Các yếu tố liên quan đến sự lưu hành sốt rét dai dẳng tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

Kết quả điều tra về tổ chức hoạt động PCSR cho thấy Về tổ chức bộ máy y tế cơ sở tại Phú Quốc so với mặt bằng chung cả nước là tương đối đầy đủ, cả cơ sở hạ tầng và nhân lực. Tất cả các trạm y tế và bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực đều được trang bị đủ thuốc sốt rét, đủ kính hiển vi. Các hoạt động được triển khai theo các đợt bảo vệ dân nguy cơ bằng hóa chất, hàng tháng tổ chức giao ban với các trạm y tế xã, nhưng vấn đề cơ bản đối với PCSR là phát hiện sớm, điều trị kịp thời thì chưa được chú trọng, cụ thể là hoạt động điểm kính hiển vi tại các xã và bệnh viện hiệu quả không cao do các lý do luân chuyển cán bộ, cán bộ kiêm nhiệm xét nghiệm và có cả lý do chủ quan lơ là của cán bộ trong công tác chẩn đoán sốt rét bằng xét nghiệm máu. KẾT LUẬN Về tình hình mắc sốt rét tại chỗ Có 19 trường hợp BNSR, chiếm tỷ lệ 2,40%. Trong đó ở xã Bãi Thơm có tỷ lệ lớn nhất (4,17%). Không xét nghiệm thấy ký sinh trùng sốt rét. Đối với điều tra các chỉ số về côn trùng Tại xã Gành Dầu (đại diện cho sinh địa cảnh ven biển) bắt được các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét, một An.tessellatus với phương pháp mồi người ngoài nhà và một An.letifer với phương pháp bẫy đèn trong nhà. Tại xã Cửa Dương (đại diện cho sinh địa cảnh rừng núi) cũng bắt được các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét bắt, một là An.letifer với phương pháp mồi người ngoài nhà và một là An.barbirostris với phương pháp soi chuồng gia súc. Không bắt được vector chính tại thời điểm điều tra. Về hoạt động PCSR Ý thức PCSR của người dân ở các điểm nghiên cứu còn hạn chế. Nhiều thông tin cần thiết cho PCSR chưa đến được người dân. Các hoạt động PCSR chủ yếu được thực hiện qua các đợt phun, tẩm hóa chất. Hoạt động truyền thông, giám sát phát hiện BNSR, KST sốt rét chưa được thường xuyên.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan đến sự lưu hành sốt rét dai dẳng tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 13 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SỰ LƯU HÀNH SỐT RÉT DAI DẲNG TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG Lê Thành Đồng*, Mai Anh Lợi* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đến nay sốt rét đã được khống chế, thu hẹp phạm vi lưu hành, nhiều nơi không còn sốt rét. Riêng ở Phú Quốc (Kiên Giang), sốt rét vẫn tồn tại dai dẳng, hàng năm vẫn có ca mắc mới tại chỗ. Đề tài tiến hành nhằm đánh giá thực trạng mắc sốt rét “tại chỗ” và các hoạt động phòng chống sốt rét tại huyện Phú Quốc, đồng thời xác định các yếu tố liên quan đến sốt rét lưu hành dai dẳng. Đối tượng nghiên cứu: Là người dân của 3 xã được chọn và các cơ sở y tế huyện đảo Phú Quốc. Phương pháp nghiên cứu mô tả với các kỹ thuật điều tra về mắc sốt rét, về côn trùng truyền bệnh sốt rét theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới và Bộ Y tế. Kết quả: Có 19 trường hợp BNSR, chiếm tỷ lệ 2,40%. Không thấy KST sốt rét. Có sự hiện diện của các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét (An.tessellatus, An.letifer, An.barbirostris). Ý thức PCSR của cộng đồng còn hạn chế. Các hoạt động truyền thông, giám sát phát hiện bệnh sốt rét chưa được thường xuyên. Kết luận: Có thể vẫn có sự lưu hành bệnh sốt rét tại chỗ, với các hoạt động PCSR hiện nay ở địa phương thì chưa thể cắt đứt lan truyền sốt rét tại chỗ. Từ khóa: Sốt rét dai dẳng, Phú Quốc. ABSTRACT FACTORS RELATING TO CIRCULATION OF PERSISTENT MALARIA IN PHU QUOC ISLAND, PROVINCE KIEN GIANG Le Thanh Dong, Mai Anh Loi * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 13 - 18 Hypothesis: Until now, malaria has been prevented, limit its circulation so that many places don’t affect. In Phu Quoc (Kien Giang province) however, malaria exists in long lasting periods, every year incidences case rise up. The research to evaluate the real situation of indigenous malaria cases and operations to prevent malaria in Phu Quoc, at the same time determine the factors relating to persistent epidemic malaria. Research objects is the people of the three selected communes and district health facilities of Phu Quoc island. The descriptive study method for investigation on the malaria cases, the malaria vectors is according to standards of the World Health Organization and the Ministry of Health. Results: 19 malaria prevalence cases, accounting for 2.40%. No malaria parasites. The presence of the sub- vector of malaria transmission (An.tessellatus, An.letifer, An.barbirostris). Community awareness of preventing malaria is limited. Communication activities, monitoring to detect malaria are not performed regularly. Conclusion: There may still be an indigenous malaria endemic “site”, with the current local malaria activation; the island can yet not prevent malaria transmission in place. Keyword: Indignons malaria, Phu Quoc. ĐẶT VẤN ĐỀ Mặc dù Chương trình phòng chống sốt rét là một trong một số chương trình y tế thành công nhất ở Việt Nam, từ chỗ sốt rét là bệnh ảnh hưởng trầm trọng ở các vùng rừng núi, * Viện Sốt rét-Ký sinh trùng- Côn trùng TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: TS. Lê Thành Đồng, ĐT: 0912009217, Email: lethanhdong@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 14 sốt rét lan tràn xuống đồng bằng, ven biển(1), nhiều vụ dịch xảy ra, đến nay sốt rét đã được khống chế, thu hẹp phạm vi lưu hành bệnh, nhiều nơi không còn sốt rét lưu hành. Tuy nhiên, đối với huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang), mặc dù tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét giảm so với trước đây, nhưng so với các địa phương tương tự khác đến nay hầu như không còn sốt rét lưu hành tại chỗ, thì ở Phú Quốc sốt rét vẫn tồn tại dai dẳng, hàng năm vẫn ghi nhận các ca mắc mới tại chỗ(2,3,4). Để giải quyết vấn đề sốt rét tồn tại dai dẳng ở huyện đảo Phú Quốc, Viện Sốt rét - KST - CT TP. Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu: - Đánh giá thực trạng mắc sốt rét “tại chỗ” và các hoạt động phòng chống sốt rét tại huyện Phú Quốc. - Xác định các yếu tố liên quan đến sốt rét lưu hành dai dẳng. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Địa điểm, đối tượng và thời gian nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu Là 3 xã Cửa Dương, Bãi Thơm, Gành Dầu, Trung tâm Y tế huyện, bệnh viện và các cơ sở y tế liên quan của huyện Phú Quốc. Đối tượng nghiên cứu Là người dân của các xã được chọn và tổ chức mạng lưới y tế cơ sở tại huyện đảo Phú Quốc (bao gồm tổ chức nhân lực, vật lực, hoạt động PCSR). Thời gian nghiên cứu Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2010. Phương pháp nghiên cứu và các kỹ thuật sử dụng Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu mô tả. Kỹ thuật điều tra - Điều tra mắc sốt rét tại chỗ: sử dụng các kỹ thuật điều tra bệnh nhân sốt rét lâm sàng, ký sinh trùng sốt rét, sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét theo quy định hiện hành. - Điều tra các chỉ số về côn trùng truyền bệnh: Sử dụng các kỹ thuật mồi, bắt muỗi, bọ gậy, định loại theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới và Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. - Điều tra, đánh giá việc tổ chức hoạt động phòng chống sốt rét tại huyện: Phỏng vấn trực tiếp các đối tượng là lãnh đạo, nhân viên y tế huyện, xã và người dân ở các điểm nghiên cứu. - Điều tra các yếu tố môi trường tự nhiên: quan sát trực tiếp và ghi nhận các yếu tố sinh cảnh môi trường liên quan đến lưu hành bệnh sốt rét. Cỡ mẫu và chọn mẫu - Để điều tra đánh giá tình hình mắc sốt rét tại chỗ, chọn công thức tính cỡ mẫu cho điều tra ngang đánh giá một tỷ lệ, với các thông tin hiện có ở khu vực nghiên cứu, với mong muốn có độ tin cậy > 95% và sai số ước tính < 0,02, tính được cỡ mẫu là 784, làm tròn là 792 mẫu, ước tính là 198 hộ. Chủ động chọn 3 xã/9 xã đại diện cho các vùng sinh cảnh lưu hành bệnh sốt rét, phân bố mẫu mỗi xã là 264 mẫu, gồm 66 hộ. Tại mỗi xã chọn ngẫu nhiên 66 hộ, điều tra tất cả các thành viên trong hộ về chỉ số mắc sốt rét, điều tra chủ hộ về phòng chống sốt rét. - Đối với điều tra các chỉ số về côn trùng: tại các điểm điều tra chỉ số bệnh nhân, chọn đủ các điểm điều tra muỗi trưởng thành và bọ gậy theo quy định. - Đối với điều tra, đánh giá việc tổ chức hoạt động phòng chống sốt rét tại huyện: Chọn tất cả các đối tượng là lãnh đạo y tế huyện, các cán bộ chuyên trách sốt rét, các chủ hộ gia đình ở các hộ điều tra chỉ số bệnh nhân. Phân tích số liệu Sử dụng các phần mềm thống kê y sinh học. KẾT QUẢ Điều tra tình hình mắc sốt rét tại chỗ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 15 Bảng 1. Tình hình mắc sốt rét tại các xã nghiên cứu. Chỉ số điều tra Xã Gành Dầu Xã Cửa Dương Xã Bãi Thơm Cộng Số mẫu 264 264 264 792 BNSR 5 3 11 19 Tỷ lệ % BNSR 1,89 1,14 4,17 2,40 KST SR 0 0 0 0 Nhận xét: Có 19 trường hợp được chẩn đoán là BNSR tại các điểm điều tra, chiếm tỷ lệ 2,40%. Trong đó ở xã Bãi Thơm có tỷ lệ lớn nhất (4,17%). Không xét nghiệm thấy ký sinh trùng sốt rét. Đối với điều tra các chỉ số về côn trùng Bảng 2. Kết quả điều tra muỗi tại điểm nghiên cứu. Địa điểm Mồi người ngoài nhà Bẫy đèn trong nhà Soi chuồng gia súc Xã Gành Dầu An.tessellatus (1) An.letifer (1) Xã Cửa Dương An.letifer (1) An.barbirostris (1) Nhận xét: Tại thôn Gành Dầu, xã Gành Dầu (đại diện cho sinh địa cảnh ven biển) bắt được 01 An.tessellatus (mồi người ngoài nhà) và 01 An.letifer (bẫy đèn trong nhà), đây là các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét. Không bắt được vector chính tại thời điểm điều tra. Tại thôn Bến Tràm, xã Cửa Dương (đại diện cho sinh địa cảnh rừng núi) bắt được 01 An.letifer (mồi người ngoài nhà) và 01 An.barbirostris (soi chuồng gia súc). Điều tra việc tổ chức hoạt động phòng chống sốt rét Điều tra phỏng vấn hộ gia đình Thông tin về hộ gia đình và người được phỏng vấn Tổng số chủ hộ/người chủ chốt trong gia đình được phỏng vấn là 396. Lứa tuổi từ 16 đến 75. Số người trung bình trong hộ gia đình là 4,5 ± 1,5 (1 - 9), trung vị là 4; số trẻ dưới 15 tuổi trung bình là 1,1 ± 0,9 (0 - 4), tổng số người trong 396 hộ gia đình là 1.766 người. Nguồn thông tin PCSR mà người dân nhận được Những hình thức truyền thông PCSR mà người dân nhận được trong 396 người được hỏi thì hình thức chủ yếu là cán bộ tuyên truyền (69,40%), ti vi (39,93%), radio (25,00%), loa truyền thanh (24,63%), tranh ảnh (8,96%), tờ rơi (4,48%). Hình thức truyền thông được ưa thích Trong 268 người trả lời thích được truyền thông về PCSR thì phương tiện truyền thông ưa thích chủ yếu là cán bộ tuyên truyền: 119 người/268 người (44,61%), ti vi: 88 người/268 người (32,71%), radio: 33 người/268 người (12,27%), loa truyền thanh: 26 người/268 người (9,67%) và tranh ảnh, tờ rơi là: 1 người/268 người (0,37%). Kiến thức về nguyên nhân gây sốt rét và các triệu chứng Có 301 người (76,01%) trả lời đúng nguyên nhân gây bệnh, 89 người (22,47%) không biết nguyên nhân gây bệnh, 6 người trả lời sai. Số trả lời không biết các triệu chứng bệnh sốt rét là 98 người (24,75%), số còn lại (75,25%) trả lời đúng ít nhất 1 triệu chứng. Thực hành phòng chống sốt rét Có 1.030 chiếc màn đôi trong số các hộ điều tra, số màn đơn chỉ có 1 hộ duy nhất có 1 chiếc. Trung bình có là 1,7 người/màn. Đa số người dân thích ngủ màn (98,23%). Số hộ có tẩm màn hóa chất trong năm 2010 là 85,61%, trong đó có 884 chiếc màn đôi được tẩm và 1 chiếc màn đơn. Số hộ có giặt màn trước khi tẩm là 334 hộ/339 hộ (98,53%). Số hộ có giặt màn sau khi tẩm là 39 hộ/339 hộ (11,5%). Có 394 hộ/396 (99,49%) hộ gia đình có ngủ màn với số người ngủ màn đêm hôm trước khi phỏng vấn. Thói quen tìm đến dịch vụ y tế khi bị bệnh 284 người/396 người (71,72%) sẽ tìm đến trạm y tế hoặc bệnh viện khi bị sốt, 32 người/396 người (8,08%) tìm đến y tế thôn bản, 80 người/396 người (20,20%) tự mua thuốc điều trị. Có 145 người/396 người (36,62%) không biết thuốc sốt rét được cấp miễn phí. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 16 Điều tra tổ chức hoạt động PCSR tại huyện Về tổ chức bộ máy y tế cơ sở tại Phú Quốc Có 1 bệnh viện đa khoa huyện, 1 phòng khám đa khoa khu vực, 1 trung tâm y tế huyện, 8 trạm y tế tại 8 xã và thị trấn. Trung tâm y tế huyện có 38 biên chế với 6 bác sỹ, duy nhất có 1 trạm y tế xã Cửa Dương chưa có bác sỹ, số trạm y tế, phòng khám đa khoa khu vực còn lại đều có bác sỹ (bình quân mỗi trạm có từ 4 đến 5 cán bộ). Tất cả các trạm y tế và bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực đều được trang bị đủ thuốc sốt rét, đủ kính hiển vi. Về hoạt động PCSR Hàng năm Trung tâm y tế dự phòng tỉnh, Trung tâm Y tế huyện và các trạm y tế xã thường tổ chức các đợt bảo vệ dân nguy cơ bằng hóa chất với việc phun tồn lưu và tẩm màn đợt 1 vào tháng 4 và 5, đợt 2 vào tháng 8 và 10. Hàng tháng Trung tâm Y tế huyện có tổ chức giao ban với các trạm y tế xã 1 lần tại Trung tâm Y tế huyện. Hoạt động kính hiển vi tại các xã và bệnh viện hiệu quả không cao do các lý do luân chuyển cán bộ, cán bộ kiêm nhiệm xét nghiệm và có cả lý do chủ quan lơ là của cán bộ trong công tác chẩn đoán sốt rét bằng xét nghiệm máu. BÀN LUẬN Về tình hình BNSR và ký sinh trùng sốt rét Mặc dù điều tra phát hiện thấy có 19 trường hợp là bệnh nhân sốt rét, chiếm 2,40%, nhưng xét nghiệm không phát hiện thấy có ký sinh trùng sốt rét. Tuy nhiên, trên thực tế, theo số liệu báo cáo của địa phương thì năm 2010 vẫn phát hiện thấy có ký sinh trùng sốt rét ở huyện Phú Quốc, chiếm tỷ trọng cao của toàn tỉnh (24/29). Trong đó ở Thị trấn Dương Đông có 6 trường hợp, Thị trấn An Thới 3, xã Dương Tơ 2, xã Hàm Ninh 2, xã Cửa Dương 6, xã Cửa Cạn 2, xã Gành Dầu 1 và xã Bãi Thơn 2 trường hợp. Phân tích các trường hợp nhiễm ký sinh trùng sốt rét năm 2010 cho thấy có 06 trường hợp là trẻ em dưới 15 tuổi, 18 trường hợp từ 15 tuổi trở lên, tất cả các trường hợp nhiễm đều ở tại địa phương. Điều tra không phát hiện thấy ký sinh trùng sốt rét có thể là số mẫu chưa đủ lớn hoặc có thể ngẫu nhiên không gặp ca nhiễm ký sinh trùng sốt rét, hoặc có nhiễm nhưng mật độ thấp hoặc ở giai đoạn tiềm ẩn hoặc có thể xét nghiệm phát hiện sai sót. Để giải quyết vấn đề này cần có điều tra thêm cỡ mẫu, phối hợp thêm biện pháp xét nghiệm khác. Về tình hình muỗi truyền bệnh sốt rét Mặc dù, điều tra chỉ bắt được các véc tơ phụ, không bắt được véc tơ chính, nhưng theo báo cáo của địa phương, trước thời điểm điều tra vẫn bắt được An. epiroticus vector chính truyền bệnh sốt rét. Có thể do thời điểm điều tra không có mặt véc tơ chính, hoặc có véc tơ chính (như trước đây) nhưng điều tra không thấy do thời gian và số điểm điều tra còn hạn chế. Khác với ở huyện đảo Côn Đảo, mắc dù điều tra phát hiện An. dirus có mật độ rất cao nhưng hiện nay hầu như không có bệnh nhân sốt rét. Tuy nhiên, với kết quả phát hiện có 3 loài véc tơ phụ là An.tessellatus, An.letifer và An.barbirostris truyền bệnh sốt rét, kết hợp với các trường hợp ký sinh trùng sốt rét ở trẻ em và người lớn không giao lưu vào vùng sốt rét cho thấy bệnh sốt rét vẫn còn lưu hành tại địa phương. Để khẳng định chắc chắn có sự tồn tại của véc tơ chính truyền bệnh sốt rét tại huyện đảo Phú Quốc hay không, cần có điều tra tiếp với thời gian dài hơn và với địa điểm nhiều hơn. Về hoạt động PCSR tại huyện Kết quả phỏng vấn các chủ hộ gia đình cho thấy nguồn thông tin PCSR mà người dân nhận được chủ yếu là cán bộ tuyên truyền, đây cũng là biện pháp người dân ưa thích nhất. Hình thức truyền thông qua tranh ảnh, tờ rơi rất ít. Kết quả này cho thấy hoạt động truyền thông Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 17 còn hạn chế, ngay cả biện pháp thường xuyên và được người dân ưa thích nhất cũng chỉ có 44,61% số người được hỏi cho biết có hoạt động này. Các hình thức truyền thông khác còn hạn chế. Dó đó, chỉ có 76,01% trả lời đúng nguyên nhân gây bệnh, 22,47% không biết nguyên nhân gây bệnh. Về thực hành phòng chống sốt rét, cộng đồng sử dụng màn tương đối đầy đủ, trung bình có 1,7 người/màn đôi. Đa số người dân thích ngủ màn (98,23%). Việc triển khai tẩm màn cũng tương đối đạt, trong năm 2010 triển khai tẩm màn được 85,8% số màn hiện có. Việc ngủ trong màn cũng được thực hiện tương đối tốt, 99,49% hộ gia đình có ngủ màn với số người ngủ màn đêm hôm trước khi phỏng vấn. Có 71,72% sẽ tìm đến cơ sở y tế khi bị sốt, số ít còn lại tìm đến y tế thôn bản, hoặc tự mua thuốc điều trị. Vẫn còn 36,62% người không biết thuốc sốt rét được cấp miễn phí. Tóm lại mặc dù các hoạt động chuyên môn được triển khai thực hiện với kết quả tương đối, nhưng qua phỏng vấn cho thấy đây là các hoạt động theo đợt chiến dịch, việc duy trì thường xuyên tiếp cận với cộng đồng ở đây cũng tương tự như nhiều nơi khác có tình hình sốt rét giảm chưa được thường xuyên, từ đó việc truyền thông bị hạn chế nên hiểu biết của nhân dân về công tác phòng chống sốt rét chưa được cao. Kết quả điều tra về tổ chức hoạt động PCSR cho thấy Về tổ chức bộ máy y tế cơ sở tại Phú Quốc so với mặt bằng chung cả nước là tương đối đầy đủ, cả cơ sở hạ tầng và nhân lực. Tất cả các trạm y tế và bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực đều được trang bị đủ thuốc sốt rét, đủ kính hiển vi. Các hoạt động được triển khai theo các đợt bảo vệ dân nguy cơ bằng hóa chất, hàng tháng tổ chức giao ban với các trạm y tế xã, nhưng vấn đề cơ bản đối với PCSR là phát hiện sớm, điều trị kịp thời thì chưa được chú trọng, cụ thể là hoạt động điểm kính hiển vi tại các xã và bệnh viện hiệu quả không cao do các lý do luân chuyển cán bộ, cán bộ kiêm nhiệm xét nghiệm và có cả lý do chủ quan lơ là của cán bộ trong công tác chẩn đoán sốt rét bằng xét nghiệm máu. KẾT LUẬN Về tình hình mắc sốt rét tại chỗ Có 19 trường hợp BNSR, chiếm tỷ lệ 2,40%. Trong đó ở xã Bãi Thơm có tỷ lệ lớn nhất (4,17%). Không xét nghiệm thấy ký sinh trùng sốt rét. Đối với điều tra các chỉ số về côn trùng Tại xã Gành Dầu (đại diện cho sinh địa cảnh ven biển) bắt được các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét, một An.tessellatus với phương pháp mồi người ngoài nhà và một An.letifer với phương pháp bẫy đèn trong nhà. Tại xã Cửa Dương (đại diện cho sinh địa cảnh rừng núi) cũng bắt được các véc tơ phụ truyền bệnh sốt rét bắt, một là An.letifer với phương pháp mồi người ngoài nhà và một là An.barbirostris với phương pháp soi chuồng gia súc. Không bắt được vector chính tại thời điểm điều tra. Về hoạt động PCSR Ý thức PCSR của người dân ở các điểm nghiên cứu còn hạn chế. Nhiều thông tin cần thiết cho PCSR chưa đến được người dân. Các hoạt động PCSR chủ yếu được thực hiện qua các đợt phun, tẩm hóa chất. Hoạt động truyền thông, giám sát phát hiện BNSR, KST sốt rét chưa được thường xuyên. ĐỀ NGHỊ Để đánh giá chính xác hơn nữa tình hình lưu hành bệnh tại địa phương, đề nghị thực hiện điều tra mở rộng thêm số mẫu phối hợp với thu thập số liệu bệnh nhân sốt rét, KST sốt rét từ các cơ sở y tế. Triển khai thêm các điểm điều tra côn trùng kết hợp với điều tra bọ gậy, đồng thời Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 18 theo dõi thường xuyên diễn biến của véc tơ sốt rét tại địa phương. Các đơn vị y tế tại địa phương cần tăng cường và thực hiện các hoạt động PCSR đầy đủ, đúng quy định. Việc phun, tẩm bảo vệ dân nguy cơ bằng hóa chất để ngăn chặn đỉnh bệnh sốt rét hàng năm chưa đúng thời điểm (đợt I vào tháng 4 và 5, đợt II vào tháng 9 và 10, trong khi đỉnh bệnh cao nhất hàng năm là tháng 12 và tháng 1). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Đức Chính, Wim Van Bortel và cs (2008) Đánh giá ảnh hưởng của màn tẩm hóa chất diệt côn trùng tới quần thể An.epiroticus đã kháng hóa chất ở miền tây Nam Bộ. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng số 6, năm 2008. Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương. 2. Đoàn Hạnh Nhân, Nông Thị Tiến và cs (2007). “Một số yếu tố xã hội học liên quan đến lan truyền sốt rét dai dẳng tại huyện Đăkrông và Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị”. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng số 4, năm 2007. Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương. 3. Lê Xuân Hợi và cộng sự (2008). “Đã đánh giá thực trạng công tác giám sát vector và biện pháp phòng chống vector sốt rét khu vực Nam Bộ - Lâm Đồng từ năm 2002 - 2008”. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng số 6, năm 2008. Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung Ương. 4. Phạm Văn Tường (2001) “Lồng ghép chăm sóc sức khỏe ban đầu trong phòng chống sốt rét tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang”, Tạp chí Y học Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_su_luu_hanh_sot_ret_dai_dang_tai_hu.pdf