm
sức khỏe tâm thần cho các em
Nhà trường nên phối hợp với các cơ quan
chức năng có liên quan tổ chức các chương trình
giáo dục phòng chống thuốc lá, rượu/bia; cũng
như có các biện pháp can thiệp thích hợp đối với
những học sinh đã và đang sử dụng rượu/bia,
thuốc lá, giúp các em nhận thức và thay đổi
hành vi để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của
bản thân. Phụ huynh học sinh cần quan tâm,
tránh và hạn chế tạo điều kiện cho các em sử
dụng rượu bia vì phần lớn học sinh có rượu/bia
để uống là từ gia đình.
Các chương trình giáo dục sức khỏe sinh
sản, đặc biệt là về nội dung tình dục an toàn nên
đưa vào sớm hơn để các em có kiến thức và kỹ
năng tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân vì phần
lớn các em không sử dụng bao cao su, cũng như
các biện pháp tránh thai khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Bà Rịa‐ Vũng Tàu điện tử (2013). Rối nhiễu tâm trí học
đường. http: //baobariavungtau.com.vn/xa‐hoi/201309/roi‐
nhieu‐tam‐tri‐hoc‐duong‐can‐thiep‐som‐de‐tranh‐hau‐qua‐
xau‐339189/. Truy cập 25/04/2013
2. Centers for Disease Control and Prevention Fruits and
Vegetables. (2013). http:
//www.cdc.gov/nutrition/everyone/fruitsvegetables/index.ht
ml. Accessed on 04‐05‐2013
3. Pubmed (2013). Risk factors associated with overweight and
obesity among urban school children and adolescents in
Bangladesh: a case‐control study. http:
//www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23651597. Accessed on 4
April 2013.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 409
4. World Health Organization (2006). Brochure: Tobacco: deadly
in any form or disguise. http:
//www.who.int/tobacco/communications/events/wntd/2006/R
eport_v8_4May06.pdf. Accessed on 10‐05‐2013
5. World Health Organization (2007). Global school ‐ based
student health survey in Indonesia http:
//www.who.int/chp/gshs/2007_Indonesia_fact_sheet.pdf.Acce
ssed on 10‐05‐2013
6. World Health Organization (2008). Global School‐based
Student Health Survey in Thai Lan. http:
//www.who.int/chp/gshs/2008_Thailand_fact_sheet.pdf.
Accessed on 10‐05‐2013
7. World Health Organization (2012). Global School‐based
Student Health Survey in Malaysia. http:
//www.who.int/chp/gshs/Malaysia_2012_GSHS_FS_national.
pdf. Accessed on 10 ‐05‐2013
8. World Health Organization 10 facts on second‐hand smoke.
http: //www.who.int/features/factfiles/tobacco/en/index.html.
Accessed on 04‐05‐2013
9. World Health Organization Reasons for children and
adolescents to become obese. http:
//www.who.int/dietphysicalactivity/childhood_why/en/index
.html. Accessed on 04‐05‐2013
Ngày nhận bài báo: 27/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_van_de_suc_khoe_o_hoc_sinh_13_den_15_tuoi_tai_phuong_8_t.pdf