Các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố: tuổi và thời gian mắc bệnh có
ảnh hưởng đến CLCS. Thời gian mắc bệnh có ảnh hưởng tiêu cực đến CLCS của người
bệnh ĐTĐ type 2. Nghiên cứu trước đó cho thấy các yếu tố tuổi tác có ảnh hưởng tiêu cực
đến CLCS của người bệnh (Nguyễn Thanh Sơn, 2017). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân
cho thấy tuổi càng cao CLCS càng giảm (Nguyễn Thị Xuân, 2015). Mặt khác, nghiên cứu
của nhóm cũng cho thấy CLCS của người bệnh không bị ảnh hưởng bởi giới tính, BMI,
phương pháp điều trị, và nhóm điều trị liên tục hay không liên tục. Điều này tương đồng với
nghiên cứu trước đó cho thấy giới tính, cân nặng, phương pháp điều trị, nhóm điều trị
không ảnh hưởng đến CLCS người bệnh ĐTĐ type 2 (Romulus T., 2016).
Biến chứng của bệnh ĐTĐ type 2 được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng
lớn nhất đến CLCS của người bệnh. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Sơn các yếu
tố: biến chứng có ảnh hưởng tiêu cực đến CLCS của người bệnh (Nguyễn Thanh Sơn,
2017). Kết quả nghiên cứu cho thấy người tham gia nghiên cứu mắc một trong các biến
chứng trên có điểm CLCS đều thấp hơn so với nhóm không mắc. Điều này khá tương
đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân khi cho thấy người bệnh ĐTĐ type 2 có
biến chứng hoặc bệnh lý kèm theo có điểm CLCS thấp hơn so với nhóm người bệnh
không mắc phải (Nguyễn Thị Xuân, 2015). Hơn nữa, người bệnh có biến chứng tăng
huyết áp không bị ảnh hưởng đến CLCS (p = 0,669). Kết quả này đồng nhất với nghiên
cứu của Romulus với p = 0,587 (Romulus T., 2016).
Trong khi đó, khảo sát cho thấy người bệnh có biến chứng bàn chân (p = 0,041),
biến chứng về thận (p = 0,042) có điểm CLCS rất thấp so với nhóm không mắc biến
chứng. Tiếp theo là người bệnh có biến chứng về tim mạch (p = 0,023) và nhóm rối loạn
mỡ máu (p = 0,009) có điểm CLCS tương đương nhau. Bên cạnh đó, người bệnh có rối
loạn cảm giác (p = 0,00) hay biến chứng về mắt (p = 0,00) có điểm CLCS cao hơn các
nhóm mắc biến chứng trên. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Trần Ngọc
Hoàng và cộng sự tại bệnh viện Nhân Dân 115 khi biến chứng bàn chân, tim mạch và
thận là những biến chứng ảnh hưởng nhiều nhất đến CLCS của người bệnh ĐTĐ type 2
(Trần Ngọc Hoàng, Nguyễn Thị Bích Đào, 2014).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 63 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh đái tháo đường type 2 – nghiên cứu bệnh nhân khám và điều trị tại bệnh viện Đa khoa Mỹ Phước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 6(49)-2020
89
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 –
NGHIÊN CỨU BỆNH NHÂN KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA MỸ PHƯỚC
Nguyễn Thị Anh(1), Nguyễn Ngọc Diễm(1), Nguyễn Minh Thư(2)
(1) Trường Đại học Quốc Tế Miền Đông; (2) Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài 20/09/2020; Ngày gửi phản biện 22/09/2020; Chấp nhận đăng 28/10/2020
Liên hệ email: anh.nguyen@eiu.edu.vn
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.06.099
Tóm tắt
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 97 người bệnh tại Khoa Khám
bệnh và Khoa Nội Bệnh viện Đa khoa Mỹ Phước tháng 3 năm 2018. Kết quả cho thấy
người bệnh đái tháo đường mắc bệnh dưới 5 năm có 25,6% chất lượng cuộc sống cao,
74,4% chất lượng cuộc sống trung bình; người mắc bệnh từ 5<10 năm có chất lượng
cuộc sống cao là 12% và chất lượng cuộc sống trung bình là 88%; người mắc bệnh từ
10-15 năm có chất lượng cuộc sống cao 5,9% và 94,1% chất lượng cuộc sống trung
bình; 100% người mắc bệnh >15 năm có chất lượng cuộc sống trung bình. Các yếu tố:
tuổi tác (p=0.033), thời gian mắc bệnh (p=0.033) có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc sống người bệnh giảm khi thời gian
mắc bệnh càng tăng và các yếu tố tuổi tác và thời gian mắc bệnh có tác động lên chất
lượng cuộc sống của người bệnh.
Từ khóa: đái tháo đường type 2, người bệnh
Abstract
FACTORS INFLUENCING THE QUALITY OF LIFE PERCEPTION IN
PATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES MELLITUS – STUDY ON PATIENTS
EXAMINED AND TREATED AT MY PHUOC HOSPITAL
A cross-sectional study was conducted on 97 diabetic patients at My Phuoc
hospital in March 2018. Results showed that the quality of life of diabetic patients
suffering for less than 5 years: 25.6% was high, 74.4% was average; diabetic patients
suffering from 5 to 10 years: 12% was high and 88% was average; diabetic patients
suffering from 10 - 15 years: 5.9% was high and 94.1% was average; diabetic patients
suffering for greater than 15 years: 100% was average. The factors such as age (p =
0.033), duration of illness (p = 0.033) have affect the quality of life. Research findings
that the quality of life of diabetic patient decrease following the suffering time and age
are related to the quality of life.
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.06.099
90
1. Đặt vấn đề
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa nội tiết phổ biến và đang có
xu hướng gia tăng nhanh trên toàn cầu. Năm 2012, thế giới có 366 triệu người mắc bệnh
và dự đoán con số này sẽ tăng lên 552 triệu người vào năm 2030. Trung bình thế giới
mỗi năm có 5-8% người mới mắc bệnh (Manjunath K., 2014). Tại Việt Nam, kết quả
báo cáo của Bộ Y tế vào năm 2012, cho thấy tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường ở
nước ta chiếm 5,7% dân số, tăng gấp 2 lần so với năm 2000 (Bộ Y tế, 2016).
ĐTĐ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống (CLCS) người bệnh. Trong
cùng một độ tuổi, những người bị ĐTĐ thường có CLCS thấp hơn những người không bị
ĐTĐ. Nhiều nghiên cứu cho thấy CLCS người bệnh ĐTĐ giảm rõ rệt do tác động bởi nhiều
yếu tố khác nhau như: tuổi, giới tính, thói quen xấu, thời gian mắc bệnh, biến chứng kèm
theo, phương thức điều trị, bệnh lý mạn tính kèm theo và yếu tố tâm lý. Trong đó, các biến
chứng của bệnh ĐTĐ được xem là yếu tố lớn ảnh hưởng đến CLCS người bệnh (Trần Ngọc
Hoàng, Nguyễn Thị Bích Đào, 2014). Những năm gần đây, vấn đề CLCS đã và đang thu
hút giới y khoa. Cho đến nay, có rất nhiều nghiên cứu về CLCS ở Việt Nam. Chúng tôi đã
tiến hành thực hiện nghiên cứu CLCS của người bệnh ĐTĐ type 2 đang khám và điều trị tại
bệnh viện đa khoa Mỹ Phước với mục tiêu: (1) xác định mức độ CLCS của người bệnh
ĐTĐ type 2 theo thời gian mắc bệnh dưới 5 năm, 5 <10 năm, 10-15 và trên 15 năm, (2) xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS của người bệnh ĐTĐ type 2.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả
Đối tượng nghiên cứu: Tất cả người bệnh ĐTĐ type 2 đang khám và điều trị tại
Bệnh viện Đa khoa Mỹ Phước, tỉnh Bình Dương
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Tất cả người bệnh > 40 tuổi ĐTĐ type 2 đang khám và
điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Mỹ Phước - Bình Dương
Thời gian nghiên cứu: Tháng 03 năm 2018
Địa điểm nghiên cứu: Tại khoa Khám và khoa Nội - bệnh viện Mỹ Phước.
Cỡ mẫu: Theo công thức tính cỡ mẫu (Yamane, & Taro, 1967):
21 *( )
N
n
N e
Trong đó: n: là quy mô mẫu đầu tiên; N: là số lượng người bệnh khám và điều trị
trong tháng 03 tại bệnh viện Đa khoa Mỹ Phước là 129; e: là sai số, chọn e = 0,05.
Kết quả: n = 97 người bệnh ĐTĐ.
Kỹ thuật thu thập số liệu: Sử dụng bộ câu hỏi điều tra gồm 2 phần. Phần 1: Thông tin
chung của người bệnh: tuổi, giới tính, cân nặng, chiều cao, phương pháp điều trị, nhóm điều
trị, thời gian mắc bệnh, biến chứng và bệnh lý kèm theo. Phần 2: Bộ câu hỏi để đánh giá
CLCS của người bệnh ĐTĐ type 2 được tính điểm theo thang Likert 5 mức độ.
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 6(49)-2020
91
3. Kết quả
3.1. Mô tả đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu (n=97)
Đặc tính của mẫu Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Tuổi 40-49 tuổi 9 9,3
50-59 tuổi 38 39,2
60-69 tuổi 30 30,9
≥70 tuổi 20 20,6
Giới tính Nam 25 25,8
Nữ 72 74,2
BMI ≤ 23 41 42,3
>23 56 57,7
Đối tượng tham gia nghiên cứu ở độ tuổi từ 50 - 59 là 39,2%, từ 60 - 69 chiếm
30,9% và độ tuổi ≥ 70 tuổi chiếm 20,6%. Trong khi đó nhóm từ 40-49 tuổi chỉ chiếm
9,3%. Người tham gia nghiên cứu là nữ chiếm tỷ lệ 74,2% và là nam chiếm tỷ lệ 25,8%.
Người tham gia nghiên cứu có BMI ≤ 23 (42,3%) và BMI > 23 (57,7%).
Bảng 2. Đặc điểm bệnh lý của nhóm đối tượng tham gian nghiên cứu (n = 97)
Đặc tính của mẫu Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Phương pháp điều trị
Sử dụng thuốc 73 75,3
Sử dụng insulin 24 24,7
Thời gian mắc bệnh
< 5 năm 43 44,3
5<10 năm 25 25,8
10-15 năm 17 17,5
>15 năm 12 12,4
Nhóm điều trị
Điều trị liên tục 90 93
Điều trị không liên tục 7 7
Biến chứng
Có 67 69
Không 30 31
Thời gian mắc bệnh của đối tượng trong nghiên cứu này chủ yếu là dưới 5 năm, tỷ
lệ 44,3%, từ 5-10 năm là 25,8%, từ 10-15 năm là 17,5%, và trên 15 năm có tỷ lệ thấp
nhất chỉ có 12,4%. Người tham gia nghiên cứu sử dụng thuốc để điều trị ĐTĐ type 2
chiếm 75,3%, cao gấp 3 lần so với nhóm sử dụng insulin với tỷ lệ là 24,7%. Nhóm điều
trị liên tục chiếm 93% và nhóm điều trị không liên tục chỉ chiếm 7%. Tỷ lệ người tham
gia nghiên cứu có ít nhất một biến chứng chiếm 69%, cao gấp đôi so với với người bệnh
ĐTĐ type 2 không bị biến chứng kèm theo.
3.2. Chất lượng cuộc sống của người bệnh tham gia nghiên cứu
Nhóm mắc bệnh <5 năm: 25,6% có CLCS cao, 74,4% có CLCS trung bình.
Nhóm mắc bệnh từ 5<10 năm: CLCS cao là 12% và 88% có CLCS trung bình.
Nhóm mắc bệnh từ 10-15 năm: CLCS cao là 5,9% và 94,1% có CLCS trung bình.
Nhóm mắc bệnh >15 năm: 100% người bệnh có CLCS trung bình.
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.06.099
92
Bảng 3. Mức độ chất lượng cuộc sống người bệnh ĐTĐ theo thời gian mắc (n = 97)
Thời gian mắc bệnh
Chất lượng cuộc sống (n=97)
Cao (%) Trung bình (%) Thấp(%)
< 5 năm 25,6 74,4 0
5 - <10 năm 12 88 0
10 - 15 năm 5,9 94,1 0
> 15 năm 0 100 0
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh ĐTĐ
Bảng 4. Mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống và các yếu tố nhân khẩu học (n = 97)
Các thông số Giá trị trung bình ( ± SD) F Giá trị p
Tuổi
40-49 tuổi 53,56 ± 7,485
3,038 0,033
50-59 tuổi 53,47 ± 6,421
60-69 tuổi 52,13 ± 6,312
≥70 tuổi 48,30 ± 7,356
BMI
≤ 23 52,39 ± 7,549
0,010 0,922
>23 52,25 ± 6,445
Giới tính
Nam 54,20 ± 6,564
2,574 0,112
Nữ 51,65 ± 6,931
Yếu tố tuổi có ảnh hưởng đến CLCS của người bệnh (p = 0,033). Sự khác biệt về
CLCS giữa các nhóm trong yếu tố BIM và giới tính không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 5. Mối liên hệ đến giữa chất lượng cuộc sống và đặc điểm bệnh lý (n = 97)
Các thông số
Giá trị trung bình ( ± SD)
F Giá trị p
Phương pháp
điều trị
Sử dụng thuốc 51,21 ± 6,400
0,811 0,370
Sử dụng insulin 52,67 ± 7,055
Nhóm điều trị
Điều trị liên tục 50,43 ± 8,753
0,559 0,457
Điều trị không liên tục 52,46 ± 6,769
Thời gian mắc
bệnh
< 5 năm 54,21 ± 7,720
0,010 0,922
5 - <10 năm 52,44 ± 6,199
10-15 năm 49,65 ± 4,924
>15 năm 48,50 ± 5,592
Thời gian mắc bệnh có sự ảnh đến CLCS của người bệnh (p = 0,033). Tuy nhiên
các yếu tố về phương pháp điều trị và nhóm điều trị không có ảnh hưởng đến CLCS của
người bệnh.
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 6(49)-2020
93
Bảng 6. Mối liên hệ giữa chất lượng cuộc sống và biến chứng đái tháo đường (n = 97)
Các biến chứng
Giá trị trung bình ( ± SD)
F Giá trị p
Có Không
Tăng huyết áp 51,92 ± 7,113 52,54 ± 6,813 0,84 0,669
Tim mạch 47,29 ± 6,945 52,54 ± 6,875 1,457 0,023
Rối loạn mỡ máu 47,69 ± 5,528 53,02 ± 6,835 7,162 0,009
Bệnh về mắt 48,69 ± 6,832 54,44 ± 6,032 18,619 0,000
Rối loạn cảm giác 48,08 ± 6,918 55,16 ± 5,261 32,680 0,000
Vết thương bàn chân 44,33 ± 4,933 52,56 ± 6,815 4,283 0,041
Bệnh về thận 46,24 ± 4,507 52,96 ± 7,155 4,234 0,042
Khảo sát cho thấy sự khác biệt về CLCS ở những người tham gia nhiên cứu bị
biến chứng tim mạch (p = 0,023), rối loạn mỡ máu (p = 0,009), bệnh về mắt (p = 0,00),
rối loạn cảm giác (p = 0,00), vết thương bàn chân (p = 0,041) và bệnh về thận (p =
0,042) có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, giữa người bệnh ĐTĐ bị tăng huyết áp và CLCS
không có mối liên quan với nhau, với p = 0,669.
4. Bàn luận
Đặc điểm đối tượng tham gia nghiên cứu
Kết quả thống kê cho thấy tỷ lệ người tham gia nghiên cứu là nữ cao hơn nam với
nữ là 74,2% và nam 25,8%. Theo Nguyễn Duy Cường tỷ lệ mắc ĐTĐ type 2 ở nam:
39,3%, nữ 60,7% (Nguyễn Duy Cường & Phạm Thị Hiền, 2014). Tại Việt Nam, tỷ lệ
người mắc ĐTĐ gia tăng nhiều nhất ở nhóm tuổi từ 50 trở lên, chiếm 70,4%, trong đó
nhóm tuổi từ 50 - 59 chiếm 35,2% (Bế Thu Hà, 2009). Chỉ số BMI cho thấy tỷ lệ người
tham gia nghiên cứu có BMI ≤ 23 (42,3%) cao hơn nhóm có BMI > 23 (57,7%). Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Duy Cường tỷ lệ BMI > 23 là 61,1% và
BMI ≤ 23 là 49,9%. Các nghiên cứu trước đây cho thấy người có BMI ≥ 23 thì nguy cơ
mắc ĐTĐ type 2 cao gấp 2,89 lần so với người bình thường (Nguyễn Thị Xuân, 2015).
Kết quả cho thấy thời gian mắc bệnh ĐTĐ type 2 dưới 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất
với 44,3%, khoảng thời gian mắc bệnh từ 5 - 10 năm là 25,8%. Trong khi đó thời gian
mắc bệnh từ 10 - 15 năm năm là 17,5% và trên 15 năm có tỷ lệ thấp nhất chỉ có 12,4%.
Các nghiên cứu trước đó cho kết quả tương tự với tỷ lệ người bệnh mắc ĐTĐ type 2 dưới
5 năm chiếm 58% (Manjunath K., 2014). Nghiên cứu của Triệu Quang Phú cũng cho kết
quả thời gian mắc bệnh từ 1 - 5 năm chiếm đa số với tỷ lệ 53,9% (Nguyễn Thanh Sơn,
2017). Nhóm điều trị liên tục chiếm 93% và nhóm điều trị không liên tục chỉ chiếm 7%.
Người tham gia nghiên cứu kiểm soát đường huyết chủ yếu bằng phương pháp sử dụng
thuốc chiếm 75,3%, cao gấp 3 lần so với nhóm sử dụng insulin với tỷ lệ là 24,7%.
Tỷ lệ người bệnh có ít nhất một biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm
69%, cao gấp đôi so với người bệnh ĐTĐ type 2 không bị biến chứng kèm theo. Trong
đó biến chứng về rối loạn cảm giác chiếm tỷ lệ cao nhất 40,2%. Bệnh về mắt và tăng
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.06.099
94
huyết áp chiếm tỷ lệ bằng nhau là 37,1%. Tiếp đến là người tham gia nghiên cứu bị biến
chứng về thận chiếm 17,5 % và rối loạn mỡ máu là 13,4%. Trong khi đó, biến chứng
bàn chân có tỷ lệ thấp là 3,1%. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Bế Thu Hà với
69,2% người tham gia có mắc ít nhất một biến chứng (Manjunath K, 2014).
Chất lượng cuộc sống người bệnh đái tháo đường
Trong nghiên cứu, kết quả khảo sát cho thấy người tham gia nghiên cứu có CLCS từ
mức trung bình trở lên, chiếm tỷ lệ 84,5%, cao gấp 5 lần so với người bệnh có CLCS cao là
15,5%. Cụ thể hơn, nhóm mắc bệnh dưới 5 năm, người bệnh có CLCS cao chiếm tỷ lệ
25,6% và CLCS trung bình chiếm 74,4%. Nhóm mắc bệnh từ 5 - 10 năm, người bệnh có
CLCS cao chiếm tỷ lệ thấp hơn là 12% và CLCS trung bình có đến 88%. Điều này cho thấy
rằng thời gian mắc bệnh càng tăng kéo theo CLCS của người bệnh giảm dần. Đặc biệt là
nhóm mắc bệnh từ 10 - 15 năm chỉ có duy nhất 1 người tham gia nghiên cứu có CLCS cao,
chiếm 5,9% và CLCS trung bình chiếm 94,1%. Hơn nữa, nhóm trên 15 năm không ghi
nhận trường hợp nào người bệnh có CLCS cao, mà chỉ cho thấy 100% người bệnh có
CLCS trung bình. Tại Việt Nam, Nguyễn Thị Xuân đã tiến hành nghiên cứu trên 240 người
bệnh ĐTĐ type 2 để đánh giá CLCS và đưa ra kết luận người bệnh có CLCS cao chiếm tỷ
lệ rất thấp, chỉ có 3,8%, CLCS trung bình khá chiếm tỷ lệ cao hơn 54,2% và người bệnh có
CLCS trung bình kém, kém là 42% (Nguyễn Thị Xuân, 2015). Cũng theo kết quả nghiên
cứu của Jasmin Helan và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về CLCS trên 100 người bệnh
ĐTĐ type 2 cho thấy, người bệnh mắc ĐTĐ type 2 dưới 5 năm có CLCS cao chiếm tỷ lệ là
72,4% và CLCS thấp chiếm 27,6% .Trong khi đó, người bệnh mắc ĐTĐ type 2 trên 5 năm
có CLCS cao chỉ có 61,9% và thấp 38,1% (Manjunath K, 2014). Hay nghiên cứu của
Mehdi và cộng sự vào năm 2012 cho thấy người bệnh mắc ĐTĐ type 2 trên 10 năm có
CLCS thấp hơn so với nhóm mắc bệnh dưới 5 năm (Mehdi J., 2012).
Các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các yếu tố: tuổi và thời gian mắc bệnh có
ảnh hưởng đến CLCS. Thời gian mắc bệnh có ảnh hưởng tiêu cực đến CLCS của người
bệnh ĐTĐ type 2. Nghiên cứu trước đó cho thấy các yếu tố tuổi tác có ảnh hưởng tiêu cực
đến CLCS của người bệnh (Nguyễn Thanh Sơn, 2017). Nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân
cho thấy tuổi càng cao CLCS càng giảm (Nguyễn Thị Xuân, 2015). Mặt khác, nghiên cứu
của nhóm cũng cho thấy CLCS của người bệnh không bị ảnh hưởng bởi giới tính, BMI,
phương pháp điều trị, và nhóm điều trị liên tục hay không liên tục. Điều này tương đồng với
nghiên cứu trước đó cho thấy giới tính, cân nặng, phương pháp điều trị, nhóm điều trị
không ảnh hưởng đến CLCS người bệnh ĐTĐ type 2 (Romulus T., 2016).
Biến chứng của bệnh ĐTĐ type 2 được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng
lớn nhất đến CLCS của người bệnh. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Sơn các yếu
tố: biến chứng có ảnh hưởng tiêu cực đến CLCS của người bệnh (Nguyễn Thanh Sơn,
2017). Kết quả nghiên cứu cho thấy người tham gia nghiên cứu mắc một trong các biến
chứng trên có điểm CLCS đều thấp hơn so với nhóm không mắc. Điều này khá tương
đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân khi cho thấy người bệnh ĐTĐ type 2 có
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 6(49)-2020
95
biến chứng hoặc bệnh lý kèm theo có điểm CLCS thấp hơn so với nhóm người bệnh
không mắc phải (Nguyễn Thị Xuân, 2015). Hơn nữa, người bệnh có biến chứng tăng
huyết áp không bị ảnh hưởng đến CLCS (p = 0,669). Kết quả này đồng nhất với nghiên
cứu của Romulus với p = 0,587 (Romulus T., 2016).
Trong khi đó, khảo sát cho thấy người bệnh có biến chứng bàn chân (p = 0,041),
biến chứng về thận (p = 0,042) có điểm CLCS rất thấp so với nhóm không mắc biến
chứng. Tiếp theo là người bệnh có biến chứng về tim mạch (p = 0,023) và nhóm rối loạn
mỡ máu (p = 0,009) có điểm CLCS tương đương nhau. Bên cạnh đó, người bệnh có rối
loạn cảm giác (p = 0,00) hay biến chứng về mắt (p = 0,00) có điểm CLCS cao hơn các
nhóm mắc biến chứng trên. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Trần Ngọc
Hoàng và cộng sự tại bệnh viện Nhân Dân 115 khi biến chứng bàn chân, tim mạch và
thận là những biến chứng ảnh hưởng nhiều nhất đến CLCS của người bệnh ĐTĐ type 2
(Trần Ngọc Hoàng, Nguyễn Thị Bích Đào, 2014).
5. Kết luận
Đối tượng tham gia nghiên cứu có CLCS từ mức trung bình trở lên, chiếm tỷ lệ
84,5%, cao gấp 5 lần so với người bệnh có CLCS cao là 15,5%. Cụ thể là người tham
gia nghiên cứu mắc bệnh dưới 5 năm, người bệnh có CLCS cao chiếm tỷ lệ 25,6% và
CLCS chiếm 74,4%. Nhóm mắc bệnh từ 5 - 10 năm, người bệnh có CLCS cao chiếm tỷ
lệ thấp hơn là 12% và CLCS trung bình có đến 88%. Điều này cho thấy rằng thời gian
mắc bệnh càng tăng kéo theo CLCS của người bệnh giảm dần. Đặc biệt là nhóm mắc
bệnh từ 10 - 15 năm chỉ có duy nhất 1 người tham gia nghiên cứu có CLCS cao, chiếm
5,9% và và 94,1% người bệnh có CLCS trung bình. Nhóm thời gian mắc bệnh > 15 năm
nghi nhận được 100% người bệnh có CLCS trung bình. Các yếu tố chỉ có tuổi, thời gian
mắc bệnh và biến chứng có ảnh hưởng đến CLCS của người bệnh ĐTĐ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tạ Văn Bình (2007). Nguyên lý nền tảng đái tháo đường – tăng glucose máu. NXB Y học.
[2] Bộ Y tế (2016). Ngày sức khỏe thế giới năm 2016 – Dự phòng và kiểm soát đái tháo đường,
[3] Nguyễn Duy Cường, Phạm Thị Hiền (2014). Tìm hiểu một số biến chứng và yếu tố nguy cơ
ở người bệnh đái tháo đường type 2 chẩn đoán lần đầu. Y học thực hành, 914(4):127-130.
[4] Bế Thu Hà (2009). Nghiên cứu thực trạng đái tháo đường điều trị tại bệnh viện đa khoa
tỉnh Bắc Cạn. Luận văn thạc sỹ Y học. Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.
[5] Trần Ngọc Hoàng, Nguyễn Thị Bích Đào (2014). Đánh giá ảnh hưởng của các biến chứng
trên chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị tại Bệnh viện Nhân
Dân 115. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 18(2): 161-167.
[6] Levterova, Boryana A., Dimitrova, Donka D., Georgi E., Dragova & Elena A. (2013).
Instruments for disease-specific quality-of-life measurement in patients with type 2 diabetes
mellitus-a systematic review. Folia Medica, 55(1): 83-92.
https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2020.06.099
96
[7] Manjunath K, Prince C., Vijayaprasad G., Rakesh P. S , Kuryan G. & Jasmin H. P. (2014).
Quality of Life of a Patient with Type 2 Diabetes: A Cross-Sectional Study in Rural South
India. J Family Med Prim Care, 3(4): 396-399.
[8] Mehdi J., Farid A., Atefeh M., Hamid R. B. & Younes J. N. (2012). Health Related Quality
of Life in Patients with Type 2 Diabetes Mellitus in Iran: A National Survey. PLoS One,
7(8): e44526.
[9] Triệu Quang Phú (2006). Nghiên cứu đặc điểm làm sàng và sự thay đổi hàm lượng thành
phần lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 tại bệnh biện Đa khoa tỉnh Lạng Sơn.
Luận văn thạc sĩ Y học. Trường Đại học Y khoa Thái Nguyên.
[10] Romulus T., Iulian V., Bogdan T., Diana L., Cristian O., Deiana R. & Octavian M. (2016).
Factors influencing the quality of life perception in patients with type 2 diabetes mellitus.
Patient Prefer Adherence, 10: 2471-2477.
[11] Nguyễn Thanh Sơn (2017). Chất lượng cuộc sống và hiệu quả giải pháp quản lý, chăm sóc
người bệnh đái tháo đường type 2 tại nhà, tỉnh Thái Bình. Luận án tiến sĩ Y tế công cộng.
Trường Đại học Y dược Thái Bình.
[12] Hoàng Kim Ước và cộng sự (2007). Thực trạng đái tháo đường và rối loạn dung nạp
đường huyết ở các đối tượng có nguy cơ cao ở thành phố Thái Nguyên năm 2016. Hội nghị
khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hóa lần thứ 3.
[13] Nguyễn Thị Xuân (2015). Chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường type 2
đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa huyện Mê Linh và một số yếu tố liên quan,
năm 2015. Luận văn thạc sĩ Y học. Trường Đại học Y tế Công Cộng.
[14] Yamane & Taro (1967). Statistics: An Introductory Analysis (2nd ed.). New York: Harper
and Row.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_yeu_to_anh_huong_den_chat_luong_cuoc_song_nguoi_benh_dai.pdf