- Cả 4 tỉnh đều gặp khó khăn trong thu hút
cán bộ có trình độ về làm việc tại cơ sở y tế
tuyến huyện và xã. Nguồn nhân lực y tế tuyến
huyện có biến động nhiều hơn tuyến xã và chủ
yếu là ở nhóm bác sỹ và dợc sỹ đại học. Số
nghỉ việc/chuyển đi bằng khoảng 50% số đợc
tuyển mới.
- Một số yếu tố quan trọng để CBYT yên tâm
làm việc lâu dài tại y tế tuyến cơ sở là: Lơng và
phụ cấp thỏa đáng, là ngời địa phơng hoặc có
gia đình ở địa phơng, điều kiện làm việc thuận
lợi và có cơ hội đợc đào tạo.
- Việc triển khai một số chính sách khuyến
khích tài chính cho NLYT đã có tác động tích
cực tới nhân viên y tế công tác tại khu vực vùng
sâu, vùng xa. Tuy nhiên, việc triển khai chính
sách ở một số địa phơng vẫn còn nhiều khó
khăn, trong đó công tác phối hợp liên ngành
trong triển khai chính sách vẫn còn hạn chế.
Ngành y tế ở một số địa phơng vẫn cha phát
huy vai trò chủ động trong tham mu và vận
động sự ủng hộ của các Sở/Ngành có liên quan
trong xây dựng và thực thi chính sách.
Khuyến nghị
Đối với các địa phơng
Ngành y tế địa phơng cần chủ động trong
tham mu và vận động sự ủng hộ của các
Sở/Ngành có liên quan trong xây dựng chính
sách hỗ trợ của địa phơng và trong thực thi các
chính sách hiện hành. Công tác phối hợp liên
ngành trong triển khai chính sách cần đợc đẩy
mạnh.
Cần xây dựng kế hoạch theo dõi, giám sát
việc triển khai các chính sách nhằm phát hiện
các bất cập trong quá trình triển khai thực hiện
để kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục tới
các cấp liên quan có thẩm quyền
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút và duy trì cán bộ y tế tuyến cơ sở ở một số tỉnh miền núi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
34
Nghiên cứu chính sách
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút và
duy trì cán bộ y tế tuyến cơ sở ở một số tỉnh miền núi
1 1
Trần Thị Mai Oanh , Nguyễn Thị Thắng ,
1 1
Nguyễn Hoàng Giang , Hoàng Thu Thủy và cộng sự
Nhân lực y tế là một trong 6 thành phần cơ
bản và quan trọng nhất của một hệ thống y tế,
trong đó nguồn nhân lực luôn được coi là chủ
2 3
thể của toàn hệ thống . Những khó khăn trong
phát triển nguồn nhân lực y tế luôn là thách thức
chung đối với hệ thống y tế của tất cả các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát
triển. Tổ chức Y tế Thế giới đã tổng kết những
vấn đề chính của phát triển nguồn nhân lực y tế
màcácnước trongkhuvựcTâyTháiBìnhDương
đang phải đối mặt như: tình trạng mất cân đối
trong phân bố nhân lực theo khu vực địa lý; mất
cân đối trong phân bố nhân lực theo trình độ và
năng lực; thiếu sự quản lý chặt chẽ chất lượng
chuyên môn; hệ thống văn bản chính sách, pháp
luật về nhân lực chưa đầy đủ và chưa phù hợp,
4
thiếu sự lãnh đạo và điều hành hiệu quả .
ở Việt Nam, trong bối cảnh sự phát triển
kinh tế xã hội theo nền kinh tế thị trường, hệ
thống y tế Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
những khó khăn tương tự, trong đó việc bảo đảm
và duy trì nguồn nhân lực có chất lượng ở khu
vực nông thôn cho mạng lưới chăm sóc sức khỏe
ban đầu đang là thách thức lớn và là một trong
những vấn đề ưu tiên hàng đầu của hệ thống y tế
Việt Nam. Các báo cáo của Bộ Y tế và một số
nghiên cứu gần đây về nguồn nhân lực y tế cũng
phản ánh tình trạng thiếu nguồn nhân lực y tế ở
khu vực nông thôn cả về số lượng, cơ cấu và chất
5 6 7
lượng cán bộ y tế , trong đó tình trạng bất cập
phổ biến tại các địa phương ở khu vực nông thôn
là không thể tuyển dụng mới cán bộ y tế để bù
đắp lượng cán bộ nghỉ hưu hoặc chuyển công
Đặt vấn đề tác cũng như chuyển sang các địa phương khác
để làm việc. Nghiên cứu này sẽ tập trung tìm
hiểu về các yếu tố có ảnh hưởng tới việc thu hút
và duy trì nguồn nhân lực y tế tuyến cơ sở ở khu
vực nông thôn miền núi.
1. Mô tả thực trạng nhân lực y tế tuyến cơ sở ở
một số tỉnh miền núi.
2. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng thu hút và duy trì cán bộ y tế tuyến cơ sở ở
khu vực miền núi.
3. Phân tích kết quả thực hiện một số chính
sách y tế liên quan đến thu hút và duy trì cán bộ y
tế tuyến cơ sở tại một số tỉnh miền núi. Xác định
những khoảng trống về chính sách cần bổ sung
và điều chỉnh để tăng cường việc thu hút và duy
trì cán bộ y tế tuyến cơ sở ở khu vực miền núi
hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu
1
Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế
2
Working Together for Health, The World Health Report
2006.
3
WHO (2007), Everybody Business: Strengthening Health
Systems to Improve Health Outcomes : WHO's Framework
for Action, Geneva, Switzerland.
4
Human Resources for Health: Overcoming Crissis, Joint
Learning Initiative 2004.
5
Human Resources for Health in Vietnam, JAHR 2009 -
MOH. 2009.
6
Qui hoạch phát triển nhân lực và hệ thống đào tạo y tế đến
năm 2020 - Bộ Y tế. 2009.
7
Các vấn đề nhân lực y tế hiện nay: Thực trạng và những bất
cập. Vụ Khoa học và Đào tạo - Bộ Y tế. 2008.
35
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Nghiên cứu được thực hiện tại 4 tỉnh miền
núi bao gồm tỉnh Điện Biên, Bắc Giang, Bình
Định và Lâm Đồng. ở mỗi tỉnh tiến hành khảo
sát trực tiếp ở 2 huyện miền núi và mỗi huyện
khảo sát 2 xã.
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng thiết kế nghiên cứu
mô tả cắt ngang có sự phân tích kết hợp thu thập
số liệu hồi cứu, kết hợp phương pháp thu thập
thông tin định tính và định lượng.
Mẫu nghiên cứu được chọn có chủ đích với
tổng số 635 cán bộ y tế (ở 8 Trung tâm y tế huyện
(TTYT)/bệnh viện huyện và 16 trạm y tế (TYT)
xã) để tham gia trả lời phiếu điều tra.
Phương pháp nghiên cứu
Về thực trạng và tình hình biến động nhân
lực y tế tuyến y tế cơ sở
Trong 5 năm (2007-2011), tỷ lệ bác sĩ/1 vạn
dân ở các tỉnh nghiên cứu có xu hướng tăng (từ
4,9 năm 2007 lên tới 5,7 năm 2011), tuy nhiên
vẫn thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước là 7,2 (số
liệu 2010). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có
tình trạng mất cân đối trong phân bố nhân lực y
tế giữa các tuyến. Cụ thể là với số giường bệnh
gần tương đương nhau nhưng tỷ lệ cán bộ y tế là
bác sĩ, dược sĩ đại học làm việc ở tuyến tỉnh
chiếm tỷ lệ cao gần gấp đôi so với tuyến huyện.
ở tỉnh Điện Biên, 63,5% bác sỹ làm việc tại các
bệnh viện tuyến tỉnh với tổng số 980 giường
bệnh, trong khi tỷ lệ này ở các bệnh viện tuyến
huyện với tổng số 750 giường bệnh chỉ là
31,4%; tại tỉnh Bắc Giang, hơn 50% bác sỹ làm
việc tại các bệnh viện tuyến tỉnh với tổng số
1320 giường bệnh, trong khi tỷ lệ này ở các
bệnh viện tuyến huyện với tổng số 1275 giường
bệnh chỉ là 29,5%.
Biến động nhân lực tại tuyến huyện nhiều
hơn ở tuyến xã và chủ yếu tập trung ở nhóm bác
sĩ chính quy và dược sĩ đại học. Trong 5 năm, số
nghỉ việc/chuyển đi ở tuyến huyện luôn bằng
Kết quả nghiên cứu
một nửa số nhân lực mới tuyển ở cả khối điều trị
và dự phòng, trong khi đó biến động nhân lực ở
tuyến xã ít hơn (số nghỉ việc/chuyển đi bằng 1/3
số tuyển mới).
Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng thu hút
và duy trì cán bộ y tế tuyến cơ sở ở khu vực
miền núi
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 yếu tố
chính ảnh hưởng tởi khả năng thu hút và duy trì
cán bộ ở khu vực miền núi, bao gồm:
- Yếu tố thu nhập: 61% cán bộ y tế (CBYT)
tuyến huyện và 50,5% CBYT tuyến xã đánh giá
chế độ lương không thỏa đáng. Trong đó tỷ lệ ở
nhóm bác sĩ là 72,6% cao hơn (có ý nghĩa thống
kê) so với các nhóm đối tượng khác.
- Phụ cấp, đãi ngộ chưa thỏa đáng: 40,6%
CBYT tuyến huyện và xã không hài lòng với cơ
sở y tế hiện đang làm việc vì cho rằng các chế độ
phụ cấp, đãi ngộ chưa thỏa đáng.
- Điều kiện làm việc khó khăn: 26% số bác sỹ
được khảo sát không hài lòng với công việc hiện
đang làm do trang thiết bị và điều kiện làm việc
không tốt. Tỷ lệ bác sĩ đánh giá là cơ sở vật chất
và trang thiết bị không đáp ứng được nhu cầu
chuyên môn chiếm 18,9%, trong khi tỷ lệ này ở
nhóm chức danh khác chỉ là 10,2% (p<0,05).
- Môi trường làm việc: Kết quả nghiên cứu
cho thấy có tới 21% cán bộ y tế không hài lòng
với công việc hiện tại do môi trường làm việc
không an toàn, 19,5% do khối lượng công việc
quá nhiều, 16% do căng thẳng và phải chịu
nhiều áp lực. Nhóm đối tượng là bác sỹ không
hài lòng với công việc hiện tại vì các lý do này
chiếm tỷ lệ cao hơn các nhóm đối tượng khác
lần lượt là 33% và 12% và sự khác biệt này là có
ý nghĩa thống kê (p<0,01).
- ít cơ hội được đào tạo: 38% số cán bộ y tế
cho biết không có cơ hội được đào tạo ngắn
hạn/dài hạn. Trong đó tỷ lệ bác sỹ chiếm khoảng
24%.
Kết quả khảo sát cho thấy, để duy trì đội ngũ
cán bộ y tế làm việc tại tuyến y tế cơ sở thì cần
36
Nghiên cứu chính sách
thỏa mãn hai yếu tố, đó là yếu tố thu nhập và là
người địa phương. Tỷ lệ cán bộ y tế cho biết sẽ
làm việc lâu dài tại tuyến huyện/xã nếu lương/phụ
cấp thỏa đáng chiếm 78,7%. Với nhóm cán bộ có
ý định gắn bó lâu dài với cơ sở y tế thì 63,7% là
người địa phương, trong khi tỷ lệ này chỉ là 43,6%
ở nhóm đối tượng không phải người địa phương
(p<0,05).
Kết quả thực hiện một số chính sách
khuyến khích về tài chính để thu hút, duy trì
nguồn nhân lực y tế cơ sở:
Nghiên cứu đã rà soát việc triển khai một số
các chính sách liên quan tới khuyến khích về tài
chính và đào tạo cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở
bao gồm Nghị định 64/2009/NĐ-CP, Quyết
định 75/2009/QĐ-TTg, Nghị định 56/2011/NĐ-
CP và Quyết định 1544/QĐ-TTg. Kết quả đánh
giá việc triển khai các chính sách này cho thấy
các chính sách đều có ảnh hưởng tích cực tới cán
bộ ngành y tế. Tuy nhiên vẫn còn một số các bất
cập nổi cộm trong quá trình thực hiện như vấn đề
không có phụ cấp cho nhân viên y tế thôn bản ở
phường, thị trấn đã ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt
động của đội ngũ này ở khu vực phường, thị trấn.
Trong 4 tỉnh khảo sát thì Lâm Đồng có tới
128/152 tổ và Điện Biên chỉ có 2/216 tổ có nhân
viên y tế thôn bản hoạt động và hoàn toàn không
có phụ cấp. Vấn đề xác định đối tượng hưởng
phụ cấp ưu đãi theo nghề của các cơ sở y tế công
lập (theo Nghị định 56/2011/NĐ-CP) cũng gặp
khó khăn đối với việc xác định mức phụ cấp
được hưởng cho các đối tượng làm việc ở các
khoa liên khoa hoặc đối tượng là lãnh đạo nhưng
kiêm công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện...
năm 2011 chỉ đạt 5,7). Điều này phản ánh sự
mất cân đối trong phân bố nhân lực giữa các
vùng miền và khu vực, đặc biệt thiếu trầm trọng
cán bộ công tác tại vùng sâu, vùng xa - nơi có
nhu cầu CSSK lớn nhất. Mất cân đối trong phân
bố nhân lực theo khu vực địa lý và mất cân đối
trong cơ cấu nguồn nhân lực cũng là những vấn
đề bất cập và thách thức chung trên toàn cầu đối
8
với sự phát triển nguồn nhân lực y tế .
Tình trạng mất cân đối trong phân bố nhân
lực y tế còn xảy ra giữa các tuyến. Trong 4 tỉnh
nghiên cứu, sự mất cân đối này thấy rõ ở tỉnh
Điện Biên và Bắc Giang. Nghiên cứu ở một số
nước trong khu vực cũng cho nhận định tương
tự. ở Trung Quốc, gần 70% nhân viên y tế phân
bố ở thành thị, phục vụ cho 30% số dân, ngược
lại, 30% số nhân viên y tế làm việc ở khu vực
9
nông thôn phục vụ cho 70% dân số . Tại Thái
Lan, sự thiếu hụt nhân lực y tế đặc biệt là bác sĩ
và vấn đề bố trí bác sĩ không hợp lý được coi là
vấn đề nổi cộm nhất. Nguồn nhân lực y tế tập
trung nhiều ở thủ đô và các thành phố lớn, tình
trạng mất cân đối rất lớn ở đội ngũ bác sĩ hơn là y
tá. Tương tự tại Việt Nam, theo số liệu từ Tổng
cục thống kê thì hiện nay khoảng 17% bác sĩ
phục vụ cho 73% dân số vùng nông thôn. Kết
quả thu được từ nghiên cứu này cũng cho thấy
có sự mất cân đối trong phân bổ nguồn nhân lực
y tế nói chung và đặc biệt nguồn nhân lực là bác
sỹ giữa các tuyến.
Bên cạnh sự mất cân đối trong phân bổ thì sự
biến động về nhân lực y tế tuyến cơ sở trong 5
năm gần đây cũng là vấn đề đáng quan ngại. Số
lượng nhân lực y tế xin thôi việc hoặc chuyển đi
nơi khác ở cả khối điều trị và dự phòng bằng
khoảng 50% số nhân lực y tế mới tuyển/chuyển
đến, đặc biệt số đối tượng mới tuyển trong lĩnh
vực y tế dự phòng chỉ bằng 1/5 tổng số nhân lực
mới tuyển trong lĩnh vực điều trị và sự biến động
Bàn luận
Thực trạng và tình hình biến động nhân
lực y tế tuyến y tế cơ sở
Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy số bác
sĩ/10.000 dân ở 4 tỉnh nghiên cứu đều đạt thấp
hơn so với chỉ số chung của cả nước (BS/1 vạn
dân trên cả nước là 7,2 năm 2010, trong khi đó
chỉ số BS/1 vạn dân chung cho 4 tỉnh nghiên cứu
8
Bộ Y tế. Báo cáo JAHR 2009
9
Regional Strategy on Human Resources for Health 2006 -
2015, WHO
37
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
xảy ra chủ yếu ở nhóm BS chính quy, nhóm
dược sỹ đại học và nhóm y sĩ. Kết quả từ nghiên
cứu đánh giá thực trạng nhu cầu và sử dụng bác
sỹ và cử nhân điều dưỡng sau tốt nghiệp cũng
cho thấy số lượng bác sỹ được tuyển dụng mới là
rất thấp so với nhu cầu thực tế, trong khi đó số
lượng bác sỹ chuyển đi và nghỉ chế độ lại cũng
chiếm một tỷ lệ đáng kể (chiếm khoảng 37%-
40% so với số lượng mới tuyển dụng). Nghiên
cứu đó cũng chỉ ra tình trạng các cơ sở y tế gặp
nhiều khó khăn trong tuyển dụng là các cơ sở y
tế chuyên khoa, cơ sở y tế tuyến huyện và trung
tâm y tế dự phòng, đặc biệt ở những khu vực
thuộc vùng khó khăn. Có nhiều nguyên nhân
liên quan đến tình trạng thiếu nhân lực y tế dự
phòng, như việc đào tạo cán bộ có trình độ đại
học cho hệ YTDP còn rất ít; thiếu các chính sách
thu hút, khuyến khích cán bộ y tế làm việc cho
YTDP; điều kiện làm việc của các cơ sở YTDP
còn nhiều thiếu thốn; mô hình tổ chức hệ thống
y tế trong đó có YTDP tuyến huyện trong nhiều
năm qua không ổn định; ít có nguồn thu ngoài
lương (ví dụ làm thêm) cho cán bộ y tế hệ
YTDP... Thiếu các bác sĩ ở một số chuyên khoa
như Lao, Nhi, chuyên ngành Truyền nhiễm...
Một trong các lý do là các chuyên ngành này ít
hấp dẫn do vậy đào tạo chuyên khoa ít người đi
10
học .
Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút và duy trì
nhân lực y tế tuyến cơ sở ở khu vực miền núi
Nhiều nghiên cứu ở các khu vực khác nhau
cũng đã đề cập đến nguyên nhân của việc
chuyển dịch nguồn nhân lực trong đó các yếu tố
tác động đến chuyển dịch cán bộ y tế là mong có
thu nhập cao hơn, có các điều kiện, môi trường
làm việc tốt hơn, có điều kiện học tập nâng cao
trình độ và có điều kiện xã hội tốt hơn cho gia
đình. Một nghiên cứu ở 5 nước châu Phi đã cho
thấy 4 nguyên nhân chính của sự chuyển dịch
nhân lực là: (1) có thu nhập tốt hơn; (2) có môi
trường làm việc tốt hơn; (3) muốn có điều kiện
11
được học tập và đào tạo tốt hơn ; (4) hy vọng
được làm việc trong hệ thống y tế tốt hơn. Tương
tự, một số nghiên cứu khác được tiến hành tại
Sri-Lanka, Philippines, Việt Nam cũng cho thấy
các nguyên nhân liên quan tới nguồn thu nhập,
sự ổn định trong công việc và có điều kiện làm
việc cũng như cơ hội được đào tạo, nâng cao tay
nghề tốt hơn là những nguyên nhân thúc đẩy sự
chuyển dịch cán bộ từ khu vực nông thôn ra
thành thị cũng như sự di cư ra nước ngoài làm
12 13 14
việc . Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế
giới phân tích về sự hấp dẫn bác sỹ và sinh viên y
khoa làm việc tại khu vực nông thôn của Việt
Nam tiến hành năm 2010 cho thấy đối với bác sỹ
thì địa bàn nơi làm việc (nông thôn hay thành
thị) là yếu tố quan trọng để các bác sỹ quyết
định nơi làm việc, nhưng đối với sinh viên y
khoa thì có cơ hội được đào tạo là yếu tố quan
trọng nhất trong việc ra quyết định lựa chọn nơi
làm việc.
Trong nghiên cứu này, các nguyên nhân chủ
yếu gây nên sự kém thu hút nhân lực y tế về làm
việc tại tuyến y tế cơ sở bao gồm: thu nhập thấp,
chế độ phụ cấp đãi ngộ chưa thỏa đáng, điều
kiện làm việc khó khăn, môi trường làm việc
không tốt và ít có cơ hội học tập. Nghiên cứu
đánh giá thực trạng nhu cầu và sử dụng bác sỹ và
cử nhân điều dưỡng sau tốt nghiệp cũng chỉ ra
các nhóm nguyên nhân tương tự gây nên tình
trạng biến động nhân lực y tế: (i) Nguyên nhân
liên quan trực tiếp đến điều kiện làm việc, cơ hội
phát triển chuyên môn và vấn đề thu nhập là
10
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. Báo cáo đánh giá thực
trạng nhu cầu và sử dụng bác sỹ và cử nhân điều dưỡng sau
tốt nghiệp. 2009
11
Hernandez P, Drager S, Evans DB, Tan-Torres T, Dal Poz
MR. Measuring Expenditure for the Health Workforce:
Challenges and Evidence. Geneva, World Health
Organization, 2006.
12
WHO, Everybody's Business: Strengthening Health
Systems to Improve Health Outcomes: WHO's framework
for action, 2007
13
WHO, Assessing Financing, Education, Management and
Policy Context for Strategic Planning of Human Resources
for Health-WHO, 2007
14
Khassoum Diallo, Monitoring and Evaluation of Human
Resources for Health: an International Perspective, Human
Resources for Health 2003, 1:3.
38
Nghiên cứu chính sách
những nguyên nhân có tác động rất lớn tới sự
biến động về nhân lực, đặc biệt đối với đối tượng
là bác sĩ; (ii) Đối với các bác sĩ đã có gia đình và
có công việc làm ổn định thì thu nhập và điều
kiện sinh hoạt của gia đình là hai vấn đề có ảnh
hưởng lớn tới quyết định thay đổi việc làm của
các bác sĩ nếu như họ không nhìn thấy cơ hội có
thể được thăng tiến tại nơi đang làm việc. Thu
nhập không cao, không đủ điều kiện để lo lắng
cho con cái học hành, môi trường làm việc
không thuận lợi dễ dẫn đến tình trạng các bác sĩ
chuyển công tác. Các nhà lãnh đạo y tế toàn cầu
(năm 2004) cũng đã chỉ ra mối liên quan giữa
ảnh hưởng bất lợi của môi trường làm việc,
không tạo điều kiện phát huy năng lực chuyên
môn của nhân viên y tế như tình trạng thiếu
thuốc, vật tư, trang thiết bị hay chế độ đãi ngộ
thấp với tình trạng dịch chuyển cán bộ từ tuyến
dưới lên tuyến trên và từ khu vực nông thôn ra
15
khu vực thành thị .
Nhằm tăng cường tiếp cận của người dân ở
vùng nông thôn, vùng khó khăn tới nguồn nhân
lực y tế có chất lượng và duy trì được nguồn
nhân lực ở những vùng này, Tổ chức Y tế Thế
giới đã đưa ra 4 nhóm can thiệp với 16 giải pháp
can thiệp cụ thể, bao gồm: nhóm giải pháp về
đào tạo, nhóm giải pháp về chính sách, nhóm
giải pháp về hỗ trợ tài chính và nhóm giải pháp
hỗ trợ cá nhân và nghề nghiệp. Đối với nhóm
can thiệp hỗ trợ tài chính, Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo cần phải sử dụng kết hợp các khoản
trợ cấp tài chính bền vững, ví dụ như trợ cấp khi
công tác ở các vùng khó khăn, trợ cấp nhà ở, chi
phí đi lại, chi trả cho các đợt nghỉ phép... đủ để
vượt trên mức chi phí rủi ro khi các nhân viên y
tế phải làm việc ở các khu vực nông thôn để đảm
bảo được sự duy trì nhân lực ở các vùng nông
thôn. Đối với nhóm can thiệp hỗ trợ cá nhân và
nghề nghiệp, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo
cần phải có các giải pháp nhằm cải thiện điều
kiện sống của các nhân viên y tế và gia đình của
họ và đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ tại địa
phương (hệ thống vệ sinh, điện, thông tin liên
lạc, trường học...) vì những yếu tố này tác động
đáng kể lên quyết định về công tác tại các vùng
nông thôn của nhân viên y tế. Đồng thời cũng
cần có các giải pháp để có thể cải thiện môi
trường làm việc tốt và an toàn, bao gồm trang
thiết bị và các hỗ trợ phù hợp, giám sát và cố vấn
hỗ trợ, nhằm tăng tính hấp dẫn của công việc và
từ đó tăng tính bền vững trong công tác của các
nhân viên y tế tại các vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa. Việc sử dụng hình thức cử cán bộ y tế
lưu động từ tuyến trên xuống hỗ trợ thêm cho
các nhân viên y tế ở vùng sâu vùng xa là nhóm
giải pháp cũng được khuyến cáo. Đối với nhóm
can thiệp về chính sách, Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo nhóm giải pháp về hỗ trợ tài chính
và nhóm giải pháp chính sách liên quan đến
quyền lợi xã hội và điều kiện làm việc. Các nước
trong khu vực như Thái Lan, Indonesia,
Philippines hay Malaysia là những nước có
những khuyến khích tài chính mạnh để duy trì
nguồn nhân lực y tế.
Để thực hiện mục tiêu về nguồn nhân lực liên
quan đến sử dụng, duy trì và phát triển nguồn
nhân lực y tế, trong những năm gần đây, ngành y
tế đã thực hiện nhiều nhóm giải pháp khác nhau.
Cụ thể là: (1) Nhóm giải pháp liên quan đến cải
thiện môi trường làm việc hỗ trợ cán bộ thực
hiện công việc có chất lượng: Hiện nay Việt
Nam có chính sách nhằm vào bảo đảm có đủ cơ
sở hạ tầng, nhân lực cần thiết để tiến hành nhiệm
vụ theo phân tuyến kỹ thuật, như Chuẩn quốc
16 17
gia về y tế xã , tiêu chuẩn xếp hạng bệnh viện ,
và Tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ năng của nhân
viên y tế và trang thiết bị y tế trong chăm sóc
18
chấn thương thiết yếu . Gần đây nhà nước đã
đầu tư rất lớn để nâng cao cơ sở vật chất và trang
thiết bị ở tuyến xã (Quyết định 950), bệnh viện
huyện (Quyết định 47). Nhà nước cũng xây
15
Bộ Y tế. JAHR. 2009
16
Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Y tế về việc ban hành
“Chuẩn Quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010” (kèm theo
Quyết định 370/2002/QĐ-BYT ngày 7 tháng 2 năm 2002 của
Bộ Trưởng Bộ Y tế)
17
Thông tư của Bộ Y tế số 23/2005/TT-BYT ngày 25 tháng 8
năm 2005 Hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế
39
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
dựng nhiều quy định để bảo đảm đủ thuốc thiết
yếu, hạn chế gia tăng giá thuốc, quản lý thuốc
tại bệnh viện; (2) Nhóm giải pháp liên quan đến
các công cụ quản lý nhân lực: cụ thể là Nhà
nước đã tạo ra các quy định liên quan đến tuyển
dụng, bổ nhiệm, đề bạt, sử dụng, quản lý nhân
sự để các cơ sở y tế nhà nước á p dụng; (3) Nhóm
giải pháp tạo động lực làm việc: Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số
43/2005/QĐ-TTg ngày 05/10/2005, ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW, đã nêu nhiệm
vụ xây dựng một số chế độ đãi ngộ đặc biệt cho
cán bộ y tế. Đến nay đã có một Nghị định và ba
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nâng
chính sách, chế độ đối với cán bộ, viên chức y tế
19
và y tế thôn bản . Mặc dù nhà nước ta đã có các
giải pháp cụ thể để sử dụng, duy trì và phát triển
nguồn nhân lực y tế nhưng trên thực tế các chính
sách này đã cho thấy vẫn chưa đủ mạnh để có
thể duy trì và thu hút được cán bộ công tác tại
những vùng khó khăn. Hơn nữa, việc triển khai
các chính sách vẫn còn chưa thực hiện được một
cách hiệu quả. Khảo sát thực tế cho thấy ngành y
tế ở một số địa phương vẫn chưa phát huy vai trò
chủ động trong tham mưu cho lãnh đạo chính
quyền và tích cực vận động sự ủng hộ của các
Sở/Ngành có liên quan trong việc ban hành
chính sách hỗ trợ ngành y tế. Để có thể duy trì và
phát triển tốt nguồn nhân lực y tế trong thời gian
tới, các chính sách này cần phải được tiếp tục
thực hiện với sự hỗ trợ ở mức độ cao hơn và cần
phải tăng cường hoạt động theo dõi giám sát
việc triển khai chính sách các chính sách để
nâng cao hiệu quả của chính sách. 18
Quyết định số 12/2008/QĐ-BYT, ngày 27/2/2009, của Bộ
trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ
năng của nhân viên y tế và trang thiết bị y tế trong chăm sóc
.
chấn thương thiết yếu” .
19
Quyết định số 276/2005/QĐ-TTg ngày 01/11/2005 của
Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo
nghề đối với cán bộ, viên chức tại các cơ sở y tế của nhà
nước; Nghị định của Chính phủ số 64/2009/NĐ-CP ngày
30/07/2009 về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công
tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 75/2009/QĐ-TTg
ngày 11/ 05/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với
nhân viên y tế thôn, bản.
- Cả 4 tỉnh đều gặp khó khăn trong thu hút
cán bộ có trình độ về làm việc tại cơ sở y tế
tuyến huyện và xã. Nguồn nhân lực y tế tuyến
huyện có biến động nhiều hơn tuyến xã và chủ
yếu là ở nhóm bác sỹ và dược sỹ đại học. Số
nghỉ việc/chuyển đi bằng khoảng 50% số được
tuyển mới.
Kết luận
- Một số yếu tố quan trọng để CBYT yên tâm
làm việc lâu dài tại y tế tuyến cơ sở là: Lương và
phụ cấp thỏa đáng, là người địa phương hoặc có
gia đình ở địa phương, điều kiện làm việc thuận
lợi và có cơ hội được đào tạo.
- Việc triển khai một số chính sách khuyến
khích tài chính cho NLYT đã có tác động tích
cực tới nhân viên y tế công tác tại khu vực vùng
sâu, vùng xa. Tuy nhiên, việc triển khai chính
sách ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó
khăn, trong đó công tác phối hợp liên ngành
trong triển khai chính sách vẫn còn hạn chế.
Ngành y tế ở một số địa phương vẫn chưa phát
huy vai trò chủ động trong tham mưu và vận
động sự ủng hộ của các Sở/Ngành có liên quan
trong xây dựng và thực thi chính sách.
Khuyến nghị
Đối với các địa phương
Ngành y tế địa phương cần chủ động trong
tham mưu và vận động sự ủng hộ của các
Sở/Ngành có liên quan trong xây dựng chính
sách hỗ trợ của địa phương và trong thực thi các
chính sách hiện hành. Công tác phối hợp liên
ngành trong triển khai chính sách cần được đẩy
mạnh.
Cần xây dựng kế hoạch theo dõi, giám sát
việc triển khai các chính sách nhằm phát hiện
các bất cập trong quá trình triển khai thực hiện
để kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục tới
40
Nghiên cứu chính sách
các cấp liên quan có thẩm quyền
Đối với Bộ Y tế
Cần phối hợp với địa phương thực hiện theo
dõi, giám sát việc triển khai các chính sách hiện
hành nhằm kịp thời phát hiện các bất cập trong
quá trình triển khai thực hiện và đề xuất các giải
pháp khắc phục, điều chỉnh chính sách.
Cần tăng cường phối hợp với các Bộ/Ngành
liên quan để theo dõi, giám sát việc thực hiện
các chính sách liên quan đến các hình thức đào
tạo nguồn nhân lực y tế cho khu vực vùng khó
khăn, trong đó có hình thức đào tạo theo chế độ
cử tuyển.
Bộ Y tế cần tham mưu, đề xuất với Chính phủ
để điều chỉnh nội dung của Quyết định
75/2009/QĐ-TTg về mở rộng đối tượng thụ
hưởng chính sách (cho nhân viên y tế tổ) cho các
vùng đặc biệt khó khăn để có thể thu hút và duy
trì nguồn nhân lực y tế tuyến cơ sở.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_yeu_to_anh_huong_den_kha_nang_thu_hut_va_duy_tri_can_bo.pdf