Duy trì chương trình mục tiêu quốc gia về
giảm nghèo bền vững, chú ý đến các đối tượng
chịu thiệt thòi như: hộ nghèo, hộ chính sách xã
hội, hộ neo đơn, bệnh tật. Đối với khu vực
vùng sâu, vùng xa, miền núi thì cần có chính
sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các thành
phần kinh tế đầu tư, tạo việc làm và nâng cao
thu nhập cho người dân tại chỗ. Cần đẩy mạnh
hơn nữa trong việc phổ cập kiến thức về y tế
chăm sóc sức khỏe cho người dân ở các khu
vực này. Chính quyền địa phương và các tổ
chức đoàn thể cần có các chương trình hỗ trợ
tài chính trực tiếp như chi ngân sách hỗ trợ y
tế cho các gia đình khó khăn, các khoản miễn
giảm phí, hỗ trợ đi lại, ăn ở cho các gia đình
nghèo, khu vực nông thôn. Xem xét mức trợ
cấp xã hội cho những hộ nghèo có trẻ em về
bảo hiểm y tế.
Ngoài ra, cần có các hỗ trợ bảo hiểm y tế
và trợ cấp chi phí khám chữa bệnh cho ngưởi
nghèo cũng là một vấn đề đáng xem xét triển
khai thực hiện và đặc biệt trẻ nghèo phải được
chi trả các khoản khám chữa bệnh miển phí.
Một mặt, nó tác động tích cực đến việc giảm
chi phí tài chính sức khỏe. Mặt khác, giúp cho
người nghèo giảm bớt gánh nặng và có tiền
đầu tư cải thiện nghèo
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tác động đến chi tiêu cho y tế của trẻ em: Ứng dụng mô hình Tobit cho dữ liệu của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 2 (47) 2016 19 
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHI TIÊU CHO Y TẾ CỦA TRẺ EM: 
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TOBIT CHO DỮ LIỆU CỦA VIỆT NAM 
Ngày nhận bài: 11/12/2015 Nguyễn Hữu Dũng1 
Ngày nhận lại: 10/01/2016 Nguyễn Minh Trí2 
Ngày duyệt đăng: 26/02/2016 Nguyễn Trọng Hoài3 
TÓM TẮT 
Mục đích của nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố tác động đến việc chi tiêu y tế của hộ 
gia đình cho trẻ em, bằng dữ liệu bảng VHLSS 2010 và 2012. Nghiên cứu đã tiến hành lược 
khảo các lý thuyết liên quan về hành vi người tiêu dùng như hành vi chi tiêu y tế, đánh giá tổng 
quan các nghiên cứu trước đây, và các nghiên cứu về sự quan tâm của hộ gia đình trong việc 
sẵn lòng chi tiêu y tế cho trẻ em. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 13 biến thuộc 4 nhóm tác 
động có ý nghĩa thống kê lên mức chi tiêu y tế dành cho trẻ em ở hộ gia đình Việt Nam, bao gồm 
các đặc điểm kinh tế hộ, điều kiện chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ từ bên ngoài và các biến nhân khẩu 
học của hộ. Trong đó yếu tố thu nhập gia đình có tác động mạnh nhất đến mức chi tiêu y tế này. 
Nghiên cứu đã đề xuất các gợi ý nhằm gia tăng sự quan tâm của hộ gia đình đến đầu tư chi tiêu 
y tế cho trẻ em nhằm giúp cho trẻ có được sức khỏe tốt hơn. 
Từ khóa: Mô hình Tobit; chi tiêu y tế; trẻ em Việt Nam; VHLSS 2010 và 2012. 
ABSTRACT 
The purpose of this study is aimed at examning factors affecting household expenditures for 
chidren health care, using panel data from VHLSS 2010 and 2012. Litterature on related 
theories of consumer behaviour such as health care expenditures, outcomes of previous studies, 
and concerns of households on the willingness to pay for children health care have been 
explicitly reviewed. Findings show that thirteen variables classified in four factor groups, 
namely, household economic condition, health care services, supporting sources, and 
demographic characteristics of household posed significantly impacts to expenditures of 
househods for their chidren health care. Among those factors, households’ income is the most 
significant one. Based on research results, the authors make some recommendations for 
enhancing the households’ interest on spending these costs for better health care of their chilren. 
Keywords: Tobit model; health expendirures; Vietnamese chidren; VHLSS 2010 và 2012. 
1. Giới thiệu 123 
 Mỗi hộ gia đình đều có sự cân nhắc để 
quyết định chi tiêu bao nhiêu cho các nhu cầu 
của cuộc sống. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe 
của các thành viên trong hộ cũng chiếm một 
phần không nhỏ trong chi tiêu của hộ. Có sức 
khỏe tốt thì các thành viên gia đình mới an 
tâm học tập, vui chơi, làm việc hiệu quả từ đó 
1
xã hội mới phát triển ổn định. Đối với các hộ 
gia đình có trẻ nhỏ thì mức độ chi tiêu cho y 
tế cần đặc biệt ưu tiên nhằm hạn chế nguy cơ 
tử vong và bệnh tật trong tương lai. Tuy 
nhiên, chi tiêu cho y tế có thể trở thành gánh 
nặng cho các hộ gia đình nghèo, khi nó buộc 
hộ gia đình phải chi trả đáng kể so với thu 
nhập của họ hiện tại hoặc trong tương lai. 
1
 TS, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. Email: nhdung@ueh.edu.vn 
2
 ThS, Trường Đại học Kinh tế-Luật- Đại học Quốc gia TP.HCM. 
3 
GS.TS, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. 
20 KINH TẾ 
Nghiên cứu gánh nặng tài chính của các hộ 
gia đình cho chi tiêu y tế ở Việt Nam đã cho 
thấy hộ gia đình Việt Nam là nơi chi trả hầu 
hết các chi phí chăm sóc sức khỏe. Chính vì 
vậy hộ gia đình đối mặt với thảm họa chi tiêu 
y tế và dẫn đến nghèo đói do thanh toán quá 
mức khi chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe (Van 
Minh và cộng sự, 2013). Dữ liệu Khảo sát 
mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) từ 
2002 đến 2012 cũng chỉ ra rằng khoảng cách 
về triển vọng sống giữa nhóm trẻ em nghèo và 
nhóm trẻ em khá giả hơn đang dần nới rộng. 
Điều này càng khẳng định là tăng trưởng thì 
tốt cho người nghèo nhưng không phải là tất 
cả, đặc biệt trẻ em là đối tượng rất dễ chịu ảnh 
hưởng bởi các điều kiện sống. Như vậy, có 
thể thấy rằng không chỉ riêng yếu tố về tài 
chính mà còn có sự cộng hưởng của một số 
yếu tố khác ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia 
đình cho các dịch vụ y tế để chăm sóc sức 
khỏe, đặc biệt là sức khỏe trẻ em. Việc chăm 
sóc sức khỏe cho trẻ em là rất quan trọng và 
cần được ưu tiên trong các khoản chi tiêu. Tuy 
nhiên, không phải tất cả mọi người đều hành 
động như nhau đối với việc chăm sóc sức 
khỏe cho trẻ em. 
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu đã sử 
dụng mô hình Tobit panel để phân tích các 
yếu tố tác động đến chi tiêu y tế cho trẻ em 
của các hộ gia đình Việt Nam. Sử dụng mô 
hình Tobit panel sẽ giúp ước lượng được tốt 
hơn các yếu tố tác động khi dữ liệu có các 
trường hợp mức chi tiêu y tế cho trẻ bằng 
bằng 0. ên cạnh đó, mô hình cũng giúp quan 
sát được những nhóm đối tượng nghiên cứu 
sau các biến cố hoặc theo thời gian, cũng như 
phân tích sự khác biệt giữa các giữa các nhóm 
trong dữ liệu nghiên cứu. 
2. Cơ sở lý thuyết, khung phân tích 
Theo Mas-Colell và cộng sự (1995) tiêu 
dùng thể hiện những quyết định lựa chọn tiêu 
dùng mang tính chất duy lý của người tiêu 
dùng cho các loại hàng hoá. Trong điều kiện 
ràng buộc về ngân sách hộ gia đình, người 
tiêu dùng sẽ lựa chọn rổ hàng hoá đảm bảo tối 
đa hoá mức hữu dụng của mình. Để đạt mức 
thỏa dụng cao nhất, người tiêu dùng sẽ lựa 
chọn tiêu dùng các hàng hóa với số lượng 
khác nhau nhằm để đạt thỏa dụng cao nhất. 
Nhưng đối với sức khỏe là một loại hàng hóa 
vốn được tiêu dùng vì sự thỏa dụng trực tiếp 
mà chúng mang lại, sự chăm sóc sức khỏe 
được tiêu dùng để tạo ra sức khỏe, ở đây sức 
khỏe mới là hàng hóa được mong muốn. 
Trong thực tế, sự chăm sóc sức khỏe thường 
là một hàng hóa xấu có hiệu ứng trực tiếp làm 
giảm thỏa dụng. Phần lớn chúng ta đều thấy 
vui vẻ nếu không bao giờ phải tiêu dùng 
chúng. Nhưng khi đau ốm, sự chăm sóc sức 
khỏe lại trở thành một hàng hóa tốt vì nó có 
tác động phục hồi sức khỏe, lợi ích này vượt 
trội những hiệu ứng không mong muốn trong 
ngắn hạn của việc tiêu dùng dịch vụ này. Theo 
Pauly (1986) chăm sóc sức khỏe là tập hợp 
những hàng hóa và dịch vụ với mục đích 
chính là cải thiện hay phòng ngừa sự đi xuống 
của sức khỏe. Trong điều kiện thông tin bất 
cân xứng, một người tiêu dùng có thể đối mặt 
với tình huống quyết định giữa việc uống một 
viên thuốc hay phải trải qua một cuộc giải 
phẫu. Như vậy hàng hóa liên quan đến chăm 
sóc sức khỏe là một loại hàng hóa đặc biệt 
dưới góc độ phân tích kinh tế. 
Nghiên cứu của UNDP Việt Nam (2011), 
PAHE (2011), Hauck và Rice (2003) đã đưa 
ra nhiều nhóm yếu tố có tác động đến quyết 
định chi tiêu cho y tế bao gồm: đặc điểm về 
nhân khẩu học, điều kiện chăm sóc sức khỏe, 
tình trạng kinh tế của hộ, và sự hỗ trợ từ bên 
ngoài. ên cạnh đó, nghiên cứu gánh nặng tài 
chính của các hộ gia đình chi tiêu y tế ở Việt 
Nam của Van Minh và cộng sự (2013) cũng 
đã chỉ ra rằng đặc điểm kinh tế của hộ gia 
đình có ảnh hưởng đến việc quyết định chi 
tiêu y tế. Trong đó, những hộ có thu nhập cao 
thì sẽ tăng chi tiêu và quan tâm nhiều hơn đến 
việc lựa chọn dịch vụ y tế đắt tiền. Trên cơ sở 
các lý thuyết và các nghiên cứu trước nhóm 
tác giả đề xuất khung phân tích được trình bày 
trong Hình 1. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 2 (47) 2016 21 
Hình 1. Khung phân tích của nghiên cứu 
3. Phương pháp và mô hình nghiên cứu 
3.1. Phương pháp nghiên cứu 
Chi tiêu cho y tế dành cho trẻ em theo các 
lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trước 
đã đánh giá nhận định sẽ chịu ảnh hưởng của 
những đặc điểm như sau: kinh tế hộ gia đình, 
nhân khẩu học của hộ, điều kiện chăm sóc y tế 
và sự hỗ trợ từ bên ngoài về y tế cho hộ gia 
đình. Dựa trên tình hình dữ liệu thực tế của bộ 
dữ liệu điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS 
2010 và 2012 và khung lý thuyết đã trình bày 
trong hình 1, đề tài xây dựng cụ thể các biến 
phụ thuộc và các biến giải thích để làm rõ các 
yếu tố tác động đến chi tiêu y tế trẻ em. 
Biến chi tiêu y tế dành cho trẻ em là chi 
tiêu của hộ gia đình cho việc chăm sóc sức 
khoẻ trẻ em được tính bằng tổng các khoản chi 
cho sức khỏe bao gồm chi phí khám chữa bệnh 
nội trú, ngoại trú, chi mua BHYT, thuốc và các 
dụng cụ y tế. 
Số liệu điều tra VHLSS về mức chi tiêu 
của các hộ gia đình về y tế được cung cấp 
thường chỉ trong một khoảng thời gian ngắn 
(khoảng một tuần) trước thời điểm điều tra. Do 
vậy, sẽ có nhiều hộ gia đình không có số liệu 
về mức chi tiêu y tế, điều đó có nghĩa là một 
số giá trị của biến phụ thuộc (chi tiêu y tế) sẽ 
có giá trị bằng 0. Số liệu như thế sẽ không 
phản ánh đúng mức chi tiêu y tế của các hộ gia 
đình. Trong phân tích kinh tế lượng, dạng dữ 
liệu như vậy được gọi là số liệu bị kiểm lọc, và 
phương pháp bình phương bé nhất (OLS) sẽ 
thất bại trong việc ước lượng mô hình dạng 
này. Mô hình Tobit sẽ rất hữu hiệu trong 
những trường hợp như vậy, và các hệ số được 
ước lượng bằng phương pháp Maximum 
Likelihood (ML) sẽ cho các kết quả ước lượng 
tốt hơn nhiều so với phương pháp OLS. Theo 
Greene (1981) lý thuyết phân phối cho trường 
hợp biến bị kiểm lọc là giống với lý thuyết 
phân phối cho các biến bị chặn. Khi số liệu bị 
kiểm lọc thì phân phối của nó là sự trộn lẫn 
của phân phối rời rạc và phân phối liên tục, 
không thể sử dụng phương pháp OLS bởi vì 
không đáp ứng được điều kiện E (u) = 0. Để 
phân tích phân phối này, cần xác định một 
biến ngẫu nhiên mới được chuyển đổi từ một 
biến gốc thành 2 phần. Phần thứ nhất phía bên 
Mức chi tiêu y tế 
dành cho trẻ em 
(Chi tiêu hộ) 
KINH TẾ HỘ 
GIA ĐÌNH 
1. Thu nhập hộ 
ĐẶC ĐIỂM HỘ GIA ĐÌNH 
1. Tổng số người trong hộ 
2. Số người sống phụ thuộc (trẻ em, 
người cao tuổi) 
3. Địa điểm sinh sống, học vấn, dân 
tộc, tôn giáo 
ĐIỀU KIỆN CHĂM 
SÓC SỨC KHỎE 
1. Bảo hiểm y tế 
2. Cơ sở y tế 
HỖ TRỢ BÊN NGOÀI 
1. Trợ cấp chi phí y tế 
2. Trợ cấp bảo hiểm 
3. Tín dụng cho vay 
22 KINH TẾ 
phải của phương trình thể hiện phân phối cho 
các quan sát liên tục và phần thứ hai phía bên 
trái của phương trình là xác suất cho các quan 
sát không liên tục. 
Đối với bộ dữ liệu VHLSS 2010, 2012 để 
kiểm soát được các biến không đổi theo thời 
gian nhưng chúng lại có thể ảnh hưởng đến chi 
tiêu y tế như đặc điểm dân tộc, giới tính của 
chủ hộ, vùng miền, thành thị/nông thôn, thì 
cần phải lựa chọn một dạng mô hình phù hợp 
nhằm đảm bảo ước lượng tốt cho các biến này. 
Trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng 
dạng mô hình Tobit tác động ngẫu nhiên 
(Random-effects tobit models). Mô hình cho 
phép đưa vào mô hình các biến không đổi theo 
thời gian sẽ được kiểm soát. Những biến số 
này được đưa vào phương trình qua các sai số 
ngẫu nhiên của từng hộ, điều đó làm cho các 
ước lượng của mô hình không bị chệch và vẫn 
nhất quán. 
3.2. Dữ liệu nghiên cứu 
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu VHLSS 2010 
và 2012 do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 
2010 và 2012 để trích lọc các thông tin về các 
loại hình chi tiêu y tế của hộ gia đình dành 
cho trẻ em và các đặc điểm của hộ gia đình, 
cơ sở y tế và sự hỗ trợ y tế từ bên ngoài dưới 
dạng dữ liệu bảng. Bộ dữ liệu có tổng cộng 
9.402 hộ (2010) và 9.399 hộ (2012) đại diện 
cho 46.955 cá nhân được điều tra trên 3.133 
xã/phường thuộc 64 tỉnh thành, đại diện cho 
cả nước, các vùng, khu vực thành thị, nông 
thôn và tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. 
Để kết nối dữ liệu từng năm dưới dạng dữ 
liệu bảng, nghiên cứu đã tiến hành tìm bộ mã 
hộ chung cho hai bộ dữ liệu sau đó mới kết 
hợp dữ liệu của hai năm thành dữ liệu bảng. 
Số quan sát sau cùng sử dụng trong đề tài là 
n= 2.466 
Chi tiêu cho y tế trẻ em và thu nhập trong 
năm của hộ gia đình năm 2012 được chuyển 
sang giá của năm 2010, trước khi tiến hành 
ước lượng các hệ số trong mô hình. 
3.3. Mô hình nghiên cứu 
Mô hình hồi quy cụ thể nhằm xác định các 
yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu y tế cho trẻ em ở 
cấp độ hộ gia đình được thiết lập như sau (xem 
định nghĩa cụ thể cho từng biến trong bảng 1): 
Y= β0 + β1TN + β2GT + β3TUOI + 
β4HV + β5 TE + β6 TV + β7 TT + β8V2 + 
β9V3 + β10V4 + β11V5 + β12V6 + β13DT 
+ β14 HYT + β15SD HYT + β16CS2 + 
β17CS3 + β18CS4 + β19TC H + β20TCYT 
+ β21HTVV + U (1) 
Trong mô hình, các biến giả V, và CS 
được chọn làm cơ sở so sánh để loại bỏ hiện 
tượng đa cộng tuyến hoàn hảo giữa các biến 
vùng và cơ sở y tế. 
U: Sai số các tham số ước lượng mô hình, 
được ước lượng bằng phương pháp dữ liệu 
bảng theo dạng Tobit. Những tham số trong 
mô hình được ước lượng bằng phương pháp 
Random-effects tobit models. 
Giải thích các biến độc lập và mối quan 
hệ với chi tiêu y tế 
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc 
cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có những đặc 
điểm tập quán khác nhau. Điều này dẫn đến có 
sự khác biệt trong những quan điểm và thói 
quen về các vấn đề trong cuộc sống giữa các 
dân tộc và điều này có thể ảnh hưởng đến 
quyết định đầu tư chăm sóc trẻ em. Nghiên 
cứu của Nguyên và cộng sự (2009) cho thấy có 
sự khác biệt trong các quyết định chi tiêu cho 
y tế giữa các nhóm dân tộc Kinh và Hoa với 
các nhóm dân tộc ít người. Trong số các dân 
tộc thì dân tộc Kinh và Hoa chiếm tỷ trọng cao 
nhất cả nước. Đồng thời nhóm dân tộc này có 
trình độ dân trí cao, mức quan tâm đầu tư 
chăm sóc cho sức khỏe nhiều hơn. Do vậy, chi 
tiêu y tế cho trẻ em ở các nhóm dân tộc được 
kỳ vọng là có sự khác biệt nhau. 
Điều kiện chăm sóc sức khỏe là điều kiện 
để tiếp cận các cơ sở y tế và tác động của bảo 
hiểm y tế lên an ninh tài chính của hộ gia đình. 
Trong đó, bảo hiểm y tế là một hình thức giúp 
cho những cá nhân không ưa thích rủi ro sẽ 
mua bảo hiểm sức khỏe và coi đó là một biện 
pháp để chuyển giao hoặc giảm số rủi ro gắn 
liền với tính biến động của các chi phí chăm 
sóc sức khỏe. Theo Tổ chức Y tế Thế giới 
(WHO), bảo hiểm y tế được coi là công cụ 
quan trọng để đạt được mục tiêu chi trả y tế 
toàn dân. Bảo hiểm có vai trò đặc biệt quan 
trọng tập trung nguồn tài chính và đảm bảo 
chia sẻ các rủi ro sức khỏe giữa các thành viên 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 2 (47) 2016 23 
tham gia chương trình bảo hiểm. Tại Việt 
Nam, bảo hiểm y tế được xem là quyền được 
chăm sóc sức khỏe của tất cả mọi người. Đây 
cũng được xem là một công cụ tạo nên sự bình 
đẳng trong chăm sóc sức khỏe toàn dân. Bên 
cạnh đó độ bao phủ bảo hiểm y tế là một chỉ số 
quan trọng trong việc đánh giá mức độ bao 
phủ về dân số và mức độ bao phủ tài chính của 
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Theo nghiên 
cứu của Parmar và cộng sự (2012) về mối 
quan hệ giữa bảo hiểm y tế cộng đồng và bảo 
vệ tài sản hộ gia đình tại vùng nông thôn Châu 
Phi đã khẳng định rằng bảo hiểm y tế không 
những có thể bảo vệ tài sản của hộ gia đình mà 
còn có thể gia tăng tài sản của họ khi có bảo 
hiểm y tế. Như vậy, bảo hiểm có tác động tích 
cực lên chi tiêu y tế của người dân, và bảo 
hiểm sẽ làm giảm chi tiêu y tế. Như vậy kỳ 
vọng hộ gia đình có bảo hiểm và sử dụng bảo 
hiểm sẽ làm giảm chi tiêu y tế trẻ em. 
Bên cạnh đó, điều kiện chăm sóc sức khỏe 
còn phụ thuộc khá nhiều loại hình cơ sở y tế 
hiện có. Tại Việt Nam, loại hình y tế trong 
nghiên cứu này được phân chia và định nghĩa 
thành 4 cấp tương ứng 4 biến giả. Biến giả 
nhận giá trị là 1 nếu như cơ sở y tế đó có đặc 
tính của loại hình cơ sở y tế theo định nghĩa và 
nhận giá trị bằng 0 nếu không có đặc tính được 
mô tả. 
- Bệnh viện cấp 1 được chọn là biến tham 
chiếu (gồm y tế thôn bản; trạm y tế xã/ phường); 
- Bệnh viện cấp 2 (gồm phòng khám đa 
khoa khu vực; bệnh viện huyện/quận); 
- Bệnh viện cấp 3 (gồm bệnh viện tỉnh/tp; 
bệnh viện Trung ương, bệnh viện nhà nước khác); 
- Bệnh viện cấp 4 (gồm: bệnh viện tư 
nhân; bệnh viện khác; phòng khám tư nhân; 
lang y; dịch vụ y tế cá thể; và cơ sở y tế khác). 
Bảng 1. Mô tả các biến số trong mô hình 
Mã biến Biến số Đơn vị tính Kỳ vọng 
Biến phụ thuộc 
Y Chi tiêu y tế hộ cho trẻ em Nghìn đồng/ năm 
Biến độc lập 
 Đặc điểm kinh tế 
TN Thu nhập trong năm của hộ Nghìn đồng/ năm + 
 Đặc điểm nhân khẩu 
GT Giới tính của chủ hộ Nam = 1; Nữ = 0 +/- 
TUOI Tuổi Tuổi của chủ hộ +/- 
HV Học vấn cao nhất trong hộ gia đình Số năm đi học +/- 
TE Số trẻ em trong hộ Trẻ em + 
TV Số thành viên trong hộ Người +/- 
TT Trẻ em sống khu vực thành thị Thành thị =1; nông thôn = 0 + 
V1 Trẻ em vùng Đồng bằng Sông Hồng Ở V1 = 1; khác = 0 + 
V2 Trẻ em vùng Trung du và Vùng núi Phía Bắc Ở V2 = 1; khác = 0 + 
V3 
Trẻ em vùng Đồng bằng Bắc Trung Bộ và 
duyên hải Miền Trung 
Ở V3 = 1; khác = 0 + 
V4 Trẻ em vùng Tây Nguyên Ở V4 = 1; khác = 0 + 
V5 Trẻ em vùng Đông Nam bộ Ở V5 = 1; khác = 0 + 
V6 Trẻ em vùng Đồng bằng Sông Cửu Long Ở V6 = 1; khác = 0 + 
DT Dân tộc Kinh hoặc Hoa 
Dân tộc Kinh hoặc Hoa = 
1; khác = 0 
+ 
24 KINH TẾ 
Mã biến Biến số Đơn vị tính Kỳ vọng 
 Điều kiện chăm sóc sức khỏe 
BHYT Hộ có trẻ em có BHYT Có BHYT = 1 không = 0 - 
SDBHYT Hộ có sử dụng BHYT Có sử dụng = 1; không = 0 - 
CS1 Tham gia khám chữa bệnh tại bệnh viện cấp 1 
KCB tại bệnh viện cấp 1 
= 1; khác = 0 
+ 
CS2 Tham gia khám chữa bệnh tại bệnh viện cấp 2 
KCB tại bệnh viện cấp 2 
= 1; khác = 0 
+ 
CS3 Tham gia khám chữa bệnh tại bệnh viện cấp 3 
KCB tại bệnh viện cấp 3 
= 1; khác = 0 
+ 
CS4 Tham gia khám chữa bệnh tại bệnh viện cấp 4 
KCB tại bệnh viện cấp 4 
= 1; khác = 0 
+ 
 Hỗ trợ từ bên ngoài 
TCBH Trợ cấp BHYT Có hỗ trợ = 1; khác = 0 - 
TCYT Trợ cấp chi phí y tế 
Nhận được hỗ trợ chi phí 
y tế = 1; không = 0 
- 
HTVV Hỗ trợ vay vốn 
Nhận được hỗ trợ vay vốn 
= 1 không = 0 
+ 
Đặc điểm kinh tế được thể hiện bằng thu 
nhập của hộ, là toàn bộ số tiền và giá trị hiện 
vật quy thành tiền sau khi đã trừ chi phí sản 
xuất mà hộ và các thành viên của hộ nhận 
được trong một thời gian nhất định. Theo bộ 
dữ liệu VHLSS 2010 và 2012 xác định thu 
nhập trong một năm bao gồm: thu nhập từ tiền 
công, tiền lương; từ sản xuất nông, lâm 
nghiệp, thủy sản; từ sản xuất ngành nghề phi 
nông, lâm nghiệp, thủy sản; thu khác được tính 
vào thu nhập như quà biếu, chúc mừng, lãi tiết 
kiệm; Các khoản thu không tính vào thu nhập 
gồm rút tiền tiết kiệm, thu nợ, bán tài sản, vay 
nợ, tạm ứng và các khoản chuyển nhượng vốn 
nhận được do liên doanh, liên kết trong sản 
xuất kinh doanh. Kỳ vọng những hộ có thu 
nhập cao sẽ gia tăng chi tiêu y tế. 
Các hỗ trợ tài chính bên ngoài có tác động 
rất lớn đến giảm chi tiêu y tế của hộ gia đình 
và giúp nâng cao được việc chăm sóc sức khỏe 
của những người dân (Abu-Zaineh, 2014). Bên 
cạnh đó, theo nghiên cứu của Doan và cộng sự 
(2014) về tác động tín dụng vi mô đến chăm 
sóc sức khỏe của người dân cho thấy việc cho 
các hộ gia đình vay sẽ có tác động làm gia 
tăng mức chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe của 
những người trong hộ. Ngoài ra, sự hỗ trợ của 
láng giềng, người thân và các tổ chức cơ quan 
đoàn thể cũng làm gia tăng chi tiêu chăm sóc 
cho sức khỏe. 
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
Trên cơ sở khung phân tích trình bày 
trong hình 1, và phương trình hồi quy (1), sau 
khi kiểm tra ma trận tương quan giữa các biến 
độc lập chính trong mô hình không cho thấy 
ngoại trừ cặp biến số thế hệ cùng chung sống 
và quy mô hộ có mối tương quan tương đối 
với nhau, các cặp biến còn lại cho thấy có sự 
tương quan yếu. Kết quả, các hệ số VIF trung 
bình của các biến độc lập trong mô hình và giá 
trị VIF ở riêng rẻ tất các biến đều nhỏ hơn 10. 
Do vậy, có thể kết luận là hiện tượng đa cộng 
tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình là 
không đáng kể. Ngoài ra, giá trị kiểm định mô 
hình (Prob >chi2) = 0,00 cho thấy mô hình 
nghiên cứu được sử dụng có mức ý nghĩa rất 
cao (1,0%). 
Kết quả hồi quy Tobit panel cho thấy thu 
nhập của hộ gia đình (TN) là nhân tố có ảnh 
hưởng rõ rệt nhất đến chi tiêu cho y tế trẻ em. 
Thu nhập của hộ tăng lên hoặc giảm xuống 
đều ảnh hưởng đến mức chi tiêu y tế bình quân 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 2 (47) 2016 25 
cho từng trong hộ gia đình. Qua đó cũng cho 
thấy nhiều khả năng chi tiêu cho y tế trẻ em ở 
những hộ gia đình có thu nhập thấp thì chi tiêu 
y tế cho trẻ em cũng thấp. Kết quả này phù 
hợp với các nghiên cứu trước về chi tiêu y tế 
Việt Nam của Van Minh và cộng sự (2013). 
Có sự khác biệt trong mức chi tiêu cho y 
tế cho trẻ em theo khu vực hoặc địa bàn hộ 
sinh sống. Các hộ có trẻ em sống ở khu vực 
thành thị (TT) có mức chi tiêu cho y tế nhiều 
hơn các hộ sống ở khu vực nông thôn. Tuổi 
(TUOI) và giới tính của chủ hộ gia đình có tác 
động ngược chiều với mức chi tiêu y tế cho 
bản thân. Tuổi chủ hộ càng cao thì chi phí y tế 
dành cho trẻ em càng thấp, giới tính chủ hộ 
(GT) là nữ thì quan tâm đến chi tiêu y tế trẻ 
em hơn nam giới. Bên cạnh đó, hai nhóm dân 
tộc Kinh hoặc Hoa (DT) thì có mức chi tiêu 
cho y tế cao hơn so với nhóm dân tộc còn lại. 
Tổng số thành viên trong hộ (TV), cùng với số 
trẻ em (TE) trong hộ đều tác động lên chi tiêu 
y tế trẻ em nhưng tác động ngược chiều nhau. 
Số thành viên trong hộ càng cao thì mức chi 
tiêu bình quân cho y tế trẻ em trong gia đình sẽ 
giảm xuống. Tuy nhiên, nếu trong hộ có trẻ em 
càng nhiều thì sẽ làm gia tăng chi tiêu y tế trẻ 
em. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên 
cứu trước của Nguyen và cộng sự (2009). 
Bảng 2. Mô hình Tobit panel cho bộ dữ liệu VHLSS 2010, 2012 
Biến số Hệ số ước lượng Sai số chuẩn Giá trị-z P>z 95% Conf. Interval 
TV -154.079 37.817 -4.070 0.000 -228.198 -79.960 
TN 0.073 0.025 2.850 0.004 0.023 0.123 
TE 371.518 46.113 8.060 0.000 281.138 461.898 
BHYT 1218.638 136.834 8.910 0.000 950.448 1486.829 
SDBHYT 846.932 78.231 10.830 0.000 693.602 1000.263 
CS2 -102.534 104.865 -0.980 0.328 -308.066 102.998 
CS3 1.436 108.267 0.010 0.989 -210.763 213.636 
CS4 157.769 95.396 1.650 0.098 -29.203 344.740 
HV 16.563 10.072 1.640 0.100 -3.178 36.303 
GT -195.188 89.449 -2.180 0.029 -370.505 -19.871 
DT 1228.715 127.270 9.650 0.000 979.270 1478.160 
TC -615.631 152.727 -4.030 0.000 -914.970 -316.292 
TCBH -466.604 139.616 -3.340 0.001 -740.246 -192.963 
TUOI -7.101 2.997 -2.370 0.018 -12.975 -1.227 
V2 -314.564 132.313 -2.380 0.017 -573.892 -55.235 
V3 -86.986 116.043 -0.750 0.453 -314.427 140.455 
V4 -22.583 152.542 -0.150 0.882 -321.559 276.394 
V5 97.445 129.748 0.750 0.453 -156.857 351.748 
V6 131.963 117.153 1.130 0.260 -97.652 361.577 
TT 216.783 87.034 2.490 0.013 46.199 387.367 
Hằng số -2940.412 279.990 -10.500 0.000 -3489.183 -2391.641 
Nguồn: Kết quả hồi quy theo phương trình (1), bộ dữ liệu VHLSS 2010 & 2012 (n= 2.466). 
26 KINH TẾ 
Chi tiêu cho y tế của trẻ cũng phụ thuộc 
vào loại hình hoặc cấp cơ sở y tế (BV) mà trẻ 
em tham gia khám chữa bệnh và điều trị. Ở các 
cấp bệnh viện tuyến trên (so với trạm y tế 
thôn, xã) như bệnh viện huyện, thị xã, 
tỉnh/thành phố, các bệnh viện Trung ương và 
các phòng khám, bệnh viện tư đều có mức chi 
phí cho y tế cho trẻ em cao hơn. ên cạnh tính 
chất, nghiệp vụ khám chữa của các cấp bệnh 
viện này là cao hơn dẫn đến chi phí khám chữa 
bệnh cao hơn, trong đó có một phần chi phí 
không nhỏ từ việc đi lại, ăn ở và chăm sóc của 
các người thân trong gia đình. 
Bảo hiểm y tế trẻ em (BHYT) và sử dụng 
bảo hiểm y tế (SD HYT) cũng là một nhân tố 
có tác động tích cực đến việc hộ gia đình 
quan tâm đầu tư cho sức khỏe, nhờ có bảo 
hiểm y tế đã giúp người dân thường xuyên 
khám chữa bệnh hơn ở các cơ sở y tế, và 
người dân sẳn lòng bỏ ra một khoản tiền đối 
ứng cùng với bảo hiểm để chăm sóc sức khỏe 
trẻ em. Nhóm hộ gia đình không có tham gia 
BHYT trẻ em có mức chi tiêu y tế bình quân 
thấp hơn so với nhóm có BHYT. Kết quả này 
khác với các nghiên cứu trước về ảnh hưởng 
bảo hiểm đến giảm chi tiêu y tế. Tuy nhiên, 
kết quả trong nghiên cứu này là bảo hiểm làm 
tăng chi tiêu y tế nhưng theo hướng tích cực. 
Nghĩa là khi có bảo hiểm y tế, các hộ gia đình 
quan tâm hơn đến việc khám chữa bệnh cho 
trẻ em thông qua số lần khám của những hộ 
có bảo hiểm nhiều hơn những hộ không có 
bảo hiểm. 
Hỗ trợ y tế được thể hiện ở 2 khía cạnh sự 
giúp đỡ của người thân, láng giềng hoặc các tổ 
chức đoàn thể về chi phí khám chữa bệnh 
(TCYT) và trợ cấp bảo hiểm y tế (TCBH). 
Trong cả hai trường hợp, hộ gia đình nhận 
được một trong hai hình thức hỗ trợ này đều 
có mức chi tiêu y tế thấp hơn với nhóm hộ 
không nhận được sự hỗ trợ. Sự hỗ trợ cho y tế 
trong trường hợp này là nguồn tài chính bổ 
sung quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe 
trẻ em Việt Nam. Kết quả này hoàn toàn phù 
hợp với các nghiên cứu trước như trong nghiên 
cứu Công bằng trong chăm sóc sức khỏe tài 
chính ở Tunisia của Abu-Zaineh và cộng sự 
(2014), Doan và cộng sự (2014). 
5. Kết luận và kiến nghị 
Qua phân tích kết quả, nghiên cứu đã xác 
định các nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa thống 
kê đến chi tiêu của hộ gia đình cho chăm sóc 
sức khẻo trẻ em Việt Nam, giai đoạn 2010-
2012. Để cải thiện và chăm sóc sức khỏe trẻ 
em Việt Nam thông qua quan tâm đến chi tiêu 
y tế trẻ em của xã hội, thì chính sách cần xem 
xét cụ thể từng nhân tố tác động nhằm đưa ra 
những chính sách thiết thực và hiệu quả. 
Tác động chính dẫn đến hành vi chi tiêu 
nhiều hơn cho chi tiêu y tế trẻ em chính là 
nâng cao thu nhập của hộ gia đình. Do đó, nhà 
nước và cộng đồng xã hội cần quan tâm hơn 
nữa cho các chính sách phát triển kinh tế - xã 
hội, tạo việc làm cho người lao động giảm bớt 
số người phụ thuộc trong gia đình. Qua đó 
giúp hộ gia đình cải thiện thu nhập dẫn đến gia 
tăng khả năng chi tiêu y tế cho trẻ em của hộ 
gia đình. 
Đẩy mạnh tuyên truyền cho những hộ gia 
đình thuộc nhóm dân tộc ít người về các kiến 
thức kế hoạch hóa gia đình, giúp họ hiểu được 
có càng ít con thì chất lượng đời sống của trẻ 
càng được đảm bảo. Bên cạnh đó, chính phủ 
cần duy trì các chính sách riêng để nâng cao 
đời sống kinh tế hộ gia đình dân tộc thiểu số ở 
Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. 
Cần có chương trình dạy nghề, kỹ năng trồng 
trọt chăn nuôi phát huy được ưu điểm của điều 
kiện thiên nhiên tại khu vực hộ gia đình đang 
sinh sống. Đồng thời, cũng cần hướng dẫn họ 
cách chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày. Đời 
sống kinh tế khá giả hơn, chi tiêu căn bản 
được đáp ứng đầy đủ sẽ giúp những hộ gia 
đình này quan tâm đến chi tiêu y tế chăm sóc 
sức khỏe nhiều hơn. 
Duy trì chương trình mục tiêu quốc gia về 
giảm nghèo bền vững, chú ý đến các đối tượng 
chịu thiệt thòi như: hộ nghèo, hộ chính sách xã 
hội, hộ neo đơn, bệnh tật. Đối với khu vực 
vùng sâu, vùng xa, miền núi thì cần có chính 
sách ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút các thành 
phần kinh tế đầu tư, tạo việc làm và nâng cao 
thu nhập cho người dân tại chỗ. Cần đẩy mạnh 
hơn nữa trong việc phổ cập kiến thức về y tế 
chăm sóc sức khỏe cho người dân ở các khu 
vực này. Chính quyền địa phương và các tổ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 2 (47) 2016 27 
chức đoàn thể cần có các chương trình hỗ trợ 
tài chính trực tiếp như chi ngân sách hỗ trợ y 
tế cho các gia đình khó khăn, các khoản miễn 
giảm phí, hỗ trợ đi lại, ăn ở cho các gia đình 
nghèo, khu vực nông thôn. Xem xét mức trợ 
cấp xã hội cho những hộ nghèo có trẻ em về 
bảo hiểm y tế. 
Ngoài ra, cần có các hỗ trợ bảo hiểm y tế 
và trợ cấp chi phí khám chữa bệnh cho ngưởi 
nghèo cũng là một vấn đề đáng xem xét triển 
khai thực hiện và đặc biệt trẻ nghèo phải được 
chi trả các khoản khám chữa bệnh miển phí. 
Một mặt, nó tác động tích cực đến việc giảm 
chi phí tài chính sức khỏe. Mặt khác, giúp cho 
người nghèo giảm bớt gánh nặng và có tiền 
đầu tư cải thiện nghèo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Abu-Zaineh, M., Arfa, C., Ventelou, B., Ben Romdhane, H., & Moatti, J.-P. (2014). Fairness in 
healthcare finance and delivery: what about Tunisia? Health Policy and Planning, 29(4), 
433 - 42. 
Doan, T., Gibson, J., & Holmes, M. (2014). Impact of Household Credit on Education and 
Healthcare Spending by the Poor in Peri-urban Areas, Vietnam. Journal of Southeast Asian 
Economies, 31(1), 87 - 103. 
Greene, W. H. (1981). On the Asymptotic Bias of the Ordinary Least Squares Estimator of the 
Tobit Model. Econometrica, 49(2), 505 - 513. 
Hauck, K. and Rice, N. (2003). Using Longitudinal data to investigate socioeconomic inequality 
in health. In et al Peter C. Smith (Ed.), Health policy and economics: opportunities and 
challenges. New York: Open University Press. 
Mas-Colell, A., M. D. Whinston, J. R. G. (1995). Microeconomic Theory. Oxford University Press. 
Nguyen, Unto Häkkinen, Markku Pekurinen, Gunnar Rosenqvist, H. M. (2009). Determinants of 
health care expenditure in a decentralized health care system. Helsinki. 
PAHE. (2011). Công bằng sức khỏe ở Việt Nam: góc nhìn xã hội dân sự. Hà Nội, Việt Nam: Nhà 
xuất bản Lao động. 
Parmar, D., Souares, A., de Allegri, M., Savadogo, G., & Sauerborn, R. (2012). Adverse 
selection in a community-based health insurance scheme in rural Africa: Implications for 
introducing targeted subsidies. BMC Health Services Research, 12(1), 181. 
Pauly, M. V. (1986). Taxation, Health Insurance, and Market Failure in the Medical Economy. 
Journal of Economic Literature, 24(2), 629 - 675. 
UNDP. (2011). Social Services for Human Development. Viet Nam Human Development Report 
2011. Hanoi, Vietnam. 
Van Minh, H., Kim Phuong, N. T., Saksena, P., James, C. D., & Xu, K. (2013). Financial burden 
of household out-of pocket health expenditure in Viet Nam: Findings from the National 
Living Standard Survey 2002-2010. Social Science and Medicine, 96, 258 - 263. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_yeu_to_tac_dong_den_chi_tieu_cho_y_te_cua_tre_em_ung_dun.pdf