Bấm sinh thiết ngẫu nhiên
Trong thực tế lâm sàng khi thực hiện soi CTC cho
bệnh nhân có xét nghiệm tế bào học bất thường hoặc
dương tính với các type HPV nguy cơ cao, nhiều trường
hợp các bác sĩ sẽ không quan sát thấy hình ảnh bất
thường nghi ngờ ở CTC. Trong những tình huống này
xử trí như thế nào là phù hợp? Theo dõi tiếp, thực hiện
lặp lại các xét nghiệm? Soi CTC kiểm tra lại? bấm sinh
thiết ngẫu nhiên? Hay cần lấy mẫu từ ống cổ tử cung ?
Một nghiên cứu về trường hợp này vừa được đăng
trên Obstetrics & Gynecology, phân tích dữ liệu trong
nghiên cứu ATHENA, một nghiên cứu đa trung tâm
rất lớn ở Hoa Kỳ với hơn 47.000 bệnh nhân [20].
Nghiên cứu này tập trung phân tích nhóm phụ nữ từ
25 tuổi trở lên. Tất cả bệnh nhân đều được làm xét
nghiệm tế bào học và HPV DNA định type nguy cơ
cao. Soi CTC được thực hiện cho tất cả bệnh nhân có
xét nghiệm tế bào học bất thường hoặc dương tính với
các type HPV nguy cơ cao. Đối với các trường hợp soi
CTC đầy đủ nhưng không quan sát thấy tổn thương
sẽ được bấm sinh thiết ngẫu nhiên một mẫu ở vùng
tiếp giáp biểu mô lát - trụ. Trong 7.100 trường hợp
được thực hiện bấm sinh thiết, có 2.839 trường hợp
được bấm sinh thiết ngẫu nhiên và có 2.796 kết quả
đủ điều kiện đánh giá. Kết quả giải phẫu bệnh lý cho
thấy 90% (2.552) trường hợp là bình thường, 5,7%
(163) trường hợp bị CIN 1, có 1,3% (36) trường hợp
CIN 2, có 1,4% (41) trường hợp bị CIN 3 và 0,14%
(4) trường hợp nặng hơn CIN 3. Như vậy, tổng cộng
bấm sinh thiết ngẫu nhiên giúp chẩn đoán 20,9%
(81/388, 95% CI 16,9– 25,3%) trường hợp CIN 2+
và 18,9% (45/238, 95% CI 14,1– 24,5%) trường hợp
CIN 3+ trong toàn bộ dân số nghiên cứu từ 25 tuổi trở
lên. Khi phân tích mối liên quan với tình trạng nhiễm
HPV, kết quả cho thấy đối với các trường hợp nhiễm
HPV 16 hay HPV 18 thì nguy cơ tuyệt đối cho việc
phát hiện CIN 2+ và CIN 3+ khi bấm sinh thiết ngẫu
nhiên trong dân số chung là 13,1% (40/305, 95% CI
9,8– 17,4%) và 8,2% (25/305, 95% CI 5,6 – 11,8%).
Trong khi đó, nguy cơ tuyệt đối ở nhóm 12 type HPV
nguy cơ cao khác lần lượt là 3,5% (29/820, 95% CI
2,5–5%) và 1,7% (14/820, 95% CI 1,0– 2,8%) thấp
hơn rất nhiều so với 2 type HPV 16 và HPV 18.
Như vậy, việc bấm sinh thiết ngẫu nhiên có hiệu
quả không? Câu trả lời của nghiên cứu này là có, với
khoảng 20% tổn thương CIN 2, CIN 3 hay nặng hơn
được phát hiện. Và đặc biệt có hiệu quả cao nhất ở
nhóm nhiễm HPV 16 hay HPV 18.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện hiệu quả chẩn đoán Cin 2 + bằng kỹ thuật soi cổ tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 77 - 84, 2016
77
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
Bùi Quang Trung
Trường Đại học Y Dược Huế
CẢI THIỆN HIỆU QUẢ CHẨN ĐOÁN CIN 2 +
BẰNG KỸ THUẬT SOI CỔ TỬ CUNG
Tác giả liên hệ (Corresponding author):
Bùi Quang Trung,
email: dr.trungbui@gmail.com
Ngày nhận bài (received): 10/06/2016
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised):
24/06/2016
Ngày bài báo được chấp nhận đăng
(accepted): 30/06/2016
Tóm tắt
Ung thư cổ tử cung là nguyên nhân gây ra hàng trăm ngàn lượt tử
vong mỗi năm trên toàn cầu và đa số xảy ra ở các nước kém phát triển
trong đó có nước ta. Dự phòng thứ cấp là một bước quan trọng trong dự
phòng ung thư cổ tử cung, bao gồm phát hiện các tổn thương tiền ung
thư và điều trị chúng. Cùng với xét nghiệm tế bào học và xét nghiệm
HPV, soi cổ tử cung cũng là một công cụ quan trọng trong bước dự
phòng thứ cấp ung thư cổ tử cung. Các công cụ này, trong đó có các
thiết bị soi cổ tử cung hiện tại chúng ta đều được trang bị tiệm cận với
thế giới. Vậy tại sao kết quả phòng chống ung thư cổ tử cung của chúng
ta vẫn chưa đạt được hiệu quả cao? Với mong muốn nâng cao hơn nữa
hiệu quả của kỹ thuật soi cổ tử cung trong phát hiện và điều trị sớm các
tổn thương tiền ung thư, bài viết này tập trung đề cập đến những thay
đổi, những cập nhật cải tiến trong kỹ thuật soi cổ tử cung hiện chưa
được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng ở nước ta.
Abstract
HOW TO IMPROVE THE EFFECTIVENESS OF HIGH-
GRADE CERVICAL INTRAEPITHELIAL NEOPLASIA
DIAGNOSING BY COLPOSCOPY
Cervical cancer is a leading cause of cancer-related death in women
worldwide, almost occurs in underdeveloped countries, including
Vietnam. Secondary prevention of cervical cancer is by screening
for precancerous lesions and early diagnosis followed by adequate
treatment. The main techniques used are cytological screening of
cervical cells, human papillomavirus (HPV) test detects the presence
of human papillomavirus and colposcopy is a procedure to find out
whether there are abnormal cells.
We are equipped enough all of these techniques. Why does the
cervical cancer prevention program of Vietnam still inefficiency? This
article aims to introduce clinical values of three new colposcopic signs
BÙI QUANG TRUNG
78
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
for detection of high-grade CIN; Swede score – A model for scoring colposcopy findings was designed
to improve the predictive value ofcolposcopy; and provide good-quality data to guide us regarding
the number of biopsies we should perform to best detect high-grade cervical.
1. Đại cương
Các bệnh ung thư phụ nữ, trong đó có ung
thư cổ tử cung (CTC) là nguyên nhân gây ra hàng
trăm ngàn lượt tử vong mỗi năm trên toàn cầu.
Những tiến bộ hiện nay đã giúp chúng ta biết được
nguyên nhân gây ra ung thư CTC là do nhiễm một
hay nhiều type HPV (human papillomavirus) nguy
cơ cao; chúng ta cũng biết được chu trình phát
triển và gây bệnh rất chậm của HPV; những loại
vaccine phòng ngừa HPV đã ra đời và được phát
triển mạnh mẽ; những công cụ xét nghiệm tế bào
học hay giúp phát hiện HPV cũng không ngừng
được cải tiến, những khuyến cáo, những phác đồ
mới được cập nhật hàng năm Tuy nhiên, ung thư
CTC vẫn còn là gánh nặng trong công tác chăm
sóc sức khỏe phụ nữ trên toàn thế giới [1]
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới,
năm 2012 trên toàn cầu có 528.000 ca ung thư CTC
mới được phát hiện và đa số (khoảng 85%) xảy ra ở
các nước kém phát triển [1]. Cũng trong năm này,
có tổng số 266.000 trường hợp tử vong, trong đó có
9 trên 10 trường hợp xảy ra ở các nước có mức thu
nhập thấp và trung bình. Trong khi đó, chỉ 1 trong 10
trường hợp xảy ra ở các nước có mức thu nhập cao [1]
Hiện nay, các số liệu thống kê ở nước ta vẫn còn
chưa được đầy đủ. Năm 2010, nước ta có 5.664
phụ nữ mắc ung thư CTC và tỉ lệ mắc mới ung thư
CTC là 13,6/100.000 phụ nữ [2]. Trên bản đồ ung
thư CTC thế giới, tỉ lệ mắc bệnh và tử vong ở nước
ta vẫn nằm trong mức cao[1]. Hơn nữa, ung thư
CTC thường chỉ được phát hiện khi đang tiến triển ở
giai đoạn muộn và khi đó các biện pháp can thiệp
điều trị thường không hiệu quả và tỉ lệ tử vong cao
là điều tất yếu xảy ra [1,2].
Dự phòng thứ cấp là một bước quan trọng trong
dự phòng ung thư CTC, bao gồm phát hiện các
tổn thương tiền ung thư và điều trị chúng. Cùng
với xét nghiệm tế bào học và xét nghiệm HPV, soi
CTC cũng là một công cụ quan trọng trong bước dự
phòng thứ cấp ung thư CTC [2].
Các công cụ này, trong đó có các thiết bị soi CTC
hiện tại chúng ta đều được trang bị tiệm cận với thế
giới. Vậy tại sao kết quả phòng chống ung thư CTC
của chúng ta vẫn chưa đạt được hiệu quả cao?
Với mong muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả
của kỹ thuật soi CTC trong phát hiện và điều trị
sớm các tổn thương tiền ung thư, bài viết này tập
trung đề cập đến những thay đổi, những cập nhật
cải tiến trong kỹ thuật soi CTC hiện chưa được áp
dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng ở nước ta.
2. Những hình ảnh mới giúp
dự đoán tổn thương CTC
mức độ cao
Thực hành lâm sàng soi CTC ở nước ta thường
dựa vào các hình ảnh vết trắng, chấm đáy hay lát
đá để đánh giá mức độ của tổn thương ở CTC và
cho thấy có nhiều giá trị [3,4]. Tuy nhiên, theo thời
gian y văn thế giới còn giới thiệu thêm những hình
ảnh mới nhiều ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ
tổn thương CTC.
Dấu hiệu “inner border”
Dấu hiệu “inner border” là một đường ranh
giới rõ rệt phân chia giữa vùng trắng dày và mỏng
trong cùng một tổn thương (hình 1). Dấu hiệu này
được bác sĩ phụ khoa người Đức Scheungraber và
cộng sự nghiên cứu và đưa ra. Trong nghiên cứu
hồi cứu được đăng trên Journal of Lower Genital
Tract Disease, trong số 947 phụ nữ được có các bất
thường được tìm thấy ở CTC thì tỉ lệ xuất hiện của
dấu hiệu “inner border” ở những phụ nữ có vùng
chuyển tiếp không điển hình là 7,6% (53/695).
Dấu hiệu “ridge”
Một dấu hiệu khác cũng được Scheungraber cùng
cộng sự nghiên cứu và đưa ra là dấu hiệu “ridge”
– là một chỗ mờ đục nhô lên tại vùng vết trắng bên
trong vùng chuyển tiếp (hình 2). Trong kết quả của
nghiên cứu được thiết kế tương tự nghiên cứu về dấu
hiệu “inner border”, các tác giả cho thấy có 83/592
bệnh nhân (14%) có dấu hiệu “ridge”. Xem xét kết
quả giải phẫu bệnh lý có 53/83 trường hợp bị CIN
2/3, chiếm 63,8%. Độ nhạy và độ đặc hiệu trong
việc phát hiện CIN 2/3 là 33,1% và 93,1%. Đặc biệt
nghiên cứu còn cho thấy dấu hiệu “ridge” xuất hiện ở
phụ nữ trẻ nhiều hơn ở phụ nữ lớn tuổi (p< 0,001) và
liên quan với việc nhiễm HPV 16 (p < 0,001) [8]. Như
vậy, dấu hiệu “ridge” là một chỉ điểm đặc biệt cho
CIN 2/3 ở phụ nữ trẻ và liên quan với nhiễm HPV 16.
Trong nghiên cứu của Vercellino và cộng sự năm
2013, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương
và âm của dấu hiệu “ridge” trong việc phát hiện CIN
2/3 lần lượt là 52,5%, 96,4%, 96,8% và 46,6%. LR+
13,2, tương ứng khả năng cao bị CIN 2/3 khi có
dấu hiệu “ridge”. Trong khi đó LR- là 0,49, có nghĩa
là khả năng CTC bị CIN 2/3 chỉ giảm ở mức nhẹ khi
không có dấu hiệu “ridge”. Và đây cũng là dấu hiệu
duy nhất trong nghiên cứu cho thấy có liên quan đến
độ tuổi dưới 35 (p < 0,05) [6]
Trong nghiên cứu tương tự được công bố năm
2015, Vercellino và cộng sự cũng cho thấy kết quả
tương đương. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên
đoán dương và giá trị tiên đoán âm của dấu hiệu
“ridge” trong việc phát hiện CIN 2/3 lần lượt là
53,1%, 93,5%, 94,7% và 47,6%. LR- là 0,5, trong
khi đó LR+ là 8,2, nghĩa là khả năng bị CIN 2/3 khi
CTC có dấu hiệu “ridge” chỉ ở mức trung bình [7]
Dấu hiệu “rag”
Bên cạnh việc nghiên cứu về giá trị của hai dấu
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 77 - 84, 2016
79
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
70% trong số này có kết quả mô học của tổn
thương ở CTC là CIN 2 hay CIN 3. Độ nhạy của
dấu hiệu “inner border” trong việc phát hiện CIN 2
hay CIN 3 là 20% và độ đặc hiệu lên đến 97%. Với
một bệnh nhân có dấu hiệu “inner border” thì khả
năng CTC có tổn thương mức độ CIN 2 hay CIN 3
là OR = 7,7 (95% CI 4,2 – 14,3). Kết quả nghiên
cứu cũng cho thấy sự xuất hiện của dấu hiệu này
không liên quan với bất cứ type HPV nguy cơ cao
nào. Tuy nhiên, CIN 2 hay CIN 3 mà CTC có dấu
hiệu “inner border” thường xuất hiện ở bệnh nhân
dưới 35 tuổi [5]. Như vậy, dấu hiệu “inner border”
tuy hiếm gặp nhưng lại rất đặc hiệu cho CIN 2 hay
CIN 3 ở phụ nữ trẻ.
Trong một nghiên cứu của Vercellino và cộng sự
đến từ Đức, đăng trên Obstetrics & Gynecology số
tháng 03/2013 phân tích kết quả soi CTC và kết
quả giải phẫu bệnh lý của 335 bệnh nhân cho thấy
độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và
giá trị tiên đoán âm của dấu hiệu “inner border”
trong việc phát hiện CIN 2/3 lần lượt là 20%, 99%,
97,9% và 34,8%. Các tác giả còn phân tích về tỉ
số khả dĩ dương (LR+) và tỉ số khả dĩ âm (LR-). LR+
cao (lớn hơn 10), là 20,3 – tức là khả năng cao bị
CIN 2/3 khi CTC có dấu hiệu “inner border”. Tuy
nhiên, khi không có dấu hiệu này thì khả năng CTC
bị CIN 2/3 chỉ giảm ở một mức độ không đáng kể,
với LR- bằng 0,81 (lớn hơn 0,5) [6].
Cũng trong một nghiên cứu tương tự được công
bố sau đó với cỡ mẫu lớn hơn, Vercellino và cộng sự
cũng cho thấy kết quả tương đương. Lần này, với cỡ
mẫu 444 bệnh nhân, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị
tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của dấu hiệu
“inner border” trong việc phát hiện CIN 2/3 lần lượt
là 19,3%, 99,2%, 98,3% và 35,8%. LR- cũng là 0,81,
tuy nhiên LR+ thậm chí còn cao hơn là 26,7 [7]
Hình 1. Trong vùng trắng có 2 vùng trắng dày hơn vùng xung quanh, có ranh giới rõ rệt (dấu hiệu
“inner border”). Kết quả mô học vùng trắng dày là CIN 3. (Nguồn hình: Scheungraber C và cộng sự)
Hình 2. Vị trí các mũi tên là các vùng trắng đục, nhô cao hơn bề mặt xung quanh (dấu hiệu
“ridgeridge”). Kết quả mô học là CIN 3. (Nguồn hình: Scheungraber C và cộng sự)
BÙI QUANG TRUNG
80
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
hiệu trên, nhóm của Vercellino và cộng sự cũng
phát hiện và tập trung nghiên cứu về một dấu hiệu
khác được cho là cũng có liên quan đến CIN 2/3.
Đó là dấu hiệu “rag”, được mô tả là một mảnh biểu
mô trắng nhỏ bị bong ra do tác động cơ học lên
CTC (lúc lấy mẫu xét nghiệm tế bào học, HPV, hay
khi bôi dung dịch acid acetic, lugol) (hình 3) [6]
Trong kết quả nghiên cứu của mình, Vercellino
và cộng sự cho thấy giá trị cao của dấu hiệu “rag”
trong việc phát hiện CIN 2/3. Độ nhạy, độ đặc
hiệu, giá trị tiên đoán dương và âm lần lượt là
38,4%, 96%, 95,7% và 40,2%. LR+ là 9,7, trong
khi LR- là 0,6, có nghĩa là khi có dấu hiệu “rag” thì
khả năng bị CIN 2/3 chỉ ở mức trung bình, nhưng
khi không có dấu hiệu này thì khả năng bị CIN 2/3
chỉ giảm không đáng kể [6].Trong nghiên cứu với
cỡ mẫu lớn hơn sau đó, vai trò của dấu hiệu này
biểu hiện rõ ràng hơn với độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị tiên đoán dương và âm đều cao hơn (40,7%,
96,4%, 96,1% và 42,5%), LR- tương tự bằng 0,62.
Tuy nhiên, LR+ cao hơn là 11,3 – nghĩa là khi có
dấu hiệu này thì khả năng bị CIN 2/3 cao [7]
Giá trị kết hợp
Qua các kết quả ở trên có thể thấy dù khả năng
tiên đoán âm tính của cả ba dấu hiệu “inner border”,
“ridge” và “rag” đều không tốt với LR- thay đổi từ
0,49 – 0,81. Nhưng với LR+ cao, các dấu hiệu mới
này đều có giá trị cao trong việc tiên đoán tổn thương
CIN 2/3, mà “inner border” là dấu hiệu giá trị nhất
với LR+ từ 20,3 – 26,7. Và thực tế thì chúng ta tập
trung nhiều đến LR+ hơn LR-, vì LR+ có ý nghĩa quan
trọng hơn đến việc chẩn đoán bệnh [6,7]
Khi phân tích kết hợp các dấu hiệu này với nhau,
kết quả trong nghiên cứu năm 2013 của Vercellino
và cộng sự cho thấy với sự xuất hiện của ít nhất một
Hình 3. Mảnh biểu mô lát trắng đục (mũi tên đen) bong ra trong lúc soi CTC. Kết quả mô học là CIN
3. (Nguồn hình: Vercellino GF và cộng sự)
trong ba dấu hiệu kể trên thì độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm đối với
CIN 2/3 lần lượt là 77,8%, 93%, 96,2%, 63%. LR+ và
LR- tương ứng là 11,2 và 0,2, có nghĩa là khi xuất hiện
ít nhất một trong số các dấu hiệu trên thì khả năng
CTC bị tổn thương CIN 2/3 là cao, còn khi không có
sự hiện diện của bất cứ dấu hiệu nào thì khả năng
CTC bị tổn thương CIN 2/3 giảm ở mức trung bình[6]
Các tác giả còn cho thấy một bệnh nhân nếu có
hai trong ba dấu hiệu trên sẽ có khả năng cao hơn bị
CIN 2/3 với độ đặc hiệu lên tới 98% (94,59– 99,83).
LR+ cũng cao hơn (14,6), có nghĩa là khi xuất hiện hai
trong ba dấu hiệu trên thì khả năng CTC bị tổn thương
CIN 2/3 là cao hơn [6]
Trong nghiên cứu năm 2015, Vercellino và cộng
sự còn đánh giá giá trị của các dấu hiệu được coi là
những dấu hiệu “cổ điển” trong việc tiên đoán khả
năng bị CIN 2/3. Cụ thể, các hình ảnh lát đá thô
(12,4%), chấm đáy thô (3,6%), vết trắng bắt màu
nhanh (40,6%), vết trắng dày (83,9%), bờ tổn thương
sắc nét (65,2%), không bắt màu lugol (84,5%) và bạch
sản (1,3%) xuất hiện với các tỉ lệ khác nhau ở bệnh
nhân bị CIN 2/3. Tuy nhiên, trong các dấu hiệu này,
chỉ có hình ảnh vết trắng dày (LR+ 2,99 (2,3 – 3,9)) và
không bắt màu lugol (LR+ 2,81 (2,2 – 3,6)) là có giá
trị LR+ cao nhất. Nhưng giá trị LR+ dưới 5 cho thấy dù
có sự hiện diện của hai dấu hiệu này thì khả năng bị
CIN 2/3 là thấp và cũng khó phân biệt giữa CIN 2/3
với CIN 1 hay CTC bình thường [7]. Như vậy, có thể
thấy các dấu hiệu mới có giá trị hơn những dấu hiệu
“cổ điển” trong việc tiên đoán khả năng bị CIN 2/3.
3. Bảng điểm swede giúp
cải thiện khả năng dự đoán
cin 2+
Sự ra đời của Swede score
Với mong muốn thiết lập nên một hệ thống điểm
số soi CTC dễ học, dễ sử dụng và có khả năng cao
hơn trong việc giúp xác định hoặc giúp loại trừ tổn
thương CTC mức độ cao so với các hệ thống đã ra
đời trước đó, năm 2005, một nhóm các bác sỹ soi
CTC ở Gothenburg (Thuỵ Điển) đã giới thiệu một hệ
thống điểm số soi cổ tử cung mới, gọi là Swede score
[9]. Swede score dựa vào các đặc điểm của hệ thống
Reid colposcopic index (RCI) được sử dụng rất rộng
rãi thời gian đó [10]. Tuy nhiên, thay vì chỉ dựa vào 4
nhóm đặc điểm: màu sắc (sau khi bôi acid acetic), bờ
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 77 - 84, 2016
81
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
và hình dạng tổn thương, hình ảnh mạch máu, hình
ảnh sau khi bôi lugol như RCI để đánh giá, thì Swede
score bổ sung thêm nhóm đặc điểm thứ năm là kích
thước của vùng tổn thương trên cổ tử cung. Đây cũng
là lần đầu tiên kích thước vùng tổn thương được đánh
giá như là một biến số độc lập [9]. Sở dĩ kích thước
vùng tổn thương được đánh giá quan trọng, ngang
bằng với các đặc điểm khác, bởi có những nghiên cứu
trước đó cho thấy kích thước có liên quan với mức độ
nghiêm trọng của tổn thương [11,12].
Đặc điểm và cách đánh giá Swede score
Các đặc điểm chi tiết và cách cho điểm đánh giá
của Swede score được trình bày như trong Bảng 1 dưới
đây. Các nhóm đặc điểm được cho điểm số từ 0 đến 2.
Và như vậy, điểm số tổng cộng tối đa là 10 điểm [9].
Trong nghiên cứu kèm theo bài báo giới thiệu về
Swede score, các tác giả tiến hành một nghiên cứu
tiến cứu trên 297 phụ nữ tuổi trung bình 34, không
mang thai và có kết quả tế bào học CTC bất thường.
Tất cả đều được soi CTC, được đánh giá và cho điểm
số theo năm nhóm đặc điểm (như Bảng 1), và đều
được bấm sinh thiết hay khoét chóp CTC [9].
Kết quả, trong số 297 mẫu mô bệnh học có 30%
là lành tính, 25% cho thấy có dấu hiệu koilocytosis
(nhiễm HPV) hoặc CIN1, 13% CIN2, 28% CIN3, và
3% ung thư xâm lấn. Kết quả này sau đó được phân
tích so sánh với điểm số soi CTC của mỗi bệnh nhân.
Sử dụng mô hình phân tích logistic đa biến, các tác
giả cho thấy tất cả 5 nhóm đặc điểm đều có đóng
góp nhất định và độc lập với nhau trong việc xác
định mối liên quan với tổn thương CTC mức độ cao.
Mức độ liên quan được xếp theo thứ tự giảm dần
như sau: màu sắc sau khi bôi acid acetic, bờ và hình
dạng tổn thương, kích thước tổn thương, hình ảnh
sau khi bôi lugol và cuối cùng là hình ảnh mạch
máu. Như vậy, kích thước của tổn thương là một đặc
điểm mới được đưa vào hệ thống đánh giá nhưng
lại có vai trò quan trọng hơn hình ảnh sau khi bôi
lugol và hình ảnh mạch máu đã được sử dụng rộng
rãi trong các hệ thống đánh giá trước đó [9].
Ngoài ra, với mỗi điểm số khác nhau sẽ có một
khả năng khác nhau trong việc giúp xác định hay
loại trừ tổn thương CTC mức độ cao [9]. Trong nghiên
cứu này, không có tổn thương CIN 2, CIN 3 hay ung
thư (CIN 2+) được phát hiện ở phụ nữ có tổng điểm
nhỏ hơn 5 (51/297 số trường hợp). Ở nhóm 5 điểm
cũng chỉ có 2 trường hợp bị CIN 2 (chiếm 5.3% trong
số trường hợp 5 điểm). Như vậy, có khoảng 1/6
số trường hợp không cần phải sinh thiết khi tổng số
điểm nhỏ hơn 5 mà vẫn an toàn. Điểm số từ 8 trở lên
(87/297 số trường hợp) có độ đặc hiệu 90% cho CIN
2+ với độ nhạy 52%. Với độ đặc hiệu 90%, có thể xem
xét điều trị ngay mà không cần phải bấm sinh thiết, với
tỉ lệ điều trị quá mức ở một mức độ cho phép. Khoảng
50% (160/297) trường hợp còn lại với số điểm từ 5
đến 7, cần phải sinh thiết để chẩn đoán. Tuy nhiên, chỉ
khoảng 40% số trường hợp 5 đến 7 điểm bị CIN 2+.
Trong nghiên cứu, các tác giả cũng cho thấy nếu
không sử dụng Swede score, có 6/114 trường hợp
lành tính hay tổn thương mức độ thấp bị đánh giá
quá mức. Trong khi đó, có đến 18/85 trường hợp
tổn thương mức độ cao được đánh giá không đúng
mức độ và sẽ dẫn tới thiếu sót trong việc bấm sinh
thiết chẩn đoán hay đưa ra quyết định điều trị. Như
vậy, có một sự sai khác nhất định khi có hay không sử
dụng Swede score, dù đó là những nhà soi CTC nhiều
kinh nghiệm [9].
Giá trị của Swede score trên thực tế
ứng dụng lâm sàng
Năm 2010, một nghiên cứu tiến cứu của Bowring
và cộng sự nhằm xác nhận giá trị của Swede score
để đưa vào công tác giảng dạy soi CTC. Nghiên cứu
đánh giá kết quả soi CTC của phụ nữ được thực hiện tại
Royal Free Hospital, London. Trong khoảng thời gian
4 tháng, 200 phụ nữ được quản lý ngoại trú hay điều
trị nội trú vì tân sinh trong biểu mô CTC (CIN) được
đưa vào nghiên cứu. Tham gia vào nghiên cứu này
có 3 bác sỹ soi CTC đang được đào tạo và 4 bác sỹ
soi CTC đã được đào tạo theo đầy đủ các tiêu chí của
Hiệp hội Soi CTC và Bệnh lý CTC Anh Quốc. Điểm số
dựa vào Swede score được đánh giá và ghi nhận lại
trong lúc soi CTC, sau đó sẽ được so sánh với kết quả
Các đặc điểm
Điểm số
0 1 2
Hình ảnh trắng sau
nhuộm acid acetic
Không có hoặc
trong suốt
Trắng mờ, trắng đục
như sữa
Trắng rõ, trắng như
tượng sáp
Bờ và hình dạng tổn
thương
Không có tổn
thương hay tổn
thương phân tán
Sắc nét nhưng không
đều, hình răng cưa,
hình bản đồ
Sắc nét và đều, phân lớp
khác nhau ở bề mặt
Hình ảnh mạch máu Mịn, đều Không có Thô hoặc không điển hình
Kích thước tổn thương < 5mm 5-15 mm hay trải dài qua 2 góc phần tư
>15mm hay trải dài qua
3-4 góc phần tư hoặc lấn
sâu vào kênh CTC
Sau nhuộm Lugol Nâu Vàng nhạt hoặc vàng không đều (loang lỗ) Vàng đều, rõ rệt
Bảng 1: Hệ thống Swede score
BÙI QUANG TRUNG
82
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
chẩn đoán mô học (được xem là tiêu chuẩn vàng) thu
được thông qua bấm sinh thiết hay khoét chop CTC.
Mỗi điểm số theo Swede score đều được đánh giá bởi
độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá
trị tiên đoán âm. Kết quả được công bố trên Journal of
Lower Genital Tract Disease cho thấy, với điểm số lớn
hơn hoặc bằng 8, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên
đoán dương và giá trị tiên đoán âm cho CIN2+ lần
lượt là 38%, 95%, 83% và 70%. Với độ đặc hiệu cao,
rõ ràng việc áp dụng Swede score rất thích hợp cho
việc điều trị ngay mà không cần thông qua bước bấm
sinh thiết chẩn đoán. Ngoài ra, khi so sánh kết quả
đánh giá giữa hai nhóm thực hiện cho thấy không có
sự khác biệt về kết quả giữa nhóm đang được đào tạo
so với nhóm đã được đào tạo đầy đủ. Điều này cho
thấy Swede score có thể dễ dàng thực hiện và cũng
dễ dàng đưa vào trong công tác giảng dạy [13].Một
nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện
tại Bangladesh với sự tham gia của các nhà nghiên
cứu đến từ Thuỵ Điển và Bangladesh, nhằm đánh giá
các bất thường CTC dựa vào Swede score, xét nghiệm
tế bào học nhúng dịch (liquid-based cytology), xét
nghiệm HPV và chẩn đoán mô học [14]. Đối tượng
nghiên cứu gồm 540 phụ nữ có VIA (+), Kết quả được
công bố trên International Journal of Gynecological
Cancer cho thấy, bấm sinh thiết dựa vào Swede score
với điểm số lớn hơn hoặc bằng 4 giúp phát hiện 38
trường hợp CIN 2+ (7%) cao hơn có ý nghĩa so với xét
nghiệm tế bào học nhúng dịch khi chỉ giúp phát hiện
13 trường hợp CIN 2+ (2.5%). Ngoài ra, với điểm số
lớn hơn hoặc bằng 8, kết quả nghiên cứu này cũng
cho thấy có thể áp dụng điều trị ngay mà không cần
sinh thiết chẩn đoán. Đồng thời qua nghiên cứu này,
các tác giả còn khuyến cáo có thể áp dụng Swede
score kết hợp với VIA hay xét nghiệm tế bào học trong
tầm soát ung thư CTC. Đồng thời khuyến cáo ngưỡng
bấm sinh thiết dựa vào Swede score là 4 điểm nếu áp
dụng trong phác đồ kết hợp với VIA hoặc xét nghiệm
tế bào học [14].
Một kkết quả nghiên cứu khác còn cho thấy, áp
dụng Swede score còn là một công cụ hữu ích để
đánh giá xét nghiệm tế bào học bất thường ở phụ nữ
mang thai, đồng thời giúp giảm bớt số trường hợp
phải bấm sinh thiết hay can thiệp không cần thiết khi
tổng số điểm nhỏ hơn hoặc bằng 4 [15].. Đồng thời,
với những nơi điều kiện còn khó khăn, khi nguồn lực
y tế còn thiếu thốn, y tá có thể là người thực hiện soi
CTC thì việc áp dụng Swede score được chứng minh
có thể mang đến những kết quả khá khả quan [16].
4. Những hướng tiếp cận
mới trong thực hành bấm
sinh thiết ctc
Như đã đề cập ở phần mở đầu, ưu điểm của soi
CTC là giúp phát hiện các tổn thương đồng thời hướng
dẫn thực hiện các biện pháp can thiệp sớm. Trong đó,
bấm sinh thiết vùng tổn thương nghi ngờ ở CTC là một
bước quan trọng. Thời gian gần đây, các hướng dẫn
mới liên tục được đưa ra, tuy nhiên chỉ tập trung vào
xét nghiệm tế bào học và xét nghiệm HPV. Không có
hướng dẫn nào đưa ra tập trung vào việc tối ưu kỹ
thuật soi CTC và bấm sinh thiết CTC.
Trên thực thế lâm sàng ở nước ta cũng như nhiều
nơi khác trên thế giới, việc bấm sinh thiết bao nhiêu
mẫu luôn là một câu hỏi khó trả lời. Nhiều bác sĩ chỉ
bấm sinh thiết một mẫu duy nhất ở cổ ngoài CTC.
Những bác sĩ khác lại bấm sinh thiết hai hay nhiều
mẫu hơn. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu gần
đây đã đưa ra được những dữ liệu có chất lượng để
hướng dẫn cho các nhà thực hành lâm sàng về số
lượng mẫu sinh thiết cần thiết giúp phát hiện tốt nhất
các tổn thương mức độ cao cần phải điều trị [17,18]
Bấm sinh thiết nhiều mẫu
Một nghiên cứu được tiến hành bởi Viện Nghiên
cứu Ung thư Hoa Kỳ, phân tích kết quả bấm sinh thiết
của 690 phụ nữ có chỉ định soi CTC do có bất thường
khi thực hiện tầm soát ung thư CTC. Độ tuổi trong
nghiên cứu từ 18 tuổi trở lên (tuổi trung bình là 26) và
được thực hiện trong thời gian từ 2009 – 2012. Tổng
cộng có 189 bệnh nhân bị nhiễm HPV 16, 348 bệnh
nhân bị nhiễm các type HPV nguy cơ cao khác và 86
bệnh nhân nhiễm HPV nguy cơ thấp. Tiêu chuẩn loại
trừ bao gồm tất cả bệnh nhân đã có tiền sử điều trị
tân sinh CTC. Tham gia vào nghiên cứu có 6 bác sĩ soi
CTC được đào tạo bài bản và có nhiều kinh nghiệm.
Mỗi người sẽ thực hiện ít nhất 60 lượt soi CTC trong
toàn bộ nghiên cứu này. Có 690 phụ nữ trong nghiên
cứu được chia thành các nhóm: soi CTC không phát
hiện bất thường; chỉ có vết trắng CTC; có hình ảnh
nghi ngờ tổn thương mức độ thấp, có hình ảnh nghi
ngờ tổn thương mức độ cao. Các bác sĩ sẽ thực hiện
trung bình một, ba và bốn mẫu bấm sinh thiết ở các
nhóm đối tượng này. Các tổn thương trong biểu mô lát
mức độ cao (HSIL, tương ứng CIN 2/3, ung thư) là tiêu
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 77 - 84, 2016
83
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
chuẩn vàng để đánh giá kết quả của nghiên cứu. Cuối
cùng tất cả bệnh nhân đều được thực hiện ít nhất một
lần bấm sinh thiết. Có 54,6% được bấm sinh thiết 4
mẫu, 26,6% được bấm sinh thiết 3 mẫu và 18,8% còn
lại được bấm sinh thiết ít hơn 3 mẫu. Kết quả cho thấy
độ nhạy cho việc phát hiện HSIL gia tăng từ 60,6%
(95% CI 54,8– 66,6%) đối với 1 mẫu bấm sinh thiết
lên 85,6% (95% CI 803 – 90,2%) khi bấm sinh thiết
2 mẫu và lên đến 95,6% (95% CI 91,3 – 99,2%) khi
bấm sinh thiết 3 mẫu. Xu hướng này được ghi nhận
ở tất cả các bác sĩ tham gia trong nghiên cứu và tất
cả các nhóm đối tượng. Tuy vậy, nghiên cứu cũng ghi
nhận đối với nhóm đồng thời có xét nghiệm tế bào
học HSIL, HPV 16 và có hình ảnh nghi ngờ tổn thương
mức độ cao trên soi CTC thì khả năng được chẩn đoán
CIN 2/3 hay ung thư là cao nhất [18]
Kết quả này tương tự kết quả phân tích của nghiên
cứu ASCUS LSIL Triage Study (ALTS) cho thấy soi CTC
và bấm sinh thiết giúp phát hiện đến khoảng 2/3 số
trường hợp CIN 3+ (CIN 3 và ung thư). Độ nhạy của
việc chẩn đoán CIN 3+ tăng lên đáng kể khi được
bấm sinh thiết từ 2 mẫu trở lên so với chỉ bấm sinh thiết
1 mẫu (81,8% so với 68,3%, p< 0,01), đặc biệt kết
quả này không phụ thuộc vào kinh nghiệm hay mức
độ đào tạo của người thực hiện soi CTC (y tá, bác sĩ
phụ khoa, bác sĩ ung thư phụ khoa) [17]. Đồng thời
bấm sinh thiết từ hai mẫu trở lên cũng được khuyến
cáo trong hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hội Sản
Phụ khoa Canada năm 2012 [19].
Như vậy, kết quả của các nghiên cứu trên cung
cấp cho chúng ta những thông tin hết sức có ý nghĩa
trong thực hành lâm sàng. Mặc dù bấm sinh thiết
nhiều mẫu làm cho bệnh nhân đau, khó chịu, đôi
khi chảy máuTuy nhiên, nếu các tổn thương CIN
2+ không được chẩn đoán sẽ dẫn tới việc bệnh nhân
không được điều trị kịp thời, mất nhiều thời gian theo
dõi và đánh giá lại, thậm chí tồi tệ hơn là bệnh nhân
có thể bị diễn tiến qua ung thư xâm lấn. Do đó, thay
vì chỉ bấm sinh thiết một mẫu ở vị trí tổn thương nặng
nề nhất thì nên bấm sinh thiết 2 đến 3 mẫu ở các vùng
tổn thương khác nhau.
Bấm sinh thiết ngẫu nhiên
Trong thực tế lâm sàng khi thực hiện soi CTC cho
bệnh nhân có xét nghiệm tế bào học bất thường hoặc
dương tính với các type HPV nguy cơ cao, nhiều trường
hợp các bác sĩ sẽ không quan sát thấy hình ảnh bất
thường nghi ngờ ở CTC. Trong những tình huống này
xử trí như thế nào là phù hợp? Theo dõi tiếp, thực hiện
lặp lại các xét nghiệm? Soi CTC kiểm tra lại? bấm sinh
thiết ngẫu nhiên? Hay cần lấy mẫu từ ống cổ tử cung ?
Một nghiên cứu về trường hợp này vừa được đăng
trên Obstetrics & Gynecology, phân tích dữ liệu trong
nghiên cứu ATHENA, một nghiên cứu đa trung tâm
rất lớn ở Hoa Kỳ với hơn 47.000 bệnh nhân [20].
Nghiên cứu này tập trung phân tích nhóm phụ nữ từ
25 tuổi trở lên. Tất cả bệnh nhân đều được làm xét
nghiệm tế bào học và HPV DNA định type nguy cơ
cao. Soi CTC được thực hiện cho tất cả bệnh nhân có
xét nghiệm tế bào học bất thường hoặc dương tính với
các type HPV nguy cơ cao. Đối với các trường hợp soi
CTC đầy đủ nhưng không quan sát thấy tổn thương
sẽ được bấm sinh thiết ngẫu nhiên một mẫu ở vùng
tiếp giáp biểu mô lát - trụ. Trong 7.100 trường hợp
được thực hiện bấm sinh thiết, có 2.839 trường hợp
được bấm sinh thiết ngẫu nhiên và có 2.796 kết quả
đủ điều kiện đánh giá. Kết quả giải phẫu bệnh lý cho
thấy 90% (2.552) trường hợp là bình thường, 5,7%
(163) trường hợp bị CIN 1, có 1,3% (36) trường hợp
CIN 2, có 1,4% (41) trường hợp bị CIN 3 và 0,14%
(4) trường hợp nặng hơn CIN 3. Như vậy, tổng cộng
bấm sinh thiết ngẫu nhiên giúp chẩn đoán 20,9%
(81/388, 95% CI 16,9– 25,3%) trường hợp CIN 2+
và 18,9% (45/238, 95% CI 14,1– 24,5%) trường hợp
CIN 3+ trong toàn bộ dân số nghiên cứu từ 25 tuổi trở
lên. Khi phân tích mối liên quan với tình trạng nhiễm
HPV, kết quả cho thấy đối với các trường hợp nhiễm
HPV 16 hay HPV 18 thì nguy cơ tuyệt đối cho việc
phát hiện CIN 2+ và CIN 3+ khi bấm sinh thiết ngẫu
nhiên trong dân số chung là 13,1% (40/305, 95% CI
9,8– 17,4%) và 8,2% (25/305, 95% CI 5,6 – 11,8%).
Trong khi đó, nguy cơ tuyệt đối ở nhóm 12 type HPV
nguy cơ cao khác lần lượt là 3,5% (29/820, 95% CI
2,5–5%) và 1,7% (14/820, 95% CI 1,0– 2,8%) thấp
hơn rất nhiều so với 2 type HPV 16 và HPV 18.
Như vậy, việc bấm sinh thiết ngẫu nhiên có hiệu
quả không? Câu trả lời của nghiên cứu này là có, với
khoảng 20% tổn thương CIN 2, CIN 3 hay nặng hơn
được phát hiện. Và đặc biệt có hiệu quả cao nhất ở
nhóm nhiễm HPV 16 hay HPV 18.
Tuy nhiên, việc áp dụng bấm sinh thiết ngẫu nhiên
cần phải hết sức cân nhắc và tùy thuộc vào từng tình
huống lâm sàng cụ thể. Bởi theo một nghiên cứu lớn
ở Anh vừa được công bố trên BJOG: An International
Journal of Obstetrics & Gynaecology, với các trường
BÙI QUANG TRUNG
84
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
hợp kết quả xét nghiệm tế bào học có tế bào bất
thường mức độ thấp, nếu kết quả soi CTC không phát
hiện thấy hình ảnh bất thường thì nên tiếp tục theo dõi
dù bệnh nhân dương tính với HPV nguy cơ cao. Bởi
trong trường hợp này nguy cơ CIN 2+ cũng như CIN
3+ là rất thấp [21].
Ngoài ra, nghiên cứu ở trên cũng cho ta thấy được
những hạn chế của soi CTC tương tự như nhiều kết quả
báo cáo trước đây. Trong tất cả những yếu tố liên quan
đến hiệu quả của soi CTC, yếu tố con người và công
tác đào tạo luôn được coi như là chìa khóa quan trọng
nhất [19,22]. Bởi bác sĩ soi CTC chính là người trực
tiếp tiếp xúc với bệnh nhân, đồng thời cũng là người
đưa ra các quyết định chẩn đoán và xử trí. Việc nâng
cao công tác đào tạo sẽ góp phần giảm bớt phần nào
số trường hợp đánh giá sai lệch về kết quả soi CTC, từ
đó góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của soi CTC.
5. Kết luận
Trong nỗ lực nhằm làm giảm gánh nặng do
ung thư CTC gây ra, chúng ta dễ nhận thấy việc
đẩy mạnh bước dự phòng thứ cấp đóng vai trò
hết sức quan trọng. Xét nghiệm tế bào học và xét
nghiệm HPV được đầu tư nghiên cứu nhiều và
ngày càng có nhiều tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên,
soi CTC với những ưu điểm đặc biệt vẫn duy trì
được vị trí quan trọng.
Nhưng với tính chất phụ thuộc nhiều vào yếu tố
con người cùng với việc chưa được cập nhật với những
thay đổi, cải tiến trên thế giới nên hiệu quả của kỹ
thuật soi CTC ở nước ta chưa cao. Qua bài viết này
nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người và của công
tác đào tạo đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao
hiệu quả của kỹ thuật soi CTC trong công tác phòng
chống ung thư CTC ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. WHO. Comprehensive cervical cancer control: A guide to essential practice
- Second edition.2014.
2. Bộ Y tế. Hướng dẫn sàng lọc, điều trị tổn thương tiền ung thư để dự phòng
thứ cấp ung thư cổ tử cung. 2011.
3. Trần Thị Phương Mai, Nguyễn Đức Vy, Đinh Xuân Tửu. Soi cổ tử cung phát
hiện sớm ung thư, NXB Y học Hà Nội; 2007.
4. Châu Khắc Tú, Nguyễn Vũ Quốc Huy. Ung thư cổ tử cung - Từ dự phòng
đến can thiệp sớm. NXB Đại học Huế; 2011.
5. Scheungraber C, Glutig K, Fechtel B, Kuehne-Heid R, Duerst M, Schneider
A. Inner border--a specific and significant colposcopic sign for moderate or
severe dysplasia (cervical intraepithelial neoplasia 2 or 3). J Low Genit Tract Dis.
2009a;13(1):1-4.
6. Vercellino GF, Erdemoglu E, Chiantera V, Vasiljeva K, Drechsler I, Cichon
G, et al. Validity of the colposcopic criteria inner border sign, ridge sign, and rag
sign for detection of high-grade cervical intraepithelial neoplasia. Obstet Gynecol.
2013;121(3):624-31.
7. Vercellino G, Erdemoglu E, Chiantera V, Vasiljeva K, Malak A-H, Schneider
A, et al. Clinical relevance of objectifying colposcopy. Arch Gynecol Obstet.
2015;291(4):907-15.
8. Scheungraber C, Koenig U, Fechtel B, Kuehne-Heid R, Duerst M, Schneider
A. The colposcopic feature ridge sign is associated with the presence of cervical
intraepithelial neoplasia 2/3 and human papillomavirus 16 in young women. J Low
Genit Tract Dis. 2009b;13(1):13-6.
9. Strander B, Ellström-Andersson A, Franzén S, Milsom I, Rådberg T. The
performance of a new scoring system for colposcopy in detecting high-grade
dysplasia in the uterine cervix. Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica.
2005;84(10):1013-7.
10. Reid R, Scalzi P. Genital warts and cervical cancer. VII. An improved
colposcopic index for differentiating benign papillomaviral infections from high-
grade cervical intraepithelial neoplasia. American journal of obstetrics and
gynecology. 1985;153(6):611-8.
11. Kierkegaard O, Byralsen C, Hansen KC, Frandsen KH, Frydenberg M.
Association between colposcopic findings and histology in cervical lesions: the
significance of the size of the lesion. Gynecologic oncology. 1995;57(1):66-71.
12. Shafi MI, Finn CB, Luesley DM, Jordan JA, Dunn J. Lesion size and histology
of atypical cervical transformation zone. BJOG: An International Journal of
Obstetrics & Gynaecology. 1991;98(5):490-2.
13. Bowring J, Strander B, Young M, Evans H, Walker P. The Swede Score:
Evaluation of a Scoring System Designed to Improve the Predictive Value of
Colposcopy. Journal of Lower Genital Tract Disease. 2010;14(4):301-5.
14. Nessa A, Wistrand C, Begum SA, Thuresson M, Shemer I, Thorsell M, et
al. Evaluation of stationary colposcope and the Gynocular, by the Swede score
systematic colposcopic system in VIA positive women: a crossover randomized
trial. International journal of gynecological cancer : official journal of the
International Gynecological Cancer Society. 2014;24(2):339-45.
15. KÄRrberg C, Ryd W, Strander B, BrÄNnstrÖM M, RÅDberg T. Histological
diagnosis and evaluation of the Swede score colposcopic system in a large cohort
of pregnant women with atypical cervical cytology or cervical malignancy signs.
Acta Obstetricia et Gynecologica Scandinavica. 2012;91(8):952-8.
16. Nessa A, Roy JS, Chowdhury MA, Khanam Q, Afroz R, Wistrand C, et al.
Evaluation of the accuracy in detecting cervical lesions by nurses versus doctors
using a stationary colposcope and Gynocular in a low-resource setting. BMJ
Open. 2014;4(11).
17. Gage JC, Hanson VW, Abbey K, Dippery S, Gardner S, Kubota J, et al.
Number of cervical biopsies and sensitivity of colposcopy. Obstet Gynecol.
2006;108(2):264-72.
18. Wentzensen N, Walker JL, Gold MA, Smith KM, Zuna RE, Mathews C, et al.
Multiple biopsies and detection of cervical cancer precursors at colposcopy. J Clin
Oncol. 2015;33(1):83-9.
19. Bentley J. Colposcopic management of abnormal cervical cytology and
histology. J Obstet Gynaecol Can. 2012;34(12):1188-206.
20. Huh WK, Sideri M, Stoler M, Zhang G, Feldman R, Behrens CM.
Relevance of Random Biopsy at the Transformation Zone When Colposcopy Is
Negative. Obstetrics & Gynecology. 2014;124(4):670-8.
21. Cruickshank ME, Cotton SC, Sharp L, Smart L, Walker LG, Little J.
Management of women with low grade cytology: how reassuring is a normal
colposcopy examination? Bjog. 2015;122(3):380-6.
22. Jordan J, Martin-Hirsch P, Arbyn M, Schenck U, Baldauf JJ, Da Silva D, et al.
European guidelines for clinical management of abnormal cervical cytology, part
2. Cytopathology. 2009;20(1):5-16.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cai_thien_hieu_qua_chan_doan_cin_2_bang_ky_thuat_soi_co_tu_c.pdf