Cảm nhận đau của bệnh nhân trong điều trị chỉnh hình răng mặt với khí cụ cố định

Thời điểm kết thúc đau Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xác định bệnh nhân hết đau khi không còn tình trạng đau khi ăn nhai; bởi lẽ, trong một số trường hợp, khi không hoạt động chức năng, bệnh nhân không cảm thấy có bất kỳ sự khó chịu nào, nhưng khi ăn nhai, tình trạng đau vẫn còn và vẫn gây ảnh hưởng đến bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Phần lớn bệnh nhân hết đau trong vòng bảy ngày, một số ít trường hợp vẫn còn đau sau bảy ngày. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận sự ảnh hưởng dù là nhỏ nhất của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày của bệnh nhân. Theo Brown và Moerenhout (1991), đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân và là nguyên nhân chủ yếu gây gián đoạn quá trình điều trị(2). Hầu hết bệnh nhân gặp khó khăn trong việc ăn nhai, do đó, họ phải thay đổi chế độ ăn và tính chất của thức ăn(11). Scheurer P. A. và cộng sự (1996) cho rằng: “Ăn nhai dường như là hoạt động gây đau nhiều nhất, và đau khi ăn nhai là vấn đề gây ảnh hưởng lớn nhất trong các hoạt động thường ngày của bệnh nhân(11). Trong cả hai giai đoạn đặt thun tách kẽ và gắn dây NiTi, tình trạng đau gây ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu ở hai ngày đầu tiên và nhiều nhất ở thời điểm sau 24 giờ. Kết quả nghiên cứu này cũng có sự tương đồng đối với nghiên cứu của Erdinc và Dincer (2004)(4), gần 50% bệnh nhân gặp vấn đề với các hoạt động thường ngày vào ngày đầu tiên và ngày thứ hai, và tương đồng với nghiên cứu của Scheurer P. A. và cộng sự (1996)(11), ảnh hưởng của tình trạng đau lên hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu là ở hai ngày đầu tiên sau khi đặt thun tách kẽ hay gắn dây cung, kể từ ngày thứ ba trở đi, sự ảnh hưởng giảm dần.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm nhận đau của bệnh nhân trong điều trị chỉnh hình răng mặt với khí cụ cố định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 236 CẢM NHẬN ĐAU CỦA BỆNH NHÂN TRONG ĐIỀU TRỊ CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT VỚI KHÍ CỤ CỐ ĐỊNH Dương Nguyễn Quỳnh Ly*, Đống Khắc Thẩm** TÓM TẮT Mục tiêu: nghiên cứu này nhằm đánh giá tình trạng đau và ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày của bệnh nhân đang điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định ở hai giai đoạn: giai đoạn đặt thun tách kẽ và giai đoạn gắn dây NiTi 0.014. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 46 bệnh nhân, tuổi từ 12 đến 25, đang điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM. Tình trạng đau (tỉ lệ đau, thời điểm bắt đầu đau và thời điểm kết thúc đau, thời điểm đau nhiều nhất ) và ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày (vấn đề ăn nhai, vệ sinh răng miệng, giấc ngủ ban đêm, hoạt động xã hội, hoạt động nghỉ ngơi, giải trí) của bệnh nhân ở cả hai giai đoạn được đánh giá trong vòng 7 ngày, và vào một thời điểm nhất định trong ngày thông qua bộ câu hỏi tự điền. Mức độ đau (điểm số đau) của bệnh nhân được đánh giá dựa trên thang VAS (Visual Analog Scale). Các dữ liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS phiên bản 16.0. Kết quả và kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân đau nhiều nhất là ở thời điểm sau 24 giờ và tình trạng đau ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu là vào hai ngày đầu tiên. Trên cơ sở đó, bác sĩ điều trị có thể giải thích những vấn đề này để trấn an tâm lý cho bệnh nhân, đồng thời khuyến cáo bệnh nhân nên có chế độ ăn mềm, lỏng và nếu cần có thể kê đơn thuốc giảm đau, đặc biệt là trong hai ngày đầu tiên sau khi điều trị. Từ khóa: đau, chỉnh hình, khí cụ cố định. ABTRACT PAIN EVALUATION ON PATIENTS UNDERGOING ORTHODONTIC TREATMENT WITH FIXED APPLIANCES. Dương Nguyen Quynh Ly, Dong Khac Tham * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 236 - 242 Objective: The aim of this study was to evaluate the impact of pain on daily performances of patients undergoing orthodontic treatment with fixed appliance in two phases: dental elastic separator phase and 0.014 Niti wire phase. Subjects and methods: Cross-sectional descriptive trial was conducted on 46 patients aging 12- 25 years old who underwent orthodontic treatment with fixed appliances at Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy, HCMC. Pain experience (pain rate, start time and finish time of pain, highest point of pain) and the impact of pain on daily performances (chewing problems, oral hygiene, night sleep, social activities, activities of rest and recreation) of patients in both phases were evaluated within 7 days, and at a certain time of day by the questionnaires . The level of pain (pain score) of the patients was evaluated based on the VAS (Visual Analog Scale). The data was statistically processed using SPSS version 16.0 software. * Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM ** TS- BS- GV Bộ môn CHRM-Khoa RHM, ĐHYD TP.HCM Tác giả liên lạc: TS. Đống Khắc Thẩm ĐT: 0913633840 Email: dktham@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 237 Results and conclusion: The results showed that patients had the worst experience of pain at the 24th hour and the pain impacts on daily performances mainly occurred in the first two days. On that basis, the orthodontic practitioners can explain these issues to ease the patients’fear, and patients should be advised to go on a diet including soft- textured food. If necessary, pain medication can be prescribed, especially in the first two days after treatment. Key words: pain, orthodontics, fixed appliance. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây, mức sống của người Việt Nam ngày càng cao nên điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt ngày càng trở nên phổ biến. Chỉnh Hình Răng Mặt không chỉ đem lại thẩm mỹ mà cả chức năng ăn nhai cho mỗi cá nhân và đau là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến bệnh nhân bận tâm và lo lắng trước khi quyết định điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt, đặc biệt là điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định(10) Trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định, tất cả các thủ thuật như đặt thun tách kẽ, gắn dây cung, kích hoạt dây cung, tháo mắc cài... đều gây đau cho bệnh nhân(7). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng đau là một trong những tác động không mong muốn của điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt(10), và cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng gây gián đoạn quá trình điều trị(2,10) Cảm nhận đau của bệnh nhân thì rất khó để đo lường, đánh giá và thay đổi tùy thuộc vào đáp ứng của từng cá nhân(3). Đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định thường bắt đầu vài giờ sau khi áp dụng lực Chỉnh hình và thường kết thúc sau năm ngày(8). Tuy nhiên, vẫn chưa có sự nhất trí về việc đau bắt đầu với cường độ như thế nào và kéo dài trong bao lâu...Điều này có thể do khác biệt về thiết kế nghiên cứu, số lượng và trình tự của bảng câu hỏi, và cỡ mẫu nghiên cứu(11). Rõ ràng, đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định là một vấn đề rất thường gặp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, bên cạnh những nghiên cứu về dịch tể học, hình thái, chẩn đoán hình ảnh, các biện pháp điều trị thì nghiên cứu về vấn đề đau hầu như không có. Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu: “Cảm nhận đau của bệnh nhân trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định” với các mục tiêu chuyên biệt sau: 1. Đánh giá tình trạng đau của bệnh nhân: tỉ lệ đau, thời điểm bắt đầu đau và kết thúc đau, thời điểm đau nhiều nhất khi không hoạt động chức năng và khi ăn nhai ở hai giai đoạn: giai đoạn đặt thun tách kẽ và giai đoạn gắn dây cung đầu tiên (dây NiTi 0.014). 2. Đánh giá sự ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày (vấn đề ăn nhai, vệ sinh răng miệng, giấc ngủ ban đêm, hoạt động xã hội, hoạt động nghỉ ngơi, giải trí) của bệnh nhân ở hai giai đoạn. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 46 bệnh nhân, từ 12 – 25 tuổi, đang điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chọn vào mẫu Bệnh nhân ở giai đoạn đầu của quá trình điều trị, đồng ý tham gia nghiên cứu và có sức khỏe tốt, tâm lý ổn định. Răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất tiếp xúc đầy đủ ở phía gần và phía xa với các răng kế cận. Tiêu chuẩn loại khỏi mẫu Bệnh nhân đang sử dụng thuốc giảm đau do các bệnh khác, bệnh nhân có chỉ định sử dụng các loại khí cụ điều trị Chỉnh Hình khác trước và trong quá trình nghiên cứu. Phương tiện nghiên cứu Bộ câu hỏi tự điền dành cho bệnh nhân, giống nhau ở cả 2 giai đoạn nghiên cứu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 238 Thông tin khai thác về tình trạng đau của bệnh nhân trong từng ngày là giống nhau và sẽ được chia làm những phần riêng biệt để không ảnh hưởng đến sự ghi nhận về tình trạng đau của bệnh nhân. Tất cả bệnh nhân đều được sử dụng cùng một loại thun tách kẽ và áp dụng cùng phương pháp sử dụng kẹp để đặt thun tách kẽ. Bệnh nhân được đặt tổng cộng 8 sợi thun tách kẽ ở giữa răng số 5 và răng số 6, giữa răng số 6 và răng số 7. Bệnh nhân được gắn cùng một loại mắc cài trên toàn bộ 12 răng (từ răng 6 bên này đến răng 6 bên kia; không gắn mắc cài ở răng 7) bởi cùng một loại chất gắn. Sau đó, bệnh nhân được gắn dây NiTi 0.014 (của cùng một hãng sản xuất) và được chia làm 2 nhóm: nhóm được gắn dây NiTi 0.014 cùng lúc ở cả hai hàm và nhóm được gắn dây NiTi 0.014 lần lượt ở từng hàm. Các thời điểm đánh giá tình trạng đau của bệnh nhân Sau 6, 24 giờ; sau 2,3,4,5,6,7 ngày Nghiên cứu viên liên lạc trực tiếp với bệnh nhân hằng ngày qua điện thoại để nhắc nhở bệnh nhân điền thông tin vào bộ câu hỏi và bộ câu hỏi sẽ được thu hồi trong lần điều trị kế tiếp. Phương pháp ghi nhận điểm số đau của bệnh nhân Sử dụng thang đánh giá VAS (được chia vạch từ 0 - 100 mm): bệnh nhân đánh dấu vị trí trên thang đo tương ứng với mức độ đau trầm trọng nhất mà họ cảm nhận được trong mỗi thời điểm nghiên cứu (trong 6 giờ đầu tiên, trong ngày đầu tiên,..). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Ảnh hưởng của đau lên các hoạt động thường ngày Chia làm 4 mức độ: 0 (không ảnh hưởng), I (Ít ảnh hưởng: hơi đau khi ăn, khi VSRM, hơi khó ngủ, hơi mất tập trung khi làm việc, khi giải trí), II (Ảnh hưởng vừa phải: đau nhiều khi ăn, khi VSRM, thỉnh thoảng thức giấc giữa đêm hay ngủ không sâu, khó tập trung khi làm việc, khi giải trí), III (Ảnh hưởng rất nhiều: không ăn được, không VSRM được, không ngủ được, không tập trung được khi làm việc, khi giải trí). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tình trạng đau Tỉ lệ đau Trong giai đoạn đặt thun tách kẽ, có 93,5% bệnh nhân trải qua tình trạng đau, Trong giai đoạn gắn dây NiTi 0.014, 100% bệnh nhân đều trải qua tình trạng đau. Thời điểm bắt đầu đau Phần lớn bệnh nhân bắt đầu cảm thấy đau trong vòng 4 giờ đầu tiên (93% trong tổng số 43 bệnh nhân có đau ở giai đoạn đặt thun tách kẽ; 73,9 - 82,7% ở nhóm gắn dây NiTi 0.014). Số bệnh nhân còn lại bắt đầu cảm thấy đau trong khoảng thời gian từ 4 - 6 giờ (bảng 1). Bảng 1: Thời điểm bắt đầu đau Thời điểm (giờ) Tách kẽ (n = 43) n1 (%) Dây NiTi 0.014 (n = 46) n1 (%) 2 hàm (n = 23) Từng hàm (n = 23) HT HD 1 - 4 40 (93,0) 20 (73,9) 19 (82,6) 18 (78,3) 5 - 6 3 (7,0) 6 (26,1) 4 (17,4) 5 (21,7) n1: số lượng bệnh nhân bị ảnh hưởng. Thời điểm đau nhiều nhất Điểm số đau của bệnh nhân khi không hoạt động chức năng cũng như khi ăn nhai ở giai đoạn đặt thun tách kẽ (bảng 2) và giai đoạn gắn dây NiTi (bảng 3) cao nhất ở thời điểm sau 24 giờ, và giảm dần theo thời gian. Thời điểm kết thúc đau Ở giai đoạn đặt thun tách kẽ, 100% bệnh nhân hết đau trong vòng bảy ngày. Ở giai đoạn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 239 gắn dây NiTi, vẫn còn một tỉ lệ nhỏ bệnh nhân còn đau sau bảy ngày. Bảng 2: Thời điểm kết thúc đau Thời điểm (ngày) Tách kẽ (n = 43) n1 (%) Dây NiTi 0.014 (n = 46) n1 (%) 2 hàm (n = 23) Từng hàm (n = 23) HT HD 1 - 7 43(100,0) 20 (87,0) 22 (95,7) 22 (95,7) > 7 ngày 0 (0,0) 3 (13,0) 1 (4,3) 1 (4,3) Ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày Ảnh hưởng của tình trạng đau lên vấn đề ăn nhai của bệnh nhân Tình trạng đau gây ảnh hưởng đến vấn đề ăn nhai của toàn bộ bệnh nhân ở tất cả các thời điểm nghiên cứu (trừ ngày thứ bảy trong giai đoạn đặt thun tách kẽ). Bảng 3: Ảnh hưởng của tình trạng đau lên vấn đề ăn nhai Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 6 giờ 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày T á c h k ẽ (n = 4 3 ) I 79,1 51,3 67,6 83,9 82,4 100,0 100,0 0,0 II 14,0 38,5 24,3 9,7 17,6 0,0 0,0 0,0 III 6,9 10,2 8,1 6,4 0,0 0,0 0,0 0,0 D â y N iT i 0 .0 1 4 2 h à m (n = 2 3 ) I 39,1 8,7 21,7 52,2 77,3 75,0 70,0 100,0 II 52,2 47,8 47,8 39,1 18,2 25,0 30,0 0,0 III 8,7 43,5 30,5 8,7 4,5 0,0 0,0 0,0 H T (n = 2 3 ) I 26,1 17,4 21,7 63,6 73,7 80,0 71,4 100,0 II 52,2 43,5 56,8 22,7 26,3 20,0 28,6 0,0 III 21,7 39,1 21,7 13,7 0,0 0,0 0,0 0,0 H D (n = 2 3 ) I 13,0 4,3 30,4 60,9 77,8 80,0 77,8 100,0 II 65,3 42,2 52,2 26,1 22,2 20,0 22,2 0,0 III 21,7 43,5 17,4 13,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Ảnh hưởng của tình trạng đau lên vấn đề vệ sinh răng miệng Tình trạng đau gây ảnh hưởng đến vấn đề VSRM chủ yếu ở hai ngày đầu tiên, nhiều nhất là ở thời điểm sau 24 giờ. Bảng 4: Ảnh hưởng của tình trạng đau lên vấn đề vệ sinh răng miệng Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày T á c h k ẽ (n = 4 3 ) I 52,5 55,9 24,0 0,0 0,0 0,0 0,0 II 10,0 5,8 4,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 D â y N iT i 0 .0 1 4 2 h à m (n = 2 3 ) I 60,9 65,2 65,2 36,9 23,1 33,3 0,0 II 34,8 26,1 8,7 10,5 15,4 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H T (n = 2 3 ) I 47,8 54,5 65,0 66,7 60,0 25,0 0,0 II 47,8 36,5 10,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H D (n = 2 3 ) I 34,8 39,1 55,0 46,7 41,7 16,7 0,0 II 56,5 39,1 15,0 6,7 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Ảnh hưởng của tình trạng đau lên giấc ngủ ban đêm của bệnh nhân Tình trạng đau ảnh hưởng nhiều nhất là ở đêm đầu tiên và kéo dài trong vòng 4 ngày. Bảng 5: Mức độ ảnh hưởng của tình trạng đau lên giấc ngủ ban đêm Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày T á c h k ẽ (n = 4 3 ) I 17,5 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 II 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 D â y N iT i 0 .0 1 4 2 h à m (n = 2 3 ) I 26,1 26,1 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 II 4,3 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H T (n = 2 3 ) I 34,8 36,4 25,0 6,7 0,0 0,0 0,0 II 4,3 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H D I 26,1 26,1 27,3 20,0 0,0 0,0 0,0 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 240 Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày (n = 2 3 ) II 17,4 4,3 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động xã hội của bệnh nhân Tình trạng đau gây ảnh hưởng đến hoạt động xã hội (học tập, làm việc) của bệnh nhân chủ yếu ở hai ngày đầu tiên, nhiều nhất là ở thời điểm sau 24 giờ. Bảng 6: Mức độ ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động xã hội Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 6 giờ 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày T á c h k ẽ (n = 4 3 ) I 25,6 47,5 38,2 4,0 0,0 0,0 0,0 0,0 II 0,0 2,5 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 D â y N iT i 0 .0 1 4 2 h à m (n = 2 3 ) I 56,5 65,2 65,2 47,8 10,5 7,7 0,0 0,0 II 8,7 21,8 13,1 4,3 5,3 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H T (n = 2 3 ) I 65,2 56,5 63,6 60,0 46,7 30,0 0,0 0,0 II 13,1 34,8 22,7 5,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H D (n = 2 3 ) I 69,5 52,2 56,5 40,9 40,0 25,0 16,7 0,0 II 13,1 39,1 17,4 9,1 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí của bệnh nhân Tình trạng đau gây ảnh hưởng đến hoạt động nghỉ ngơi, giải trí chủ yếu ở hai ngày đầu tiên, nhiều nhất là ở thời điểm sau 24 giờ. Bảng 7: Mức độ ảnh hưởng của tình trạng đau lên các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí Mức độ ảnh hưởng (%) Thời điểm 6 giờ 24 giờ 2 ngày 3 ngày 4 ngày 5 ngày 6 ngày 7 ngày T á c h k ẽ (n = 4 3 ) I 14,0 27,5 26,5 8,0 0,0 0,0 0,0 0,0 II 0,0 2,5 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 D â y N iT i 0 .0 1 4 2 h à m (n = 2 3 ) I 43,5 73,9 65,2 73,9 10,5 7,7 0,0 0,0 II 4,3 8,7 4,4 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H T (n = 2 3 ) I 60,9 52,2 59,1 55,0 40,0 20,0 0,0 0,0 II 13,0 30,4 22,7 5,0 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 H D (n = 2 3 ) I 56,5 47,8 47,8 40,9 40,0 25,0 0,0 0,0 II 13,0 34,8 17,4 9,1 0,0 0,0 0,0 0,0 III 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy: hầu hết bệnh nhân trải qua tình trạng đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định. Đau thường bắt đầu trong vòng bốn giờ đầu tiên, một số trường hợp bắt đầu đau trong khoảng thời gian 4 - 6 giờ. Nghiên cứu của Ngan và cộng sự (1989 và 1984), Jones M. L. (1984) (5), Jones M. L. và Richmond S. (1985) (7), Jones M. L. và Chan C. (1992) (6), Erdinc A. M., Dincer B. (2004) (4) cũng cho kết quả tương tự. Trong giai đoạn đặt thun tách kẽ: một vài bệnh nhân không trải qua tình trạng đau (VAS = 0), tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều trải qua tình trạng đau (93,5%). Điểm số đau trung bình của bệnh nhân cao nhất ở thời điểm sau 24 giờ (điểm số đau trung bình là 28,15), một vài bệnh nhân có điểm số đau cao nhất lên đến 80. Điểm số đau giảm dần theo thời gian từ ngày thứ hai đến ngày thứ bảy. Sự khác biệt về điểm số đau trung bình giữa các thời điểm nghiên cứu hầu hết có ý nghĩa thống kê (bảng 3.4). Tương tự, nghiên cứu của Bergius M., Berggren U., Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 241 Kiliaridis S. (2002) ghi nhận điểm số đau trung bình của bệnh nhân cao nhất ở thời điểm 24 giờ sau khi đặt thun tách kẽ (với điểm số đau trung bình là 43,7)(1). Trong giai đoạn gắn dây NiTi 0.014: Điểm số đau trung bình của bệnh nhân cao nhất ở thời điểm sau 24 giờ và giảm dần theo thời gian từ ngày thứ hai đến ngày thứ bảy. Sự khác biệt về điểm số đau trung bình giữa các thời điểm nghiên cứu hầu hết có ý nghĩa thống kê (bảng 3.3). Các nghiên cứu trước đây của Jones M. L. (1984)(5), Ngan và cộng sự (1989 và 1994)(8,9), Jones M. L. và Chan C. (1992)(6), Erdinc A. M. và Dincer B. (2004)(4), cũng kết luận rằng đau lên đến đỉnh điểm sau 24 giờ gắn dây cung, và giảm dần theo thời gian. Trong phạm vi nghiên cứu này, việc gắn mắc cài cùng lúc ở cả hai hàm hay gắn từng hàm không có nhiều ảnh hưởng đến điểm số đau của bệnh nhân. Tuy nhiên, vấn đề gắn mắc cài ở cả hai hàm cùng lúc hay chỉ gắn ở từng hàm là tùy thuộc vào khớp cắn của bệnh nhân, mục tiêu điều trị cũng như kế hoạch và phương pháp điều trị của mỗi bác sĩ. Vì vậy, cần có một nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này để có thể đánh giá một cách cụ thể ảnh hưởng của việc gắn mắc cài ở cả hai hàm hay lần lượt từng hàm đến điểm số đau của bệnh nhân. Thời điểm kết thúc đau Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xác định bệnh nhân hết đau khi không còn tình trạng đau khi ăn nhai; bởi lẽ, trong một số trường hợp, khi không hoạt động chức năng, bệnh nhân không cảm thấy có bất kỳ sự khó chịu nào, nhưng khi ăn nhai, tình trạng đau vẫn còn và vẫn gây ảnh hưởng đến bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Phần lớn bệnh nhân hết đau trong vòng bảy ngày, một số ít trường hợp vẫn còn đau sau bảy ngày. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận sự ảnh hưởng dù là nhỏ nhất của tình trạng đau lên các hoạt động thường ngày của bệnh nhân. Theo Brown và Moerenhout (1991), đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân và là nguyên nhân chủ yếu gây gián đoạn quá trình điều trị(2). Hầu hết bệnh nhân gặp khó khăn trong việc ăn nhai, do đó, họ phải thay đổi chế độ ăn và tính chất của thức ăn(11). Scheurer P. A. và cộng sự (1996) cho rằng: “Ăn nhai dường như là hoạt động gây đau nhiều nhất, và đau khi ăn nhai là vấn đề gây ảnh hưởng lớn nhất trong các hoạt động thường ngày của bệnh nhân(11). Trong cả hai giai đoạn đặt thun tách kẽ và gắn dây NiTi, tình trạng đau gây ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu ở hai ngày đầu tiên và nhiều nhất ở thời điểm sau 24 giờ. Kết quả nghiên cứu này cũng có sự tương đồng đối với nghiên cứu của Erdinc và Dincer (2004)(4), gần 50% bệnh nhân gặp vấn đề với các hoạt động thường ngày vào ngày đầu tiên và ngày thứ hai, và tương đồng với nghiên cứu của Scheurer P. A. và cộng sự (1996)(11), ảnh hưởng của tình trạng đau lên hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu là ở hai ngày đầu tiên sau khi đặt thun tách kẽ hay gắn dây cung, kể từ ngày thứ ba trở đi, sự ảnh hưởng giảm dần. KẾT LUẬN Hầu hết bệnh nhân đều trải qua tình trạng đau trong điều trị Chỉnh Hình Răng Mặt với khí cụ cố định. Điểm số đau của bệnh nhân khi không hoạt động chức năng, khi ăn nhai cũng như cao nhất ở thời điểm sau 24 giờ, sau đó giảm dần theo thời gian. Đau gây ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày của bệnh nhân chủ yếu ở hai ngày đầu tiên và nhiều nhất ở thời điểm sau 24 giờ. Trên cơ sở đó, bác sĩ điều trị có thể cung cấp và giải thích những vấn đề này để trấn an tâm lý cho bệnh nhân, đồng thời khuyến cáo bệnh nhân nên có chế độ ăn mềm, lỏng và nếu cần có thể kê đơn thuốc giảm đau, đặc biệt là trong hai ngày đầu tiên sau khi điều trị. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 242 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bergius M et al. (2002), "Experience of pain during an orthodontic procedure", Eur J Oral Sci, 110 (2), pp.92-98. 2. Brown DF and Moerenhout RG (1991), "The pain experience and psychological adjustment to orthodontic treatment of preadolescents, adolescents, and adults", Am J Orthod Dentofacial Orthop, 100 (4), pp.349-356. 3. Burstone CJ (1962), "The biomechanics of tooth movement", Vistas in orthodontics, Lea & Febiger, Philadelphia, pp.197-213. 4. Erdinc AM and Dincer B (2004), "Perception of pain during orthodontic treatment with fixed appliances", Eur J Orthod, 26 (1), pp.79-85. 5. Jones ML (1984), "An investigation into the initial discomfort caused by placement of an archwire", Eur J Orthod, 6 (1), pp.48-54. 6. Jones ML and Chan C (1992), "Pain in the early stages of orthodontic treatment", J Clin Orthod, 26 (5), pp.311-313. 7. Jones ML and Richmond S (1985), "Initial tooth movement: force application and pain--a relationship?", Am J Orthod, 88 (2), pp.111-116. 8. Ngan P, et al. (1989), "Perception of discomfort by patients undergoing orthodontic treatment", Am J Orthod Dentofacial Orthop, 96 (1), pp.47-53. 9. Ngan P, et al. (1994), "The effect of ibuprofen on the level of discomfort in patients undergoing orthodontic treatment", Am J Orthod Dentofacial Orthop, 106 (1), pp.88-95. 10. Oliver RG and Knapman YM (1985), "Attitudes to orthodontic treatment", Br J Orthod, 12 (4), pp.179-188. 11. Scheurer PA, et al. (1996), "Perception of pain as a result of orthodontic treatment with fixed appliances", Eur J Orthod, 18 (4), pp.349-357. Ngày nhận bài báo: 24/01/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2015 Người phản biện: TS Nguyễn Thị Bích Lý Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcam_nhan_dau_cua_benh_nhan_trong_dieu_tri_chinh_hinh_rang_ma.pdf