Cần luật hóa chi tiết trách nhiệm giải
trình của trường đại học công lập
Có quan điểm cho rằng, trách nhiệm
giải trình là điểm yếu nhất trong Điều lệ
Trường đại học. Điều lệ chỉ đòi hỏi các
trường thực hiện việc báo cáo, công khai và
giải trình “theo các quy định của pháp luật”,
một cụm từ thường được dùng để thu hẹp
ngoại diên của các khái niệm. Nói cách khác,
chừng nào pháp luật còn chưa quy định cụ
thể về trách nhiệm giải trình của các trường
thì các trường không việc gì phải bận tâm.
Điều cần làm nhất trong công tác quản lý
nhà nước với tư cách là người bảo vệ lợi ích
công là đòi hỏi trách nhiệm giải trình công
khai của các trường và thiết lập một hành
lang pháp lý giúp cho các trường có một hệ
thống quản trị lành mạnh25. Chúng tôi hoàn
toàn nhất trí với nhận định này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cần luật hóa trách nhiệm giải trình của trường Đại học công lập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: 
Thi hành Luật Giáo dục Đại học (GDĐH) năm 2012, song song với 
nghị định về tự chủ đại học, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành 
một nghị định quy định về trách nhiệm giải trình đại học. Trong 
đó, nguyên tắc giải trình là phải công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp 
thời, bảo vệ lợi ích của các bên liên quan; trách nhiệm giải trình 
đại học tốt nhất là thuộc về Hiệu trưởng; hình thức quan trọng nhất 
của trách nhiệm giải trình là công bố khung thông tin về hoạt động 
của trường. 
Đào Thị Thu Hằng*
* ThS.GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract 
For enforcement of the Law on Higher Education of 2012, 
along with the decree on university autonomy, it is required the 
Government to quickly issue a decree regulating university 
accountability. In particular, the principle of accountability should 
be open, transparent, adequate and timely and protective for the 
interests of the concerned parties; It is the best that the university 
principal is subject to the academic accountability; and it is the 
most important manner of the acadamic accountability is the 
information publication about the university's performance.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Giải trình đại học, trách 
nhiệm giải trình, giải trình của Hiệu 
trưởng, quản lý trường đại học công. 
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 02/03/2018
Biên tập : 04/04/2018
Duyệt bài : 11/04/2018
Article Infomation:
Keywords: University accountability, 
accountability, accountability of 
the President, public university 
management
Article History:
Received : 02 Mar. 2018
Edited : 04 Apr. 2018
Approved : 11 Apr. 2018
CẦN LUẬT HÓA TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH 
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 
1. Trách nhiệm giải trình của trường đại học 
Tự chủ đại học (university autonomy) 
luôn phải đi kèm với trách nhiệm giải trình 
(accountability). Nếu tự chủ được xem 
là “chân ga” giúp các trường đại học tăng 
1 Phạm Hiệp, Thúc đẩy trách nhiệm giải trình, 
  truy cập ngày 27/12/2017
2 Phạm Thị Ly, Điều lệ đại học: Trốn trách nhiệm giải trình, 
dai-hoc-trong-trach-nhiem-giai-trinh-1420381142.htm, truy cập ngày 27/12/2017
tốc và phát triển, thì trách nhiệm giải trình 
được xem là “chân phanh” giúp các trường 
“hãm lại”, tránh đi lạc hướng1. Tự chủ mà 
tách rời trách nhiệm giải trình thì sẽ là một 
thảm họa2.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 13(365) T6/2018
Quan điểm quản trị đại học này hiện 
đang được xem là hiệu quả và phù hợp với 
xu thế quản lý nhà nước về giáo dục của các 
quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đáp ứng đòi 
hỏi của thực tiễn, ngày 24/10/2014, Chính 
phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP 
về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với 
các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) công lập 
giai đoạn 2014-2017, quy định về quyền tự 
chủ của các cơ sở GDĐH, bao gồm: tự chủ 
về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ 
máy nhân sự, về tài chính. Theo đó, từ tháng 
10/2014 - 9/2017, Thủ tướng Chính phủ phê 
duyệt Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt 
động giai đoạn 2015-2017 theo Nghị quyết 
số 77/NQ-CP cho 23 cơ sở GDĐH công lập 
trực thuộc các bộ, ngành trung ương. Chính 
phủ cũng đã ban hành Nghị định số 16/2015/
NĐ-CP Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị 
sự nghiệp công lập trong đó có lĩnh vực giáo 
dục, đào tạo. Khái niệm tự chủ đại học cũng 
được Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa 
đổi ghi nhận tại Điều 1.1.3 Có thể thấy, cơ sở 
pháp lý cho tự chủ đại học cơ bản đã được 
ban hành. 
Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình của 
cơ sở đào tạo nói chung, trường đại học nói 
riêng còn rất sơ sài. Cụ thể, Luật GDĐH năm 
2012 cũng chỉ sử dụng hai lần cụm từ “giải 
trình”. Trong đó, một là yêu cầu các cơ sở 
GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài giải trình4, 
hai là “giải trình” với tư cách là mục tiêu 
của kiểm định chất lượng GDĐH. Như vậy, 
nội dung, hình thức và cách thức giải trình 
của cơ sở GDĐH nói chung và Hiệu trưởng 
- với tư cách là người quản lý cơ sở GDĐH 
nói riêng chưa được Luật GDĐH quy định. 
3 Điều 1.1 Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018: Tự chủ đại học là quyền của các cơ sở giáo dục đại học được 
cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân khác tôn trọng trong việc tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực 
hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về các hoạt động chuyên môn, tổ chức và nhân sự, tài chính, 
tài sản và các hoạt động khác phù hợp với năng lực tự chủ; đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học và chấp 
hành sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.”- (Tài liệu số A17.02 Dự 
thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi năm 2018)
4 Xem Điều 39 Luật GDĐH năm 2012. 
5 Xem Điều 5, Điều 9 và Điều 21 Điều lệ Trường đại học kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014. 
Trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa 
đổi và các tài liệu có liên quan cũng chỉ đề 
cập đến “tự chủ cơ sở giáo dục đại học” mà 
khuyết hẳn phần đối lập là “trách nhiệm giải 
trình đại học”.
Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg của 
Thủ tướng Chính phủ ban hành về Điều lệ 
Trường đại học đã quy định cụ thể hơn về 
trách nhiệm giải trình. Cụm từ “giải trình” 
được sử dụng sáu lần trong Quy chế5. Theo 
đó, những chủ thể như Hội đồng trường, 
Thư ký Hội đồng trường, Hiệu trưởng nhà 
trường có trách nhiệm phải giải trình. Tuy 
nhiên, giải trình nội dung gì? với ai? như thế 
nào? khi nào? chịu hậu quả gì khi không giải 
trình hoặc giải trình chậm trễ hoặc nội dung 
giải trình không đúng sự thật thì Điều lệ 
chưa quy định rõ. 
Thực tế có một số trường đại học công 
lập đã, đang và sẽ thực hiện quyền tự chủ. 
Vấn đề đặt ra là trách nhiệm giải trình của 
họ được quy định như thế nào để cân bằng 
được giữa quyền và trách nhiệm, để sử dụng 
hiệu quả các nguồn lực mà Nhà nước giao 
cho các trường đại học, tạo môi trường cạnh 
tranh bình đẳng trong thực hiện mục tiêu 
giáo dục giữa trường đại học công lập và 
ngoài công lập. Vậy, trách nhiệm giải trình 
của trường đại học là gì?
Có nhiều quan điểm khác nhau về trách 
nhiệm giải trình. Quan điểm thứ nhất cho 
rằng, trách nhiệm giải trình (accountability) 
là sự thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi 
hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định 
hay chính sách mà chúng ta đưa ra trong 
việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 13(365) T6/2018
việc6. Quan điểm thứ hai cho rằng, trách 
nhiệm giải trình bao gồm các nghĩa vụ cung 
cấp thông tin, lý giải và chịu trách nhiệm về 
mọi hoạt động của nhà trường7. Ý kiến thứ 
ba giải thích, trách nhiệm giải trình “được 
hiểu nôm na là trách nhiệm giải thích việc 
thực thi nhiệm vụ, công vụ, hành động, hoạt 
động, sản phẩm, quyết định và chính sách 
bao gồm cả việc quản lý, quản trị của một 
tổ chức, hay một cá nhân khi được (ai đó) 
yêu cầu. Nội hàm của trách nhiệm giải trình 
bao gồm nghĩa vụ báo cáo, giải thích, chịu 
trách nhiệm về hậu quả, và phải chịu hình 
phạt trong trường hợp có hành vi sai trái về 
những gì tổ chức, cá nhân đó đã cam kết, 
hoặc theo một quy định hay khế ước nào đó 
của luật pháp, của xã hội”8. Từ những quan 
điểm nêu trên, chúng tôi cho rằng, trách 
nhiệm giải trình của trường đại học là nghĩa 
vụ của trường đại học công bố thông tin, 
giải thích, báo cáo và chịu trách nhiệm về 
mọi hoạt động của nhà trường cũng như kết 
quả thực hiện mục tiêu giáo dục với người 
học, người lao động, đối tác và cơ quan 
quản lý nhà nước. 
2. Hình thức trách nhiệm giải trình
Có thể thấy, trách nhiệm giải trình được 
thực hiện thông qua hành vi công bố thông 
tin cập nhật thường xuyên, giải thích khi có 
khiếu nại, thắc mắc từ người học, người lao 
động, đối tác và báo cáo với cơ quan quản 
lý nhà nước khi cần thiết. Trong đó, công 
bố thông tin là thành phần quan trọng nhất 
của trách nhiệm giải trình, nó phải là thủ tục 
bắt buộc để người học, đối tác và cơ quan 
6 Phạm Thị Ly, Trách nhiệm giải trình của trường đại học, 
  truy cập ngày 27/12/2017.
7 Nguyễn Minh Thuyết, Tự chủ đại học - Thực trạng và giải pháp, 
  truy cập ngày 27/12/2017
8 Như Quỳnh, Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình: hai mặt của một vấn đề, trên: https://baomoi.com/tu-chu-dai-
hoc-va-trach-nhiem-giai-trinh-hai-mat-cua-mot-van-de/c/23808666.epi truy cập ngày 28/12/2017
9 Phạm Hiệp, Thúc đẩy trách nhiệm giải trình, trên: 
trach-nhiem-giai-trinh.html, truy cập ngày 27/12/2017
10 Như Quỳnh, Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình: hai mặt của một vấn đề, tlđd. 
quản lý có thể tiếp cận thuận lợi, dễ dàng, 
nhanh chóng. Thông tin có thể được công bố 
trên trang web của mỗi trường hoặc của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo. “Trong các cơ chế bảo 
đảm trách nhiệm giải trình, công khai thông 
tin được xem là cơ chế ít tốn nguồn lực và 
hiệu quả, nhưng dường như vẫn chưa được 
khai thác triệt để tại Việt Nam”9. Yêu cầu 
này cũng góp phần vào sự minh bạch hoạt 
động quản lý và đào tạo của nhà trường với 
mức chi phí thực thi không quá cao. Trường 
đại học cũng có nghĩa vụ giải thích về những 
hành vi, quyết định, chính sách của mình với 
người học, đối tác và cơ quan quản lý nhà 
nước. Chẳng hạn, theo GS. Hoàng Xuân 
Sính, ngay cả trong những hoạt động thuần 
túy phục vụ lợi ích của người học như trao 
học bổng, trường cũng phải trả lời hàng loạt 
câu hỏi của sinh viên, phụ huynh về nguồn 
gốc học bổng, cách chia các suất học bổng, 
cách chọn lựa sinh viên nhận học bổng10. 
Tuy nhiên, nếu trách nhiệm giải trình chỉ 
dừng lại ở công bố và giải thích thì chưa đủ 
mà trường đại học còn phải chịu trách nhiệm 
về những hành vi của mình đối với người 
học, với đối tác, người lao động và với cơ 
quan quản lý nhà nước qua việc cá nhân chịu 
nhận lỗi, bị kỷ luật, từ chức, phạt tiền, hay 
kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự về những 
sai sót của mình hay của trường đại học do 
mình quản lý, điều hành. Ở khía cạnh này, 
trách nhiệm giải trình khác với trách nhiệm 
bởi nó nhấn mạnh đến sự chịu trách nhiệm 
của một cá nhân nào đó khi không hoàn 
thành hay hoàn thành chưa tốt trách nhiệm 
được giao. 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 13(365) T6/2018
3. Nội dung của trách nhiệm giải trình
Tùy vào góc độ tiếp cận mà nội dung 
giải trình khác nhau. Chẳng hạn, trong Đạo 
luật về Công khai thông tin của các cơ sở 
giáo dục của Hàn Quốc, tất cả các cơ sở 
giáo dục tại Hàn Quốc sẽ phải định kỳ công 
bố thông tin theo các khía cạnh: sinh viên, 
giảng viên, hợp tác, ngân sách và cơ sở vật 
chất11. Theo trình bày lại của GS. Đặng Ứng 
Vận thì có 3 hình thức giải trình của cơ sở 
giáo dục: 1/ Giải trình theo chiến lược đã 
được phê duyệt; 2/ Giải trình theo hợp đồng 
đã ký kết giữa nhà trường và nhà nước; 3/ 
Giải trình theo quy chế về kết quả hoạt động 
của nhà trường12. Theo GS. Trần Đức Viên, 
trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH trong 
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của chúng ta 
có thể thể hiện qua các hoạt động sau: (i) 
Công khai về sứ mạng, mục tiêu giáo dục 
và các giá trị cốt lõi của nhà trường, đồng 
thời, cam kết thực hiện những nội dung đó; 
(ii) Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện đầy 
đủ các văn bản quản trị và quản lý nội bộ 
đối với mọi lĩnh vực hoạt động của trường; 
(iii) Công khai chỉ số đầu ra cơ bản KPIs đã 
cam kết; (iv) Định kỳ kiểm định chất lượng 
trường và chương trình đào tạo đạt yêu cầu 
của tiêu chuẩn chất lượng GDĐH quốc gia, 
khuyến khích kiểm định chất lượng khu vực 
và quốc tế, và công khai kết quả kiểm định 
chất lượng; (v) Thực hiện kiểm toán độc lập 
hằng năm và công khai kết quả kiểm toán; 
(vi) Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ chế độ 
báo cáo các cơ quan quản lý trường đại học, 
cơ quan giám sát, các thông tin công khai 
phải được cập nhật thường xuyên, định kỳ13. 
Chúng tôi cho rằng, dưới góc độ quản lý và 
sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước thì 
trách nhiệm giải trình của trường đại học sẽ 
thể hiện qua ba nội dung cơ bản sau:
- Cơ sở vật chất, hoạt động tài chính, 
11 Luật số 12844, sửa đổi bổ sung về những trường hợp đặc biệt liên quan đến công bố thông tin của các cơ sở đào tạo 
(Act on special cases concerning the disclosure information by education – related institutions) ngày 19/10/2014.
12 Đặng Ứng Vận, Đại học tự chủ: Giải trình và chịu trách nhiệm với xã hội như thế nào? 
duc-24h/Dai-hoc-tu-chu-Giai-trinh-va-chiu-trach-nhiem-voi-xa-hoi-nhu-the-nao-post157127.gd, truy cập ngày 
27/12/2017.
13 Như Quỳnh, Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình: hai mặt của một vấn đề, tlđd.
nhân lực mà trường đang quản lý sử dụng. 
Chẳng hạn, diện tích đất sử dụng, vị trí đặt 
trường, số lượng, chất lượng cán bộ, giảng 
viên, nhân viên, kinh phí đầu tư thiết bị 
nghiên cứu và giảng dạy, số phòng nghiên 
cứu, phòng thí nghiệm, số phòng thí nghiệm 
đạt tiêu chuẩn ISO, kinh phí đầu tư cho 
trung tâm học liệu, v.v.. Các trường đại học 
công lập hiện nay được giao quản lý và sử 
dụng những nguồn lực với giá trị và đặc 
thù khác nhau. Chẳng hạn, Trường Đại học 
Bách khoa TP. Hồ Chí Minh hiện nay được 
xem là một trong những trường sử dụng diện 
tích đất lớn nhất khu vực thành phố, Trường 
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn có lợi 
thế là đóng ngay trung tâm, dễ dàng thu hút 
người học, đặc biệt là những khóa học ngắn 
hạn hoặc buổi tối. So với các trường đại học 
tư thục, thì trường đại học công lập có nhiều 
lợi thế về quyền sử dụng đất, diện tích và 
vị trí đất mà trường tọa lạc. Vấn đề này ảnh 
hưởng không nhỏ đến mức học phí giữa hai 
khối này. Do vậy, để so sánh mức thu học 
phí của các trường, chúng ta phải đưa về một 
mặt bằng, tức phải quy ra tiền tổng giá trị tài 
sản của trường để đánh giá. Mặt khác, số 
lượng giảng viên, nhân viên của các trường 
cũng là vấn đề cần phải giải trình, dù nhiều 
trường đại học công lập đã triển khai đề án 
về vị trí, việc làm. Chẳng hạn, phải giải trình 
nếu trường có số lượng giáo sư, tiến sỹ đông 
nhưng số lượng các nghiên cứu khoa học lại 
ít, số lượng học viên, sinh viên ít và như vậy, 
có đảm bảo sử dụng nhân lực hiệu quả? 
- Sản phẩm đầu ra bao gồm: số lượng 
lượt sinh viên, học viên được đào tạo và 
những công bố khoa học. Trường đã đào tạo 
bao nhiêu cử nhân, bao nhiêu thạc sỹ, tiến 
sỹ, bồi dưỡng thế nào, số sản phẩm khoa 
học và công nghệ, tiến bộ kỹ thuật, công 
nghệ mới được áp dụng, số bài báo thuộc 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 13(365) T6/2018
hệ thống ISI/ Scopus, số lượng giải thưởng 
quốc gia, quốc tế về khoa học và công nghệ, 
số lượt giảng viên tham gia các hội thảo 
khoa học quốc gia và quốc tế, tỷ lệ kinh phí 
hoạt động khoa học và công nghệ/tổng kinh 
phí, số phát minh sáng chế, số hợp đồng hợp 
tác với doanh nghiệp, với địa phương, v.v.. 
Hiện nay, hầu hết các trường đại học đều 
chạy theo số lượng học viên được đào tạo. 
Số lượng học viên học càng nhiều thì nguồn 
thu của trường sẽ càng tốt, mặc dù không có 
trường nào thừa nhận mình là doanh nghiệp 
kinh doanh dịch vụ giáo dục. Bên cạnh đó, 
cũng cần cân nhắc khi đánh giá việc công bố 
công trình khoa học, vì hiện nay, việc công 
bố đang được tính theo đơn vị trường mà 
không đề cập đến trường đó có bao nhiêu 
giảng viên, chuyên viên. Chẳng hạn, trường 
hơn 1.000 giảng viên, chuyên viên mà công 
bố khoa học là 200 công trình thì phải được 
đánh giá khác với trường có 300 giảng viên, 
chuyên viên mà công bố khoa học cũng 200 
công trình. Hoặc đánh giá những công trình 
nghiên cứu của nhà trường có đóng góp gì 
cho xã hội không? 
- Chất lượng đào tạo, mức độ đạt mục 
tiêu giáo dục được giao tỷ lệ giảng viên/
người học, tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sỹ, 
tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư, phó 
giáo sư, số chương trình đào tạo được kiểm 
định, mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng, 
tỷ lệ sinh viên có việc làm ở trong nước và 
nước ngoài, v.v.. Chúng ta vẫn biết rằng, việc 
đo lường, đánh giá hiệu quả trong hoạt động 
giáo dục là không dễ. Tuy nhiên, dù khó vẫn 
phải làm. Có như vậy mới tránh được tình 
trạng tham ô, lợi dụng chức vụ quyền hạn, 
biến của công thành của tư, biến nhà trường 
thành tổ chức gia đình trị, sử dụng không 
hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước. Thông 
qua trách nhiệm giải trình, cơ quan quản lý 
nhà nước, học viên, người lao động, đối tác 
sẽ có bức tranh tương đối đầy đủ để đánh 
14 Đặng Văn Huấn, Gây hậu quả xấu không thể nhận lỗi tập thể, 
khong-the-nhan-loi-tap-the-245082.html, truy cập ngày 27/12/2017
15 Điều 5, Điều 9 Điều lệ Trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ 
tướng Chính phủ.
giá về hiệu quả hoạt động của trường và của 
người quản lý điều hành trường. Sản phẩm 
đầu ra của giáo dục mang tính đặc thù, ngoài 
những kiến thức, kỹ năng chuyên môn, còn 
là thái độ, phẩm chất của người học được 
bồi bổ, tu dưỡng hàng ngày và phụ thuộc 
rất lớn vào năng lực và mong muốn của học 
viên. Do vậy, việc đánh giá chất lượng đào 
tạo nên do các trung tâm trung lập đánh giá, 
trong đó quan trọng hơn cả là đánh giá của 
các nhà tuyển dụng. Nhưng đánh giá mức độ 
hoàn thành mục tiêu giáo dục thì phải do cơ 
quan quản lý nhà nước đảm nhiệm dựa trên 
báo cáo của các trường đại học. 
Chúng tôi rất đồng tình với ý kiến 
của TS. Phạm Đăng Huấn, mục đích cuối 
cùng của trách nhiệm giải trình là tạo sức 
ép lên cán bộ lãnh đạo và công chức, từ đó 
tăng cường hiệu lực pháp luật và hiệu quả 
thực thi chính sách14. Trong bối cảnh hiện 
nay, chúng ta chưa thể đòi hỏi trách nhiệm 
giải trình là nhằm bảo đảm trường sẽ duy 
trì những nguyên tắc đạo đức cơ bản. Bởi 
ngay cả khung pháp lý về trách nhiệm giải 
trình của các trường đại học chúng ta còn 
chưa có. Nhưng trên tinh thần tương tự như 
đòi hỏi của Nhà nước đối với doanh nghiệp 
nhà nước về công bố thông tin trong Luật 
Doanh nghiệp, trường đại học công lập phải 
có trách nhiệm giải trình chặt chẽ, chi tiết, 
nghiêm ngặt hơn các trường đại học dân lập. 
4. Người thực hiện trách nhiệm giải trình 
của các trường đại học công lập
Điều lệ trường đại học đã quy định về 
người có trách nhiệm giải trình bao gồm: 
Hiệu trưởng, Hội đồng trường và Thư ký 
Hội đồng trường15, tuy nhiên quy định còn 
khá chung chung và chưa thực tế. 
Luật GDĐH và Điều lệ trường đại học 
đều quy định về Hội đồng trường. Nhưng 
trên thực tế hiện nay, hầu hết các trường 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 13(365) T6/2018
công lập đều chưa lập Hội đồng trường hoặc 
Hội đồng trường hoạt động mang tính hình 
thức, quyền lực thực sự vẫn tập trung vào 
tay Hiệu trưởng16. Hiệu trưởng trường đại 
học là người đại diện cho cơ sở GDĐH trước 
pháp luật, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt 
động của cơ sở GDĐH. Hiệu trưởng do cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm 
hoặc công nhận17. Hiệu trưởng cơ sở GDĐH 
công lập là chủ tài khoản, chịu trách nhiệm 
trước pháp luật về toàn bộ công tác quản lý 
tài chính và tài sản của cơ sở GDĐH; thực 
hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm 
công khai, minh bạch về tài chính theo quy 
định của pháp luật; chấp hành các quy định 
về kế toán và kiểm toán. Điều lệ trường đại 
16 Lâm Nguyên, Phải đảm bảo hội đồng trường có thực quyền, 
dong-truong-co-thuc-quyen-486995.html; truy cập ngày 25/12/2017.
17 Điều 20 Luật GDĐH năm 2012.
18 Điều 11 Điều lệ Trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng 
Chính phủ.
19 Điều 11. Hiệu trưởng trường đại học (Điều lệ trường đại học 2014)
 ...2. Nhiệm vụ, quyền hạn của hiệu trưởng được quy định tại Khoản 3, Điều 20 của Luật GDĐH và một số nhiệm vụ và 
quyền hạn cụ thể sau đây:
 a) Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường trình hội đồng trường phê duyệt;
 b) Xây dựng quy định về: Số lượng, cơ cấu lao động, vị trí việc làm, tuyển dụng, quản lý, sử dụng, phát triển đội ngũ 
giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý, người lao động trình hội đồng trường thông qua;
 c) Tổ chức tuyển dụng, quản lý và sử dụng hiệu quả đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động 
khác theo quy định của pháp luật;
 d) Hàng năm, tổ chức đánh giá giảng viên, cán bộ quản lý, viên chức và người lao động khác;
 đ) Xem xét các ý kiến tư vấn của hội đồng khoa học và đào tạo trước khi quyết định các vấn đề đã giao cho hội đồng 
khoa học và đào tạo tư vấn. Trường hợp không đồng ý với nội dung tư vấn, hiệu trưởng được quyết định, chịu trách 
nhiệm cá nhân về quyết định và báo cáo hội đồng trường trong kỳ họp hội đồng trường gần nhất;
 e) Tổ chức thực hiện nghị quyết của hội đồng trường; trao đổi với chủ tịch hội đồng trường và thống nhất cách giải 
quyết theo quy định của pháp luật nếu phát hiện nghị quyết vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến hoạt động chung của nhà 
trường. Trường hợp không thống nhất được cách giải quyết thì hiệu trưởng báo cáo với cơ quan trực tiếp quản lý trường.
 Điều 20. Hiệu trưởng (Luật GDĐH năm 2012).
 ..3. Nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng:
 a) Ban hành các quy chế, quy định trong cơ sở GDĐH theo nghị quyết của hội đồng trường, hội đồng quản 
trị, hội đồng đại học;
 b) Quyết định thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của cơ sở GDĐH theo nghị quyết của 
hội đồng trường, hội đồng quản trị, hội đồng đại học; bổ nhiệm, bãi nhiệm và miễn nhiệm các chức danh 
trưởng, phó các tổ chức của cơ sở GDĐH;
 c) Tổ chức thực hiện nghị quyết của hội đồng trường, hội đồng quản trị, hội đồng đại học;
 d) Xây dựng quy hoạch và phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý;
 đ) Tổ chức thực hiện các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GDĐH;
 e) Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo và chịu sự giám sát, thanh tra, kiểm tra theo quy định;
 g) Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tiếp thu ý kiến và chịu sự giám sát của cá nhân, tổ chức, 
đoàn thể trong cơ sở GDĐH;
 h) Hằng năm, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của hiệu trưởng và ban giám hiệu trước hội đồng trường, 
hội đồng quản trị, hội đồng đại học;
 i) Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
học còn bổ sung thêm rằng: “Hiệu trưởng là 
người điều hành tổ chức, bộ máy của trường 
đại học”18. Với tư cách là người đứng đầu 
điều hành tổ chức bộ máy của trường đại 
học, Hiệu trưởng có rất nhiều quyền lực 
trong trường đại học19. Do vậy, theo chúng 
tôi, vẫn nên quy định trách nhiệm giải trình 
thuộc về Hiệu trưởng, kể cả khi có Hội đồng 
trường. Bởi lẽ Hội đồng trường chỉ là cơ 
quan được thiết kế để quản trị, tức đưa ra 
đường lối, phương hướng thực hiện mục 
tiêu giáo dục và Hiệu trưởng là một thành 
viên của Hội đồng trường. Việc quản lý điều 
hành, cụ thể là Hiệu trưởng. Ngay cả khi có 
Hội đồng trường thì việc tuyển dụng và sử 
dụng nhân sự vẫn do Hiệu trưởng trực tiếp 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 13(365) T6/2018
thực hiện. Tài chính của trường vẫn do Hiệu 
trưởng thu và chi. Bằng cấp, chứng chỉ vẫn 
do Hiệu trưởng ký, phát hành. Hội đồng 
trường như thiết kế trong Luật GDĐH hiện 
tại chỉ mang tính “cố vấn” và Hiệu trưởng 
có thể không nghe theo và được quyền báo 
cáo với cơ quan trực tiếp quản lý trường20. 
Suy cho cùng thì Hiệu trưởng vẫn phải là 
người có quyền để tổ chức điều hành bộ máy 
trường đại học để thực hiện hoạt động đào 
tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác giáo dục 
và đảm bảo chất lượng. 
Nếu trách nhiệm quy định chung 
chung cho một Hội đồng trường với các 
thành phần phức tạp, gồm cả trong trường và 
ngoài trường, có lợi ích trực tiếp và không 
có lợi ích trực tiếp, thì thực sự chưa ổn và 
phi thực tế21. Do vậy, trách nhiệm giải trình 
nên được quy về cho Hiệu trưởng - người 
trực tiếp thực hiện việc điều hành, người 
trực tiếp nhân danh nhà trường trong quan 
hệ với cơ quan quản lý nhà nước, với người 
học, với người lao động trong trường, với 
đối tác, với doanh nghiệp. Hiệu trưởng cũng 
là người biết rõ về từng giảng viên, chuyên 
viên trong trường đang thực hiện hoạt động 
nào được giao. Do vậy, dù có Hội đồng 
trường hay không thì Hiệu trưởng vẫn phải 
là người chịu trách nhiệm giải trình ở trường 
đại học là quy định hoàn toàn xác đáng. 
Điều này cũng tương thích với quy định về 
trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước 
 phải là người đứng đầu22.
5. Giải trình với những chủ thể nào?
Điều lệ Trường đại học cũng đã chỉ ra 
rằng, trường đại học có trách nhiệm giải trình 
với cơ quan quản lý nhà nước và các bên 
liên quan về các hoạt động của nhà trường 
20 Điểm e Khoản 2 Điều 11 Điều lệ Trường đại học, kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ 
tướng Chính phủ. 
21 Điều 9 Điều lệ Trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng 
Chính phủ.
22 Điều 3, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định về trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 
nhiệm vụ, quyền hạn được giao ngày 08/8/2013.
23 Khoản 3 Điều 5 Điều lệ Trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ 
tướng Chính phủ.
theo quy định của pháp luật”23. Như vậy, giải 
trình không chỉ đến địa chỉ “cơ quan quản 
lý nhà nước” về giáo dục mà Điều lệ cũng 
chỉ ra gồm cả những bên liên quan. Cơ quan 
quản lý nhà nước có thể là cơ quan chủ quản 
hoặc cơ quan quản lý về giáo dục, chẳng hạn 
Bộ Nội vụ là cơ quan chủ quản của Trường 
Đại học Nội vụ; Bộ Giáo dục và đào tạo là 
cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương về 
hoạt động giáo dục đào tạo. 
Mặc dù Điều lệ không chỉ rõ “bên liên 
quan” bao gồm những ai, nhưng từ thực tiễn 
hoạt động đào tạo thì “bên liên quan” có thể 
là người học, đối tác của trường như trường 
đại học khác trong quan hệ liên kết đào tạo 
hoặc doanh nghiệp có hợp đồng đào tạo với 
nhà trường, người lao động trong trường, 
tức các bên có quan hệ hợp đồng với trường. 
Liệu “các bên liên quan” này có bao 
gồm cả phụ huynh, nhà tuyển dụng? Chúng 
tôi cho rằng, không nên giải thích nội hàm 
của “các bên liên quan” quy định trong 
khoản 3 Điều 5 Điều lệ Trường đại học bao 
gồm cả phụ huynh, nhà tuyển dụng, thậm 
chí là xã hội nói chung. Bởi lẽ, sinh viên, 
học viên học đại học là những người đã đủ 
18 tuổi, năng lực dân sự đầy đủ thì họ mới 
đủ điều kiện để học đại học. Do vậy khi họ 
xác lập mối quan hệ với trường đại học, họ 
là một bên của giao dịch cung ứng dịch vụ 
giáo dục, họ hoàn toàn có đầy đủ năng lực 
để tự mình xác lập và chịu trách nhiệm về 
hành vi của mình. Do vậy, người cần được 
giải trình là họ chứ không phải là phụ huynh 
của họ. Ví dụ, khi tuyển sinh, nhà trường yêu 
cầu học đủ và đạt 150 tín chỉ thì sẽ cấp bằng. 
Tuy nhiên, học hết chương trình nhưng chỉ 
có 149 tín chỉ, bởi lỗi do sơ suất trong việc 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 13(365) T6/2018
xây dựng chương trình thì phía nhà trường 
phải giải trình với chính những sinh viên đó. 
Hoặc khi xây dựng chương trình đào tạo luật 
thương mại quốc tế, nhưng vì lý do nào đó, 
sinh viên không được học về Incoterms24 
dẫn đến khi đi thực tập, sinh viên không 
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, 
thì nhà trường phải có trách nhiệm giải trình 
với những sinh viên này. Hoặc trong trường 
hợp, phòng học của trường mà chỉ có một 
cửa ra vào duy nhất và không có một cửa 
sổ nào, trường cho rằng phòng học có gắn 
máy lạnh thì không cần cửa sổ, sinh viên yêu 
cầu giải thích về tiêu chuẩn của một phòng 
học và họ không chấp nhận lời giải thích từ 
phía trường, thì họ có thể dùng quyền khiếu 
nại của mình hoặc thậm chí là kiện ra tòa về 
điều kiện cung cấp dịch vụ không đảm bảo. 
Nhà tuyển dụng là cơ quan, tổ chức, 
doanh nghiệp sử dụng lao động là sinh viên 
được trường đào tạo, họ không có mối quan 
hệ trực tiếp, quyền lợi trực tiếp gắn với 
trường đại học, do vậy, yêu cầu trường đại 
học phải giải trình với họ là điều không cần 
thiết, dù rằng, những yêu cầu từ phía nhà 
tuyển dụng đối với người lao động là sinh 
viên, học viên của trường vô cùng quan 
trọng với việc xây dựng chương trình đào 
tạo và đánh giá chất lượng giáo dục. 
6. Cần luật hóa chi tiết trách nhiệm giải 
trình của trường đại học công lập
Có quan điểm cho rằng, trách nhiệm 
giải trình là điểm yếu nhất trong Điều lệ 
Trường đại học. Điều lệ chỉ đòi hỏi các 
trường thực hiện việc báo cáo, công khai và 
24 Incoterms (International Commerce Terms – Các điều khoản thương mại quốc tế) là một Bộ các quy tắc thương mại 
quốc tế được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
25 Phạm Thị Ly, Điều lệ Trường đại học: Trống trách nhiệm giải trình, 
truong-dai-hoc-trong-trach-nhiem-giai-trinh-1420381142.htm, truy cập ngày 28/12/2017
26 Dự thảo đang được post trên: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Thong-tu-cong-khai-doi-voi-o-
so-giao-duc-va-dao-tao-thuoc-he-thong-giao-duc-quoc-dan-368000.aspx. 
27 Article 6 (Information, etc. subject to Publication by Higher Educational Institutions)(1) The head of a 
school that provides higher education shall publish each of the following information which is held and 
managed by the school, at least once a year. In such cases, the head of such school shall submit the disclosed 
information to the Minister of Education: <Amended by Act No. 8852, Feb. 29, 2008; Act No. 9643, May 
8, 2009; Act No. 11690, Mar. 23, 2013>
giải trình “theo các quy định của pháp luật”, 
một cụm từ thường được dùng để thu hẹp 
ngoại diên của các khái niệm. Nói cách khác, 
chừng nào pháp luật còn chưa quy định cụ 
thể về trách nhiệm giải trình của các trường 
thì các trường không việc gì phải bận tâm. 
Điều cần làm nhất trong công tác quản lý 
nhà nước với tư cách là người bảo vệ lợi ích 
công là đòi hỏi trách nhiệm giải trình công 
khai của các trường và thiết lập một hành 
lang pháp lý giúp cho các trường có một hệ 
thống quản trị lành mạnh25. Chúng tôi hoàn 
toàn nhất trí với nhận định này. 
Trong các văn bản quy định hiện hành 
về GDĐH, nội hàm của khái niệm trách 
nhiệm giải trình chưa thực sự được làm rõ. 
Ngay trong Dự thảo Thông tư về ban hành 
Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở 
giáo dục và đào tạo thuộc hệ thống giáo dục 
quốc dân của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng 
không đề cập đến trách nhiệm giải trình26. 
Do vậy, việc ban hành khung pháp lý về 
trách nhiệm giải trình của các trường đại 
học là vô cùng cần thiết và cấp bách. Trong 
khung pháp lý đó, phải thiết kế sao cho trách 
nhiệm giải trình của các trường đại học công 
lập chặt chẽ, nghiêm khắc hơn các trường 
tư thục. Mặt khác, phải hình thành các 
nội dung cần phải công bố công khai trên 
website của trường của Bộ Giáo dục và Đào 
tạo theo khung thống nhất. Kinh nghiệm của 
Hàn Quốc cho thấy, khung công bố thông 
tin bắt buộc cho các cơ sở giáo dục gồm 13 
nhóm vấn đề sau:27 nội quy trường học; các 
vấn đề liên quan đến nội dung và hoạt động 
của chương trình giảng dạy; các vấn đề liên 
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 13(365) T6/2018
quan đến phương pháp và biểu thời gian lựa 
chọn học viên; các vấn đề liên quan đến tình 
trạng hiện tại của sinh viên, chẳng hạn như 
tỷ lệ nhập học và số học viên ghi danh; các 
vấn đề liên quan đến các khóa học cho học 
viên đã tốt nghiệp, chẳng hạn như hiện trạng 
của học viên học cao hơn và những người đã 
có việc làm; vấn đề liên quan giáo viên cơ 
hữu; thành tích nghiên cứu của giáo viên cơ 
hữu; vấn đề liên quan đến kế toán của trường 
và những sáng lập viên của nó bao gồm các 
chi tiết về ngân sách và các tài khoản quyết 
toán; các vấn đề liên quan đến việc tính học 
phí và chi phí giáo dục cho mỗi học sinh; 
các vấn đề liên quan đến lệnh điều chỉnh... 
theo Điều 60 đến 62 của Đạo luật GDĐH; kế 
hoạch phát triển và chuyên môn của trường; 
hiện trạng nghiên cứu của cán bộ giảng dạy, 
giáo dục cho học viên và sự hợp tác giữa các 
ngành công nghiệp và giới học thuật; hiện 
trạng hỗ trợ thư viện và nghiên cứu; các vấn 
đề khác liên quan đến điều kiện giáo dục, 
tình trạng hoạt động của trường học...
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, 
song song với nghị định về tự chủ đại học, 
Chính phủ cần nhanh chóng ban hành một 
nghị định quy định về trách nhiệm giải trình 
đại học. Trong đó, nguyên tắc giải trình là 
phải công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời, 
bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Trách 
nhiệm giải trình đại học tốt nhất là giao cho 
Hiệu trưởng, hình thức quan trọng nhất của 
trách nhiệm giải trình là công bố khung 
thông tin về hoạt động của trường. Trong 
các nội dung công bố, ở giai đoạn hiện nay 
cần nhấn mạnh các nội dung về nguồn lực 
cơ sở vật chất, hoạt động tài chính, chất 
lượng đào tạo, công bố khoa học và sự hài 
lòng của nhà tuyển dụng. Làm tốt công tác 
công bố thông tin, chúng ta sẽ góp phần làm 
minh bạch môi trường cạnh tranh trong giáo 
dục, tránh được những tiêu cực không đáng 
có tại các trường đại học công lập hiện nay 
và nâng cao sức cạnh tranh của các trường 
đại học công lập ở Việt Nam.
(Tiếp theo trang 20)
TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG GIÁM...
Năm là, kết hợp công tác tiếp công 
dân của các cơ quan thuộc Quốc hội, Đoàn 
đại biểu Quốc hội với tổ chức các hoạt động 
giám sát công tác giải quyết tố cáo. Việc này 
giúp cho hoạt động giám sát đúng trọng tâm, 
trọng điểm, đúng địa chỉ cần giám sát, không 
trùng lặp, góp phần nâng cao hiệu quả công 
tác giải quyết tố cáo, bảo đảm quyền tố cáo 
của công dân. 
Sáu là, Quốc hội cần xây dựng và hoàn 
thiện hệ thống phần mềm quản lý cơ sở dữ 
liệu về tiếp công dân, xử lý đơn thư dùng 
chung cho các cơ quan của Quốc hội, Đoàn 
đại biểu Quốc hội để tạo điều kiện cho việc 
theo dõi, tra cứu, phân loại, xử lý đơn thư 
hiệu quả hơn, tránh trùng lặp.
Tố cáo là một kênh thông tin khách 
quan phản ánh việc thực thi quyền lực của bộ 
máy nhà nước, phản ánh tình hình thực hiện 
công vụ của cán bộ, công chức; giải quyết tố 
cáo có vai trò quan trọng trong quản lý nhà 
nước, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà 
nước và Nhân dân. Giám sát giải quyết tố cáo 
giúp tăng cường sự tham gia của người dân 
trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp 
của mình, của tập thể và Nhà nước, đồng thời 
là cách thức để đảm bảo quyền tố cáo của 
công dân. Do đó, việc nâng cao vai trò, trách 
nhiệm của các cơ quan có chức năng giám 
sát trong công tác giải quyết tố cáo, đặc biệt 
là vai trò của Quốc hội là một yêu cầu khách 
quan đang đặt ra hiện nay, phù hợp với các 
nguyên tắc, yêu cầu của việc xây dựng Nhà 
nước pháp quyền XHCN.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 13(365) T6/2018
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 can_luat_hoa_trach_nhiem_giai_trinh_cua_truong_dai_hoc_cong.pdf can_luat_hoa_trach_nhiem_giai_trinh_cua_truong_dai_hoc_cong.pdf