Cải thiện thói quen vệ sinh răng miệng của một số học sinh tiểu học và phụ huynh thông qua tăng cường giáo dục sức khỏe răng miệng tại nhà

Trước can thiệp, không có sự khác biệt về tình trạng VSRM giữa 2 nhóm học sinh. Sau can thiệp, tình trạng VSRM cải thiện rõ rệt ở nhóm học sinh có tăng cường GDSKRM tại nhà (p<0,001). Sự khác biệt về tình trạng VSRM giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh có tình trạng VSRM trung bình vẫn còn khá cao. Thói quen VSRM của PHHS Trước can thiệp, tỉ lệ PHHS chải răng sau khi ăn và chải răng đúng rất thấp; tỉ lệ PHHS chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày, chải răng buổi tối trước khi đi ngủ và chải răng với kem có Fluor ở mức trung bình; tỉ lệ PHHS quan tâm đến VSRM của con rất thấp. Sau can thiệp, thói quen VSRM của PHHS có cải thiện rõ rệt so với trước can thiệp (p<0,001). Đề xuất - Mô hình tăng cường GDSKRM tại nhà không ảnh hưởng nhiều đến thời gian học tập của học sinh ở trường cũng như ở nhà, hình thức dễ thực hiện vì vậy có thể mở rộng trên số lượng lớn học sinh, áp dụng cho nhiều lứa tuổi học sinh Tiểu học. - Cải tiến GDSKRM tại trường kết hợp với thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà: Tăng cường hướng dẫn thực hành chải răng. Nhắc nhở học sinh chải răng tại nhà kết hợp việc tự theo dõi chải răng của học sinh và phụ huynh.

pdf9 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 621 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện thói quen vệ sinh răng miệng của một số học sinh tiểu học và phụ huynh thông qua tăng cường giáo dục sức khỏe răng miệng tại nhà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 184 CẢI THIỆN THÓI QUEN VỆ SINH RĂNG MIỆNG CỦA MỘT SỐ HỌC SINH TIỂU HỌC VÀ PHỤ HUYNH THÔNG QUA TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE RĂNG MIỆNG TẠI NHÀ Nguyễn Lang Thanh*, Phan Ái Hùng** TÓM TẮT Mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của việc tăng cường giáo dục sức khỏe răng miệng tại nhà đối với thói quen vệ sinh răng miệng của một số học sinh Tiểu học và phụ huynh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trong 4 tuần trên 160 học sinh lớp 4 trường Tiểu học Phong Phú, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TPHCM. Học sinh được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm chứng (80 học sinh) chỉ được giáo dục sức khỏe răng miệng tại trường; nhóm nghiên cứu (80 học sinh) được giáo dục sức khỏe răng miệng tại trường kết hợp với tăng cường nhắc nhở chải răng tại nhà thông qua bảng nhắc nhở và tự theo dõi chải răng mỗi ngày cùng với gia đình. Nghiên cứu cũng khảo sát sự thay đổi thói quen vệ sinh răng miệng của 66 phụ huynh học sinh tham gia tăng cường giáo dục sức khỏe răng miệng tại nhà. Nghiên cứu ghi nhận sự thay đổi kiến thức và thói quen vệ sinh răng miệng với bảng câu hỏi phỏng vấn, đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng với chỉ số vệ sinh răng miệng OHI-S (DI) vào thời điểm ban đầu và sau 4 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện đáng kể về kiến thức, thói quen và tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh cũng như thói quen vệ sinh răng miệng của phụ huynh học sinh. Kết luận: Việc tăng cường nhắc nhở chải răng tại nhà kết hợp với giáo dục sức khỏe răng miệng tại trường giúp cải thiện tốt kiến thức, thói quen và tình trạng vệ sinh răng của học sinh bên cạnh đó cũng góp phần cải thiện thói quen vệ sinh răng miệng của các thành viên trong gia đình. Từ khóa: Vệ sinh răng miệng, giáo dục sức khỏe răng miệng, kiến thức, thói quen, tình trạng vệ sinh răng miệng. ABSTRACT IMPROVING ORAL HYGIENE HABITS OF PRIMARY SCHOOL CHILDREN AND THEIR PARENTS THROUGH PROMOTING ORAL HEALTH CARE EDUCATION AT HOME Nguyen Lang Thanh, Phan Ai Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 184 - 192 The objectives of this study was to evaluate the effectiveness of promoting oral health care education on oral hygiene habits of primary school children and their parents. Material and method: The study was conducted in 4 weeks. 160 school children aged 10 (class 4th) were randomly selected and divided into 2 groups: oral health care education was given at school to control group (80 children) and to experimental group (80 children). The later group also received posters to remind them of tooth brushing and a calendar to self follow at home. The study also evaluated changes in oral health care habits of 66 parents in experimental group. Data was collected using questionnaire and oral hygiene index (OHI-S) at baseline and after 4 weeks. Results of study showed that knowledge, habits and oral hygiene status of school children as well as oral *: Chương trình giáo dục chăm sóc sức khỏe răng miệng “P/S Bảo Vệ Nụ Cười Việt Nam” – Unilever VN, **: Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Lang Thanh ĐT: 0909034449; Email: langthanh@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 185 hygiene habits of their parents improved significantly. Conclusions: It is concluded that promoting oral health care education at home was effective in improving knowledge, habits, oral hygiene status of school children and oral hygiene habits of their family members. Key words: Oral hygiene, oral health care education, knowledge, habit, oral hygiene status. MỞ ĐẦU Giáo dục sức khỏe răng miệng (GDSKRM) giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các bệnh răng miệng đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh, giúp các em sớm có ý thức và thói quen vệ sinh răng miệng (VSRM) ngay từ nhỏ(13). Ở Việt Nam, GDSKRM là nội dung đầu tiên và quan trọng nhất trong 4 nội dung của chương trình chăm sóc sức khỏe răng miệng cho học sinh (Nha Học Đường). Hiện nay, nội dung này được thực hiện gần 100% các trường Tiểu học và Mầm non. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho thấy tình trạng VSRM của học sinh vẫn ở mức trung bình và kém. Vì vậy rất cần tăng cường GDSKRM, tăng cường chải răng để giúp cải thiện tình trạng VSRM của học sinh(6,8,14,15). Thực tế, học sinh học những kiến thức chăm sóc răng miệng tại trường trong khi thực hành các kỹ năng này chủ yếu ở nhà, đặc biệt là các học sinh không học bán trú. Số lượng học sinh này chiếm đa số, nhất là ở các huyện ngoại thành hiện nay. Một số nghiên cứu cho thấy cha mẹ giữ vai trò quan trọng trong việc GDSKRM cho trẻ và ngược lại, kiến thức răng miệng của trẻ có ảnh hưởng đối với cha mẹ và làm thay đổi thói quen chăm sóc răng miệng của các thành viên trong gia đình(2,4). Hiện nay, trong nước chưa có nghiên cứu nào khảo sát ảnh hưởng của việc GDSKRM tại trường kết hợp tăng cường GDSKRM tại nhà đối với thói quen VSRM của học sinh và phụ huynh. Việc tìm hiểu tác động của GDSKRM tại trường kết hợp với gia đình là cần thiết để từ đó có phương pháp thích hợp giúp cải thiện và nâng cao sức khỏe răng miệng cho học sinh và cộng đồng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm các mục tiêu sau: Mục tiêu tổng quát Đánh giá sự cải thiện thói quen VSRM của một số học sinh Tiểu học và phụ huynh thông qua tăng cường GDSKRM tại nhà. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá kiến thức, thói quen, tình trạng VSRM của học sinh (sau khi học sinh được GDSKRM tại trường theo chương trình Nha Học Đường), thói quen VSRM của phụ huynh học sinh (PHHS) trước nghiên cứu. - Đánh giá sự thay đổi kiến thức, thói quen và tình trạng VSRM của học sinh sau khi thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà. - So sánh sự thay đổi thói quen và tình trạng VSRM của nhóm học sinh có tăng cường GDSKRM tại nhà so với nhóm học sinh chỉ được GDSKRM đơn thuần tại trường. - Đánh giá sự thay đổi thói quen VSRM của phụ huynh học sinh trước và sau khi thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Thử nghiệm can thiệp cộng đồng Mẫu nghiên cứu 160 học sinh và 66 phụ huynh học sinh lớp Bốn trường Tiểu học Phong Phú, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TPHCM. Học sinh được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm chứng (nhóm 1) gồm 80 học sinh, nhóm nghiên cứu (nhóm 2) gồm 80 học sinh. Chọn toàn bộ phụ huynh của học sinh nhóm nghiên cứu (66 PHHS). Phương tiện tăng cường GDSKRM Bảng nhắc nhở học sinh chải răng gồm 2 bảng: một bảng được dán ở nơi chải răng với nội dung nhắc nhở các em chải răng sau khi ăn và tối trước khi đi ngủ, chải răng buổi tối là quan Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 186 trọng nhất, chải đủ các mặt răng của hàm trên và hàm dưới; một bảng được dán ở góc học tập với nội dung nhắc nhở chải răng sau khi ăn và tối trước khi đi ngủ kết hợp với các phiếu theo dõi chải răng. Phiếu theo dõi chải răng gồm 4 phiếu (mỗi tuần có 1 phiếu) được gắn vào bảng nhắc nhở chải răng dán ở góc học tập, mỗi phiếu gồm một bảng với các ô vuông để học sinh ghi điểm chải răng của mình và cha mẹ mỗi ngày. Phương tiện đánh giá kiến thức, thói quen VSRM Bộ câu hỏi phỏng vấn học sinh và PHHS về kiến thức và thói quen VSRM với các nội dung phù hợp chương trình GDSKRM của học sinh tại trường. Phương tiện đánh giá tình trạng VSRM Phiếu khám tình trạng VSRM, bộ đồ khám răng, thuốc phát hiện mảng bám với thành phần là FD&C blue No.1, D&C red No.28. Tiến trình nghiên cứu Bước 1: Khảo sát kiến thức, thói quen và tình trạng VSRM của học sinh; thói quen VSRM của PHHS trước can thiệp. Bước 2: Triển khai tăng cường GDSKRM tại nhà ở học sinh nhóm nghiên cứu. Mỗi học sinh được nhận 2 bảng nhắc nhở chải răng và được giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn dán đúng vị trí, ghi điểm vào phiếu theo dõi chải răng. Học sinh tự theo dõi chải răng và ghi điểm chải răng của mình và cha mẹ vào ô vuông trên phiếu theo dõi chải răng mỗi ngày: có chải răng ghi điểm 1, không chải răng ghi điểm 0. Thời gian bắt đầu ghi điểm chải răng là ngày thứ Hai. Sau 1 tuần (thứ Hai kế tiếp), học sinh nộp phiếu theo dõi chải răng đã được ghi điểm chải răng với chữ ký xác nhận của phụ huynh cho giáo viên chủ nhiệm. Việc theo dõi chải răng được thực hiện trong 4 tuần. Bước 3: Đánh giá hiệu quả tăng cường GDSKRM tại nhà sau 1 tháng với các tham số: Sự thay đổi kiến thức, thói quen và tình trạng VSRM của học sinh; sự thay đổi thói quen VSRM của PHHS. Thu thập dữ liệu Kiến thức và thói quen VSRM của học sinh Học sinh tham gia nghiên cứu được phỏng vấn bằng cách trả lời bảng câu hỏi tự điền tại lớp sau khi được khám đánh giá tình trạng VSRM, dưới sự hướng dẫn và giám sát bởi các điều tra viên gồm các nội dung sau: - Hiểu biết về nguyên nhân và cách phòng ngừa các bệnh sâu răng và viêm nướu, biện pháp VSRM quan trọng, phương pháp chải răng đúng, lần chải răng quan trọng nhất trong ngày. - Thói quen VSRM gồm tần suất chải răng, thời điểm chải răng, sử dụng kem đánh răng có Fluor, tự giác chải răng. Tình trạng VSRM của học sinh Học sinh được khám đánh giá và ghi nhận tình trạng VSRM với chỉ số OHI-S (yếu tố bựa bám). Phân loại tình trạng VSRM của mỗi học sinh như sau: - 0,0 – 0,6: VSRM tốt - 0,7 – 1,8: VSRM trung bình - 1,9 – 3,0: VSRM kém Thói quen VSRM của phụ huynh học sinh Phụ huynh học sinh tham gia nghiên cứu được gửi bảng câu hỏi phỏng vấn soạn sẵn về nhà, trả lời và gửi lại cho giáo viên chủ nhiệm vào ngày hôm sau. Phỏng vấn PHHS được thực hiện trước khi phỏng vấn, khám và ghi nhận tình trạng VSRM của học sinh. Bảng câu hỏi gồm các nội dung: tần suất chải răng trong ngày, thời điểm chải răng, cách chải răng, việc sử dụng kem đánh răng có Fluor, sự quan tâm đến VSRM của con và ý kiến của PHHS về việc thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà. Kiểm soát sai lệch thông tin Tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn, thử nghiệm, điều chỉnh và hoàn thiện bộ câu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 187 hỏi. Tập huấn điều tra viên và ghi nhận chỉ số Kappa là 0,8 trước khi điều tra chính thức. Xử lý dữ liệu Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 11.5. Sử dụng thống kê mô tả và các kiểm định 2, kiểm định McNemar, kiểm định t để phân tích, trình bày và so sánh các kết quả. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm mẫu nghiên cứu Bảng 1: Phân bố tỉ lệ % học sinh của 2 nhóm nghiên cứu theo giới. Nhóm Nam Nữ Tổng n % n % Nhóm 1 45 56,3 35 43,7 80 Nhóm 2 33 41,3 47 58,7 80 Tổng 78 48,7 82 51,3 160 Kiểm định  2 = 3,602; p = 0,058 Bảng 2: Phân bố tỉ lệ % PHHS theo tuổi và giới. Độ tuổi Nam Nữ Tổng n (%) n (%) n (%) <34 4 (16,6) 16 (38,1) 20 (30,3) 35-44 13 (54,2) 20 (47,6) 33 (50) >45 7 (29,2) 6 (14,3) 13 (19,7) Tổng 24 (36,4) 42 (63,6) 66 (100) Kiến thức VSRM của học sinh Bảng 3: Điểm trung bình (TB) kiến thức VSRM của 2 nhóm học sinh. Tham số Điểm TB kiến thức, X (ĐLC) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp (1) Nguyên nhân sâu răng và viêm nướu Nhóm 1 8 (7,361) 6,75 (6,708) 0,159 Nhóm 2 7,25 (7,459) 8,25 (7,758) 0,172 p(b) 0,523 0,193 (2) Phòng ngừa sâu răng và viêm nướu Nhóm 1 14,81 (4,503) 13,25 (5,240) 0,000 Nhóm 2 14,26 (5,048) 15,58 (4,227) 0,004 p(b) 0,468 0,002 (3) Chải răng là biện pháp giữ VSRM quan trọng Nhóm 1 7,63 (4,282) 7,88 (4,117) 0,620 Nhóm 2 7,75 (4,202) 9,38 (2,436) 0,000 p(b) 0,852 0,006 (4) Phương pháp chải răng đúng Nhóm 1 7,31 (3,275) 7,06 (3,440) 0,397 Nhóm 2 7,19 (3,718) 8,63 (2,513) 0,000 p(b) 0,822 0,001 Tham số Điểm TB kiến thức, X (ĐLC) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp (5) Lần chải răng quan trọng nhất Nhóm 1 3,88 (4,903) 4 (4,930) 0,783 Nhóm 2 4,88 (5,030) 9,5 (2,193) 0,000 p(b) 0,205 0,000 Điểm trung bình chung về kiến thức VSRM(*) Nhóm 1 41,63 (14,381) 38,94 (13,943) 0,039 Nhóm 2 41,33 (15,876) 51,33 (10,690) 0,000 p(b) 0,900 0,000 (a) Kiểm định t bắt cặp; (b) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập; (*) Trung bình cộng của (1), (2), (3), (4), (5). Bảng 4: Tỉ lệ % học sinh có kiến thức VSRM đạt yêu cầu. Nhóm Trước can thiệp Sau can thiệp p(a) n (%) n (%) Nhóm 1 29 (36,3) 25 (31,3) 0,541 Nhóm 2 31 (38,8) 49 (61,3) 0,000 p(b) 0,744 0,000 (a) Kiểm định McNemar, (b) Kiểm định  2 Thói quen VSRM của học sinh Bảng 5: Thói quen VSRM của học sinh. Tham số Thói quen VSRM, n (%) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp Chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày Nhóm 1 44 (55) 54 (67,5) 0,013 Nhóm 2 42 (52,5) 78 (97,5) 0,000 p(b) 0,751 0,000 Chải răng sáng mới thức dậy Nhóm 1 78 (97,5) 73 (91,3) 0,063 Nhóm 2 76 (95) 69 (86,3) 0,092 p(b) 0,681 0,317 Chải răng sau khi ăn Nhóm 1 7 (8,8) 10 (12,5) 0,375 Nhóm 2 6 (7,5) 58 (72,5) 0,000 p(b) 0,772 0,000 Chải răng tối trước khi đi ngủ Nhóm 1 46 (57,5) 54 (67,5) 0,021 Nhóm 2 43 (53,8) 78 (97,5) 0,000 p(b) 0,633 0,000 Chải răng với kem có Fluor Nhóm 1 52 (65) 61 (76,3) 0,022 Nhóm 2 60 (75) 74 (92,5) 0,001 p(b) 0,168 0,005 Tự giác chải răng Nhóm 1 37 (46,3) 40 (50) 0,581 Nhóm 2 40 (50) 66 (82,5) 0,000 p(b) 0,635 0,000 (a) Kiểm định McNemar, (b) Kiểm định  2 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 188 Tình trạng VSRM của học sinh Bảng 6: Trung bình điểm số OHI-S của 2 nhóm học sinh. Điểm số Trung bình điểm số OHI-S, X (ĐLC) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp OHI-S Nhóm 1 2,315 (0,499) 2,225 (0,501) 0,013 Nhóm 2 2,381 (0,492) 1,652 (0,569) 0,000 p(b) 0,395 0,000 (a) Kiểm định t bắt cặp, (b) Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập Bảng 7: Tình trạng VSRM của học sinh. Mức độ Tình trạng VSRM, n (%) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp Trung bình Nhóm 1 16 (20) 21 (26,3) 0,180 Nhóm 2 11 (13,7) 50 (62,5) 0,000 p(b) 0,291 0,000 Kém Nhóm 1 64 (80) 59 (73,7) 0,180 Nhóm 2 69 (86,3) 29 (36,3) 0,000 p(b) 0,291 0,000 (a) Kiểm định McNemar, (b) Kiểm định  2 Thay đổi thói quen VSRM của phụ huynh học sinh Bảng 8: Thói quen chải răng của PHHS. Tham số Thói quen chải răng, n (%) p(a) Trước can thiệp Sau can thiệp Chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày 38 (57,6) 64 (97) 0,000 Chải răng sáng mới thức dậy 63 (95,5) 61 (92,4) 0,718 Chải răng sau khi ăn 4 (6,1) 48 (72,7) 0,000 Chải răng tối trước khi đi ngủ 38 (57,6) 63 (95,5) 0,000 Chải răng đúng 12 (18,2) 65 (98,5) 0,000 Dùng kem đánh răng có Fluor 35 (53) 55 (83,3) 0,000 (a) Kiểm định  2 Bảng 9: Sự quan tâm của PHHS đến VSRM của con Tham số Trước can thiệp Sau can thiệp p(a) n (%) n (%) Kiểm tra răng con sau khi con chải răng 3 (4,5) 46 (69,7) 0,000 Nhắc con chải răng 8 (12,1) 56 (84,8) 0,000 (a) Kiểm định  2 BÀN LUẬN Sự thay đổi kiến thức VSRM của học sinh Kết quả ở Bảng 3 cho thấy trước can thiệp, điểm trung bình chung về kiến thức VSRM của học sinh giữa 2 nhóm không có sự khác biệt. Điều này cho thấy học sinh của 2 nhóm được GDSKRM và tiếp thu các kiến thức VSRM từ chương trình GDSKRM tại trường tương tự nhau. Sau can thiệp, điểm trung bình này ở học sinh nhóm nghiên cứu tăng đáng kể (p<0,001) và khác biệt rõ rệt so với học sinh nhóm chứng (p<0,001). Trong khi đó, điểm trung bình này giảm có ý nghĩa thống kê ở nhóm chứng cho thấy nếu kiến thức VSRM của học sinh chỉ được cung cấp một lần mà không được nhắc nhở thì kiến thức có khuynh hướng giảm dần theo thời gian. Ngược lại, việc tăng cường nhắc nhở học sinh thực hành chải răng mỗi ngày đã gián tiếp giúp củng cố và nâng cao kiến thức về VSRM cho học sinh. Kết quả ở Bảng 4 cho thấy tỉ lệ học sinh có kiến thức VSRM đạt yêu cầu trước can thiệp ở 2 nhóm như nhau và rất thấp (36,3% ở nhóm chứng và 31,3% ở nhóm can thiệp) chứng minh kiến thức VSRM của học sinh trước can thiệp là đồng đều và có vẻ như việc cung cấp kiến thức VSRM cho học sinh trong chương trình Nha Học Đường chưa đủ. Sau can thiệp, tỉ lệ này tăng lên đáng kể và đạt 61,3% ở nhóm nghiên cứu, có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm chứng và nhóm nghiên cứu (p<0,001). Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu trước đây (Goel và cs; Toassi và cs)(3,12), cho thấy nếu chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh một lần thì chưa đủ, cần phải có tăng cường thực hành hoặc thúc đẩy GDSKRM mới có thể giúp học sinh duy trì các kiến thức đã được học lâu hơn và có ảnh hưởng tích cực đến việc cải thiện SKRM. Sự thay đổi thói quen VSRM của học sinh Kết quả ở Bảng 5 cho thấy tỉ lệ học sinh chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày ở 2 nhóm trước can thiệp tương tự nhau. Sau can thiệp, tỉ lệ này ở nhóm nghiên cứu tăng lên rõ rệt so với nhóm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 189 chứng (p<0,001) đã chứng minh việc tăng cường nhắc nhở học sinh thực hành chải răng tại nhà làm tăng số lần chải răng trong ngày của học sinh. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Livny và cs; Petersen)(7,9). Các kết quả cho thấy tăng cường GDSKRM và tăng cường chải răng đều có hiệu quả cải thiện thói quen VSRM, làm tăng số lần chải răng trong ngày của học sinh. Tỉ lệ học sinh chải răng sau khi ăn trước can thiệp rất thấp, chỉ có 8,8% học sinh ở nhóm chứng và 7,5% học sinh ở nhóm nghiên cứu có chải răng sau khi ăn. Tỉ lệ học sinh chải răng vào buổi tối trước khi đi ngủ thấp (57,5% ở nhóm chứng và 53,8% ở nhóm nghiên cứu). Mặc dù học sinh đã được học tại trường về các thời điểm và tầm quan trọng của các lần chải răng nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh chưa ứng dụng những kiến thức đã được học tại trường vào trong thực hành hàng ngày mà thực hiện theo thói quen nhiều hơn, rõ rệt nhất là kết quả của lần chải răng sáng mới thức dậy, phần lớn học sinh và PHHS có thói quen này. Sau can thiệp, tỉ lệ học sinh chải răng sau khi ăn không thay đổi đáng kể ở nhóm chứng nhưng tăng rõ rệt ở nhóm nghiên cứu (tăng 65%) và có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm (p<0,001). Kết quả này cho thấy việc tăng cường nhắc nhở thực hành chải răng đã có tác động giúp học sinh nhận thức và cải thiện thói quen chải răng sau khi ăn. Tỉ lệ học sinh chải răng tối trước khi đi ngủ tăng 10% ở nhóm chứng (p<0,05) và 43,7% ở nhóm nghiên cứu (p<0,001). Có sự khác biệt rõ rệt giữa 2 nhóm về tỉ lệ này (p<0,001). Hầu hết học sinh ở nhóm nghiên cứu có chải răng vào tối trước khi đi ngủ, kết quả này phù hợp với kết quả gia tăng hiểu biết về lần chải răng quan trọng nhất của học sinh. Điều này chứng minh rằng khi học sinh nhận thức được tầm quan trọng của lần chải răng tối trước khi đi ngủ, các em sẽ thay đổi được hành vi và hình thành thói quen tốt. Tỉ lệ học sinh dùng kem đánh răng có Fluor như nhau ở 2 nhóm trước can thiệp. Sau can thiệp, 76,3% học sinh nhóm chứng và 92,5% học sinh nhóm nghiên cứu cho biết có sử dụng kem đánh răng có Fluor, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p<0,01). Kết quả cho thấy, hầu hết học sinh có chải răng với kem đánh răng, nhưng có thể chúng ít quan tâm kem có chứa gì và có tác dụng gì đối với sức khỏe. Theo thời gian, thói quen của học sinh sẽ cải thiện do học hỏi từ kinh nghiệm bản thân cũng như môi trường xung quanh và nếu có tăng cường thực hành thì sự cải thiện này sẽ cao hơn. Sự tự giác chải răng của học sinh nhóm can thiệp cũng có thay đổi rõ rệt và sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết quả này cho thấy, việc nhắc nhở thực hành chải răng mỗi ngày tại nhà đã giúp học sinh có ý thức tự giác hơn. Sự thay đổi tình trạng VSRM của học sinh Theo kết quả ở Bảng 6, trung bình điểm số OHI-S giữa hai nhóm học sinh không khác nhau trước can thiệp. Điểm số này phản ánh VSRM của hai nhóm học sinh ở mức độ kém (OHI- S>1,9). Sau can thiệp, giá trị này giảm ở hai nhóm. Tuy nhiên, trung bình điểm số OHI-S ở nhóm nghiên cứu giảm rõ rệt hơn (p<0,001) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (p<0,001). VSRM của nhóm nghiên cứu được cải thiện rõ rệt, chuyển từ kém lên trung bình (OHI-S <1,8). Trung bình điểm số OHI-S của học sinh nhóm chứng giảm nhưng VSRM vẫn còn ở mức độ kém (OHI-S>1,9) và tình trạng mảng bám giảm chủ yếu ở vùng răng 11 và 31. Kết quả này phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu trước đây (Nguyễn Thị Phương Uyên và cs, Vũ Thị Kiều Diễm)(8,14) và cho thấy có vẻ việc GDSKRM trong chương trình Nha Học Đường hiện nay chưa đem lại kết quả mong muốn thể hiện qua tình trạng VSRM và khả năng chải sạch răng của học sinh. Các biện pháp tăng cường GDSKRM riêng lẻ và thực hiện trong thời gian ngắn dù có kết quả cải thiện VSRM cũng như khả năng chải sạch răng của Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 190 học sinh rõ rệt nhưng dường như chưa đủ sức mang lại sự thay đổi lớn về tình trạng VSRM của học sinh. Xét về tỉ lệ % học sinh theo tình trạng VSRM, kết quả ở Bảng 7 cho thấy trước can thiệp, tình trạng VSRM của phần lớn học sinh cả hai nhóm ở mức kém, chiếm 80% ở nhóm chứng và 86,3% ở nhóm nghiên cứu; không có học sinh với tình trạng VSRM tốt ở cả hai nhóm; tỉ lệ học sinh có tình trạng VSRM trung bình là 20% ở nhóm chứng và 13,7% ở nhóm nghiên cứu. Sau can thiệp, tình trạng VSRM ở học sinh nhóm chứng gần như không thay đổi, trong khi ở nhóm nghiên cứu, tỉ lệ học sinh có tình trạng VSRM trung bình tăng đáng kể (48,8%); tỉ lệ học sinh có tình trạng VSRM kém giảm rõ rệt (50%) và có sự khác biệt đáng kể về tình trạng VSRM giữa hai nhóm (p<0,001). Kết quả cải thiện VSRM bằng các biện pháp tăng cường GDSKRM tương tự cũng được chứng minh qua một số nghiên cứu khác (Ferrazzano và cs, Leous, Rodrigues và cs, Swain và cs)(1,5,10,11). Như vậy, tăng cường GDSKRM tại nhà có hiệu quả củng cố và nâng cao kiến thức VSRM đồng thời cải thiện thói quen và tình trạng VSRM của học sinh. Việc tự theo dõi chải răng là phương tiện giúp học sinh tự giác trong thực hành chải răng và tập cho các em hình thành thói quen VSRM tốt. Sự thay đổi thói quen VSRM của phụ huynh học sinh Kết quả ở Bảng 8 cho thấy, trước can thiệp tỉ lệ PHHS chải răng ít 2 lần mỗi ngày chiếm 57,6 %, tỉ lệ PHHS chải răng sau khi ăn và tối trước khi đi ngủ rất thấp. Hầu hết PHHS có thói quen chải răng mỗi ngày một lần vào buổi sáng mới thức dậy. Thói quen này cũng rất cao ở học sinh cho thấy các thành viên trong gia đình có thói quen giống nhau và phản ánh thói quen chưa đúng vẫn còn tồn tại ở số đông học sinh và PHHS ở vùng ven hoặc ở tầng lớp lao động. Điều này cũng có thể là do phụ huynh chưa hiểu biết được tầm quan trọng của việc chải răng sau khi ăn cũng như buổi tối trước khi đi ngủ. Ngoài ra, thói quen chải răng còn chịu ảnh hưởng bởi cách sống, điều kiện ăn uống, sinh hoạt và ý thức của mỗi người và gia đình. Sau can thiệp, tỉ lệ PHHS chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày tăng rõ rệt (p<0,001) và chiếm đến 97%. Tỉ lệ PHHS chải răng sau khi ăn và tối trước khi ngủ tăng đáng kể (72,7%) so với trước can thiệp (1,5%). Kết quả cho thấy có sự cải thiện rõ rệt trong thói quen chải răng của PHHS. Tỉ lệ PHHS biết kem đánh răng mình đang sử dụng có Fluor tăng lên 83,3% sau can thiệp và có khác biệt rõ rệt so với trước can thiệp (p<0,001) cho thấy qua việc thực hành chải răng mỗi ngày cùng học sinh, PHHS đã có quan tâm hơn đến thành phần và công dụng của loại kem đánh răng được sử dụng. Tỉ lệ PHHS nhận thức được chải răng vào buổi tối trước khi đi ngủ là quan trọng nhất tăng từ 31,8% lên 92,4% và có khác biệt đáng kể so với trước nghiên cứu (p<0,001). Tỉ lệ PHHS biết cách chải răng đúng là 98,5% so với trước nghiên cứu tỉ lệ này chỉ có 18,2%. Điều này chứng minh khi phụ huynh được tác động gián tiếp bởi việc nhắc nhở và tự theo dõi chải răng của học sinh, phụ huynh quan tâm và tìm hiểu nhiều hơn về VSRM, họ có thể học hỏi từ kinh nghiệm bản thân và từ nhiều nguồn thông tin xung quanh, đặc biệt là từ chính con của họ. Tương tự, trong nghiên cứu của Garbin và cs(2), tỉ lệ phụ huynh cho rằng họ học được từ trẻ những vấn đề về sức khỏe răng miệng là 90,5% trong đó chải răng là yếu tố được các phụ huynh quan tâm và 87,3% phụ huynh cho biết có sự thay đổi thói quen về sức khỏe răng miệng của các thành viên trong gia đình. Kết quả ở Bảng 9 cho thấy sau 1 tháng thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà, PHHS cũng quan tâm đến VSRM của con nhiều hơn so với trước can thiệp. Điều này cho thấy việc nhắc nhở học sinh chải răng mỗi ngày có tác động làm tăng sự quan tâm của PHHS đến các vấn đề răng miệng của con và của chính mình. Có 95,5% phụ huynh cho rằng việc dán bảng nhắc nhở học sinh chải răng tại nhà là cần thiết Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191 và tỉ lệ phụ huynh đồng ý tiếp tục dán bảng nhắc nhở học sinh chải răng là 90,9 %. Đây là điều thuận lợi nếu tiếp tục triển khai và mở rộng mô hình tăng cường GDSKRM tại nhà bên cạnh chương trình GDSKRM tại trường trong thời gian tới. Như vậy, mô hình tăng cường GDSKRM tác động đến việc thực hành rất thực tế và đơn giản trên đối tượng học sinh, nhắc nhở các em chải răng mỗi ngày tại nhà, trao quyền cho các em tự theo dõi việc chải răng của mình và gia đình. Với lứa tuổi này trẻ thích tự khẳng định mình nên rất hào hứng tham gia và nhắc nhở cha mẹ tham gia. Việc tăng cường GDSKRM tại nhà tuy không trực tiếp cung cấp kiến thức VSRM nhưng có tác động giúp PHHS hiểu và cùng học sinh tham gia thực hành chải răng, một biện pháp VSRM quan trọng trong việc phòng ngừa các bệnh răng miệng. Bên cạnh đó, học sinh cũng truyền đạt những kiến thức được học ở trường cho cha mẹ, đặc biệt là cách chải răng. Hạn chế của nghiên cứu Nghiên cứu này còn một số hạn chế như: chọn mẫu không xác suất; số lượng cá thể trong mẫu PHHS mất nhiều (19,5%), thời gian thực hiện nghiên cứu tương đối ngắn. Vì vậy rất cần có thêm các nghiên cứu tiếp tục sâu và rộng hơn, thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá sự thay đổi và duy trì các kết quả cải thiện thói quen VSRM cũng như tình trạng sức khỏe răng miệng của học sinh và PHHS. KẾT LUẬN Sau một tháng thực hiện và đánh giá hiệu quả của việc tăng cường GDSKRM với hình thức nhắc nhở và tự theo dõi chải răng tại nhà ở học sinh lớp Bốn trường Tiểu học Phong Phú, huyện Bình Chánh, TP. HCM, có thể đưa ra một số kết luận như sau: Kiến thức VSRM của học sinh Trước can thiệp, tỉ lệ học sinh có kiến thức VSRM đạt yêu cầu rất thấp và không khác biệt giữa 2 nhóm học sinh. Sau can thiệp, tỉ lệ này không thay đổi đáng kể ở nhóm chứng, nhưng tăng rõ rệt ở nhóm có tăng cường GDSKRM tại nhà (từ 38,8% lên 61,3%). Sự khác biệt về kiến thức VSRM giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Thói quen VSRM của học sinh Trước can thiệp, không có sự khác biệt về thói quen VSRM giữa 2 nhóm học sinh. Sau can thiệp, thói quen VSRM cải thiện rõ rệt ở nhóm học sinh có tăng cường GDSKRM tại nhà. Sự khác biệt về thói quen VSRM giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001 và p<0,01). Tình trạng VSRM của học sinh Trước can thiệp, không có sự khác biệt về tình trạng VSRM giữa 2 nhóm học sinh. Sau can thiệp, tình trạng VSRM cải thiện rõ rệt ở nhóm học sinh có tăng cường GDSKRM tại nhà (p<0,001). Sự khác biệt về tình trạng VSRM giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tuy nhiên, tỉ lệ học sinh có tình trạng VSRM trung bình vẫn còn khá cao. Thói quen VSRM của PHHS Trước can thiệp, tỉ lệ PHHS chải răng sau khi ăn và chải răng đúng rất thấp; tỉ lệ PHHS chải răng ít nhất 2 lần mỗi ngày, chải răng buổi tối trước khi đi ngủ và chải răng với kem có Fluor ở mức trung bình; tỉ lệ PHHS quan tâm đến VSRM của con rất thấp. Sau can thiệp, thói quen VSRM của PHHS có cải thiện rõ rệt so với trước can thiệp (p<0,001). Đề xuất - Mô hình tăng cường GDSKRM tại nhà không ảnh hưởng nhiều đến thời gian học tập của học sinh ở trường cũng như ở nhà, hình thức dễ thực hiện vì vậy có thể mở rộng trên số lượng lớn học sinh, áp dụng cho nhiều lứa tuổi học sinh Tiểu học. - Cải tiến GDSKRM tại trường kết hợp với thực hiện tăng cường GDSKRM tại nhà: Tăng cường hướng dẫn thực hành chải răng. Nhắc nhở học sinh chải răng tại nhà kết hợp việc tự theo dõi chải răng của học sinh và phụ huynh. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 192 Thực hiện tăng cường GDSKRM với thời gian dài hơn: 6-9 tháng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ferrazzano G.F., Cantile T., Sangianantoni G., Ingenito A. (2008). "Effectiveness of a motivation method on the oral hygiene of children". Eur J Paediatr Dent. 9(4). pp. 183-187. 2. Garbin C.A.S., Garbin A.J.I., Dos Santos K.T., Lima D.P. (2009). "Oral health education in schools: promoting health agents". International Journal of Dental Hygiene. 7(3). pp. 212- 216. 3. Goel P., Sehgal M., Mittal R. (2005). "Evaluating the effectiveness of school-based dental health education program among children of difference socioeconomic groups". Journal of Indian Society of Pedodontics and Preventive Dentistry. 23(3). pp. 131-133. 4. Kwan S., Petersen P.E., Pine C.M., Borutta A. (2005). "Health- promoting schools: an opportunity for oral health promotion". Bulletin of the World Health Organization. 83. pp. 677-685. 5. Leous P., Palianskaya L., Leous L. (2009). "Oral Hygiene and Gingival Inflammation in 6-8 years old from a Junior School in Minsk who participated in a Supervised Oral Hygiene Programme". OHDMBSC. 3(1). 6. Lê Thị Kim Oanh (2002). "Khảo sát kiến thức và tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh tiểu học tỉnh Long An". Luận văn Thạc sĩ. Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 7. Livny A., Vered Y., Slouk L., Sgancohen H.D. (2008). "Oral health promotion for schoolchildren-evaluation of a pragmatic approach with emphasis on improving brushing skills". BMC Oral Health. 8. 8. Nguyễn Thị Phương Uyên, Trần Thu Thủy, Đào Thị Hồng Quân (2004). "Khảo sát hiệu quả làm sạch mảng bám của phương pháp hướng dẫn chải răng tích cực trên học sinh tiểu học". Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học Răng Hàm Mặt, TP. Hồ Chí Minh. Trang 50-58. 9. Petersen PE (2004). "Effect of a school-based oral health education programme in Wuhan City, Peoples Republic of China". International Dental Journal. 54. pp. 33-41. 10. Rodrigues J.A., Dos Santos K.T., Garcia P.P.N.S., Corona S.A.M., Loffredo L.C.M. (2003). "Evaluation of motivation methods used to obtain appropriate oral 11. Swain J.J., Allard G.B., Holborn S.W. (1982). "The good toothbrushing game: a school-based dental hygiene program for increasing the toothbrushing effectiveness of children". Journal of applied behavior analysis. 15(1). pp. 171-176. 12. Toassi R.F., Petry P.C. (2002). "Motivation on plaque control and gingival bleeding in school children". Rev Saude Publica. 36(5). pp. 634-637. 13. Võ Thế Quang, Nguyễn Thị Tịnh, Vũ Thị Ngọc Hương (1987). "Giáo dục sức khỏe răng miệng cho học sinh". Nhà xuất bản Y học TP. Hồ Chí Minh. 14. Vũ Thị Kiều Diễm (2005). "Đánh giá hiệu quả chải răng có theo dõi trên tình trạng vệ sinh răng miệng của học sinh một trường tiểu học ở TP. Hồ Chí Minh". Luận văn Thạc sĩ. Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 15. Vũ Thị Thúy Hồng, Huỳnh Anh Lan, Võ Đắc Tuyến (2008). "Tình trạng mảng bám răng ở học sinh 12 tuổi". Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học Răng Hàm Mặt. TP. Hồ Chí Minh. Trang 74-80.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcai_thien_thoi_quen_ve_sinh_rang_mieng_cua_mot_so_hoc_sinh_t.pdf
Tài liệu liên quan