Khóa luận Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hóa học ở Việt Nam và phương pháp giải quyết

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ VÀ NHỮNG TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ LOẠI HỢP ĐỒNG NÀY I Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 1 Khái niệm về hợp đồng xuất nhập khẩu 2 Điều kiện để hợp đồng xuất nhập khẩu có hiệu lực 3 Quy trình ký kết hợp đồng II Nghĩa vụ cơ bản của người mua và người bán 1 Nghĩa vụ giao hàng của người bán 2 Nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng của người mua 3 Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của người bán và người mua 4 Chế tài và các trường hợp miễn trách nhiệm vật chất III Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu 1 Các điều ước quốc tế 2 Tập quán thương mại quốc tế 3 Luật quốc gia CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRANH CHẤP VÀ VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HOÁ HỌC Ở VIỆT NAM I Cơ chế điều hành nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam 1 Tình hình nhập khẩu phân bón hoá học của Việt Nam trước 1990 2 Tình hình NK phân bón hoá học của Việt Nam từ 1990 đến nay II Các loại tranh chấp do người mua vi phạm hợp đồng và cách giải quyết 1 Tranh chấp do người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng 2 Tranh chấp do người mua vi phạm nghĩa vụ nhận hàng III Các loại tranh chấp do người bán vi phạm hợp đồng 1 Tranh chấp do người bán giao hàng kém phẩm chất 2 Người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng IV Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp 1 Nguyên nhân khách quan 2 Nguyên nhân chủ quan CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ GIẢI QUYẾT CÓ HIỆU QUẢ NHỮNG TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HOÁ HỌC I Các tổ chức giải quyết tranh chấp 1 Trọng tài thương mại 2 Toà án thương mại II Những biện pháp ngăn ngừa và giải quyết hiệu quả tranh chấp trong hoạt động nhập khẩu phân bón hoá học 1 Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp 2 Các biện pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Trích dẫn Nội dung Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế cả nước nói chung và nông nghiệp nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng. Trong nông nghiệp thành tựu nổi bật là đã sản xuất đủ lương thực cho đất nước và nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Đóng góp vào những thành tựu này, hoạt động nhập khẩu phân bón đóng vai trò rất quan trọng, góp phần vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định chính trị, kinh tế và xã hội. Nhu cầu về sử dụng phân bón hoá học trong nông nghiệp ở nước ta có xu hướng ngày càng tăng, Theo số liệu của Cục Công nghệ thông tin và Thống kê Tổng cục Hải quan năm 1995, 1998, 2002 số lượng nhập khẩu phân bón toàn quốc tương ứng là: 2.085.737, 3.287.900, 3.823.863 tấn. Hiện tại ngành sản xuất phân bón trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu chăm bón. Theo báo cáo đánh giá hiệu quả công tác điều hành giá cả trong 10 năm về xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón (1991-2000) của Ban Vật giá Chính phủ thì Việt Nam phải nhập khẩu 100% phân MOP (muriah of potash), 100% phân DAP, 100% SA và 92% phân đạm urea. Ngoài ra nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất phân bón tổng hợp NPK (urea, kali, DAP) là thành phẩm phải nhập khẩu. Thị trường phân bón hóa học trong nước phần lớn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Từ khi Nghị định thư thương mại giữa Việt Nam và Liên Xô kết thúc (1990) nước ta phải tự nhập khẩu phân bón từ các nước khác ngoài các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Dự kiến những năm tới nhu cầu sử dụng phân hoá học tăng lên trên 4 triệu tấn các loại. Kim ngạch nhập khẩu phân bón cũng ngày càng tăng; kim ngạch nhập khẩu năm 1997 là: 427,32 triệu USD, năm 2002 là 477.295,569 triệu USD (số liệu Cục Công nghệ Thông tin và Thống kê Hải quan), làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngày càng phát triển. Khi ký kết các hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học do có sự khác nhau về ngôn ngữ, tập quán, luật pháp . và đặc biệt là sự khác nhau về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên nên dễ dẫn đến tranh chấp. Khi xảy ra tranh chấp các nhà nhập khẩu phân bón cần phải biết những phương pháp nào có thể áp dụng để giải quyết những tranh chấp phát sinh từ loại hợp đồng này. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp đã xảy ra ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón nên chọn phương pháp nào để có hiệu quả cao nhất. Do vậy, việc nghiên cứu các loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hóa học và phương pháp giải quyết tranh chấp là hết sức cần thiết, góp phần quan trọng vào sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp đang kinh doanh ngành hàng này. Mục đích của đề tài Đề tài sẽ giúp các nhà kinh doanh phân bón hiểu sâu hơn những tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt nam, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết Cùng với mục đích trên khoá luận còn giúp các nhà nhập khẩu phân bón hóa học nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình, thông qua việc hạn chế và giải quyết tốt nhất các tranh chấp phát sinh trong hoạt động nhập khẩu phân bón, qua đó góp phần thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước và đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học nói riêng thường xảy ra các tranh chấp phát sinh giữa người mua với người bán, giữa người nhập khẩu với người chuyên chở hàng hoá, giữa người mua, người nhận hàng với cảng, giữa người nhập khẩu với ngân hàng về thanh toán tiền hàng v.v . Song trong phạm vi của khoá luận này, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những tranh chấp phát sinh giữa người mua và người bán trong hoạt động nhập khẩu phân bón hoá học. Đây là tranh chấp phổ biến phát sinh trong thời gian qua, thực tiễn áp dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp này ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận áp dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Bên cạnh đó có áp dụng các phương pháp thống kê, phân tích-tổng hợp, phương pháp đối chiếu-so sánh, phương pháp mô tả khái quát hoá đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu - Đề tài hệ thống hoá lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ thể là trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học giữa các doanh nhiệp Việt Nam với thương nhân nước ngoài. - Đề tài chỉ ra ưu, nhược điểm trong thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón trong thời gian qua ở Việt Nam. Qua đó giúp các nhà nhập khẩu phân bón có được những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc giải quyết tranh chấp nếu gặp phải trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. - Đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế, ngăn ngừa các tranh chấp và một số phương pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp giữa người bán và người mua trong trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá và các tranh chấp thường phát sinh từ loại hợp đồng này Chương 2: Thực trạng các tranh chấp và việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp ngăn ngừa và giải quyết có hiệu quả những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học

doc90 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu phân bón hóa học ở Việt Nam và phương pháp giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng thường do người bán nước ngoài soạn thảo. Khi chào hàng cũng như các giao dịch sau đó, mặc dù hai bên đã thống nhất. Song người bán đưa ra những điều khoản có lợi cho họ, nếu người mua không đọc lại kỹ hợp đồng rất dễ tranh chấp. Trường hợp ngược lại trong hợp đồng không quy định chứng từ khi xuất trình, nhưng người mua đưa thêm chứng từ người bán phải xuất trình trong L/C; Ví dụ: Chứng từ chấp nhận tàu của ngưòi mua do người bán chỉ định (điều kiện thương mại CFR cảng Việt Nam). Trong hợp đồng không quy định chứng từ này, nhưng khi mở L/C người mua đưa thêm chứng từ cần phải xuất trình trên vào L/C, người bán yêu cầu người mua tu chỉnh L/C vì chứng từ chấp nhận tàu của người mua không quy định trong hợp đồng, người mua không thực hiện, người bán không giao hàng dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Phân bón là mặt hàng khó bảo quản, dễ bị bốc hơi, vón cục, đổi màu ... khi vận chuyển đường dài. Điều này liên quan đến giấy chứng nhận chất lượng, trọng lượng do ai cấp , nơi cấp ở cảng bốc hàng hay ở cảng dỡ hàng có giá trị pháp lý cuối cùng. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể cũng khó tránh khỏi tranh chấp khi hàng hoá có vấn đề về chất lượng. Điều khoản về thời gian dỡ hàng và thưởng phạt bốc dỡ tại cảng dỡ hàng cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp vì tàu vận chuyển hàng phân bón thường là những tàu lớn, mức thưởng, phạt thường quy định tương đối cao. Ví dụ: hợp đồng quy định người chuyên chở thưởng hoặc phạt do hoàn thành việc bốc dỡ hàng hoá sớm hơn so với thời gian bốc dỡ được quy định, chẳng hạn thưởng 1.500 USD/ngày, phạt 3.000 USD/ngày, nhưng lại không quy định ngày lễ hoặc chủ nhật có tính hay không cũng dẫn đến tranh chấp giữa người mua và người bán. 2.3. Do hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ làm công tác nhập khẩu Việc thiếu quan tâm trong công tác tuyển dụng và đào tạo cán bộ của những nhà quản lý doanh nghiệp nhập khẩu phân bón trước hết ảnh hưởng đến trình độ của họ trong công việc chuyên môn. Trình độ ngoại ngữ, kỹ thuật nghiệp vụ và trình độ pháp lý yếu nên khi đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu phân bón với các thương nhân nước ngoài không đầy đủ điều khoản hoặc thiếu điều khoản, do đó khi có tranh chấp, các bên không có sở để giải quyết tranh chấp. CHƯƠNG III CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT HIỆU QUẢ CÁC TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HOÁ HỌC I- CÁC TỔ CHỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Từ năm 1990, hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì thế, trong đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học với các thương nhân nước ngoài dễ xảy ra sai sót. Trong cơ chế bao cấp, các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế là các doanh nghiệp nhà nước nên lợi ích mang lại cho Nhà nước, chính vì thế tranh chấp ít hơn. Tranh chấp trong nền kinh tế thị trường khốc liệt hơn, căng thẳng hơn và tranh chấp cho chính mình vì thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, khi tranh chấp lợi ích cũng khác nhau, cần phải có một tổ chức đứng ra ngoài lợi ích của các bên để giải quyết tranh chấp, đó là toà án hoặc trọng tài thương mại. Ở Việt Nam có toà án kinh tế thuộc toà án nhân dân các cấp và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. 1. Trọng tài thương mại Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử. Trọng tài thương mại thường xét xử các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu, hợp đồng đầu tư, hợp đồng chuyển giao công nghệ v.v... Ở một số nước chỉ có một tổ chức trọng tài thì tổ chức trọng tài này giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh trong thương mại và hàng hải. 1.1. Các hình thức trọng tài Trọng tài thương mại cũng như trọng tài hàng hải được thành lập dưới hai hình thức: Trọng tài đặc biệt hay còn gọi là trọng tài Ad hoc và trọng tài thường trực. Trọng tài đặc biệt là loại trọng tài do hai bên đương sự lập ra để giải quyết một tranh chấp cụ thể, sau khi giải quyết xong thì tự giải thể. Hình thức trọng tài này không có trụ sở cố định như trụ sở trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào và thường chỉ có một trọng tài viên duy nhất do các bên thống nhất lựa chọn. Trọng tài thường trực (hay còn gọi là trọng tài quy chế) là trọng tài được thành lập để hoạt động một cách thường xuyên, có trụ sở, điều lệ và quy tắc xét xử riêng. Hiện nay ở hầu hết các nước đều có trọng tài thường trực. Chẳng hạn, ở Nhật có Hiệp hội trọng tài thương mại Nhật Bản, Hồng Kông có Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông, ở Anh có Toà án trọng tài quốc tế Luân Đôn, ở Việt Nam có Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được thành lập năm 1993, trên cơ sở hợp nhất hai tổ chức trọng tài: Hội đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài Hàng hải Việt Nam được thành lập năm 1963. 1.2. Thẩm quyền xét xử của trọng tài thương mại Trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên đương sự thoả thuận giao tranh chấp cho trọng tài giải quyết. Việc này được quy định bằng một điều khoản trong hợp đồng, trong một văn bản riêng về trọng tài do các bên ký, hoặc do điều ước quốc tế. Thành phần của ban trọng tài và cách chọn trọng tài: Xét xử một vụ kiện có thể là một, hoặc ba trọng tài viên. Nếu là một trọng tài viên thì do hai bên đương sự cùng thống nhất chọn, nếu là ba trọng tài thì mỗi bên chọn một, hai trọng tài viên do mỗi bên chọn sẽ chọn ra trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch ban trọng tài xét xử. Khi kiện ra trọng tài thường trực thì các bên phải chọn trọng tài viên trong danh sách của tổ chức trọng tài đó nếu quy tắc trọng tài bắt buộc, và có thể chọn trọng tài ngoài danh sách trọng tài viên nếu quy tắc cho phép. Khi kiện ra trọng tài đặc biệt các bên có thể chọn trọng tài viên là bất kỳ người nào, ở đâu. 1.3. Thủ tục xét xử của trọng tài: Trọng tài thương mại được tiến hành theo đúng quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài. Thông thường ngày xét xử do Chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định. Thư ký hội đồng trọng tài phải báo cho bên nguyên và bên bị bằng văn bản để họ tham gia phiên xét xử. Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Việc vắng mặt của các bên được quy định tại điều 40 khoản 1 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại (số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25/02/2003) như sau: (1) Nguyên đơn đã được triệu tập tham dự phiên họp không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng trọng tài đồng ý thì được coi là đã rút đơn kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng Trọng tài tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp nếu bị đơn yêu cầu hoặc có đơn kiện lại theo quy định của Pháp lệnh trọng tài này. Bị đơn được triệu tập tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp mà không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng Trọng tài đồng ý thì Hội đồng Trọng tài vẫn tiến hành giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có. (2) Trong trường hợp các bên yêu cầu, Hội đồng Trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết vụ tranh chấp mà không cần các bên có mặt. 1.4. Luật áp dụng cho vụ kiện Các tổ chức trọng tài quốc tế cũng như trọng tài Quốc tế Việt Nam giải quyết các tranh chấp trong hoạt động ngoại thương áp dụng hai nguồn luật: Luật tố tụng (luật hình thức), luật này xác định theo tập quán “Lex - fori” nghĩa là luật tố tụng được điều chỉnh quá trình tố tụng và luật thực chất (luật nội dung). Còn luật thực chất có thể do hợp đồng quy định, điều ước quốc tế liên quan hoặc do trọng tài chọn. Phán quyết của trọng tài được làm bằng văn bản và được đọc trước các bên đương sự. Các trọng tài xét xử phải ký vào phán quyết. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện. 2. Toà án thương mại Toà án thương mại là cơ quan tư pháp của một nước được thành lập ra để xét xử các tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân của nước đó. Song cũng có thể xét xử tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Toà thương mại của bất kỳ nước nào cũng không có thẩm quyền đương nhiên đối với các tranh chấp phát sinh trong ngoại thương. Các bên đương sự chỉ được thoả thuận giao tranh chấp cho toà thương mại xét xử bằng một điều khoản của hợp đồng (hoặc bằng một văn bản riêng) khi trong điều ước quốc tế có liên quan không quy định giao tranh chấp cho trọng tài thương mại giải quyết. Mặt khác, thẩm quyền xét xử của toà thương mại đối với các tranh chấp trong ngoại thương cũng có thể quy định trong điều ước quốc tế. Do vậy, muốn kiện tới toà thương mại của nước nào phải căn cứ vào hợp đồng, văn bản thoả thuận giữa hai bên, vào điều ước quốc tế đang có hiệu lực trong quan hệ giữa hai nước tương ứng. Toà thương mại của bất kỳ nước nào cũng chỉ tuân thủ luật tố tụng của nước mình, nghĩa là nhận đơn kiện, chuẩn bị xét xử, tiến hành xét xử theo đúng luật tố tụng của nước toà án. Còn khi giải quyết tranh chấp toà thương mại phải áp dụng luật thực chất điều chỉnh hợp đồng. Tại phiên họp xét xử bên nguyên, bên bị phải có mặt để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên bị có quyền nhờ luật sư bào chữa. Nếu bên thua kiện không đồng ý với bản án của toà thương mại thì có quyền kháng cáo lên toà thương mại cấp trên theo thủ tục phúc thẩm. Ở Việt Nam chưa có toà thương mại mà hiện nay có toà kinh tế. Doanh nghiệp Việt Nam có thể thoả thuận với bên nước ngoài đưa tranh chấp ra xét xử tại toà kinh tế Việt Nam, Nhưng chú ý nếu quy định thì phải quy định toà kinh tế nào. Cơ quan giải quyết tranh chấp thường được quy định tại điều khoản “trọng tài và luật áp dụng” trong hợp đồng nhập khẩu phân bón. Tuỳ từng vụ việc mà các doanh nghiệp chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, dù chọn cơ quan tài phán nào cũng có mặt ưu điểm và mặt nhược điểm của nó. Ví dụ: nguyên tắc xét xử của toà án là công khai nên dễ bị lộ bí mật trong kinh doanh, các bên không được tự do lựa chọn hội đồng xét xử, trình độ chuyên môn của thẩm phán có phần hạn chế hơn so với các trọng tài viên. Nguyên tắc xét xử của trọng tài là bí mật nên giữ được bí mật và uy tín trong kinh doanh. Các bên tranh chấp có quyền chọn trọng tài viên, vì thế, trọng tài xét xử công bằng hơn. Nếu trọng tài viên xét xử thiên lệch thì lần sau không được mời xét xử. II - CÁC BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA VÀ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU PHÂN BÓN HOÁ HỌC. Nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến tranh chấp ở phần IV chương II ta có thể rút một số các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp trong việc đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học. 1/ Các biện pháp ngăn ngừa tranh chấp 1.1. Ký kết hợp đồng đúng luật định Theo cuốn sách do Bộ Thương mại mới phát hành; “Sản phẩm hội nhập Việt Nam tự do hoá thương mại”: “Năm 2001, có tới 47 công ty nước ngoài bán phân bón vào Việt Nam, trong đó có tới 12 công ty nước ngoài cả năm chỉ bán 3.000 - 5.000 tấn phân bón” (trang 441). Thời gian gần đây ngoài những công ty này, còn những công ty chưa từng kinh doanh phân bón hoặc không có thật trên thị trường cũng gửi bản chào bán phân bón cho các doanh nghiệp Việt Nam. Để tránh tranh chấp phát sinh biện pháp đầu tiên trong giao dịch ký kết hợp đồng là tìm hiểu kỹ đối tác. Nếu không tìm hiểu kỹ đối tác sẽ có thể dẫn đến hợp đồng đã được ký kết không đảm bảo điều kiện hiệu lực pháp lý vì chủ thể không đủ tư cách pháp lý hoặc thậm chí ký hợp đồng với các công ty “ma”. Khi có tranh chấp các doanh nghiệp Việt Nam không thể khiếu nại hoặc đi kiện được. Nhiều công ty nước ngoài kinh doanh phân bón có văn phòng đại diện tại Việt Nam là người Việt Nam, Tuy nhiên khi giao dịch ký kết phải kiểm tra thẩm quyền của người được ký kết. Trường hợp đại diện tại Việt Nam được uỷ quyền ký hợp đồng thì phải kiểm tra thời hạn và phạm vi uỷ quyền vì nếu hợp đồng do người đại diện không có thẩm quyền ký thì sau này khi phát sinh tranh chấp hợp đồng bị coi là vô hiệu. Kể cả các văn bản sửa đổi, bổ sung (phụ lục hợp đồng) phải là người có thẩm quyền ký mới có hiệu lực, nếu không các bên không thừa nhận sửa đổi, bổ sung đó khi có tranh chấp phát sinh. Nội dung của hợp đồng là “luật” cao nhất đối với các bên, chính vì thế hợp đồng nhập khẩu phân bón phải có nội dung đầy đủ, chặt chẽ cả về kỹ thuật nghiệp vụ và pháp luật. Hợp đồng phải có đủ các điều khoản chủ yếu theo pháp luật quy định, theo luật Thương mại Việt Nam phải có các điều khoản: Tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao hàng. Dù ký hợp đồng với thương nhân nước nào thì vẫn phải đảm bảo đủ các điều khoản trên. Cần có hợp đồng chuẩn đối với từng loại phân bón, riêng điều khoản quy cách phẩm chất hàng hoá trong hợp đồng nhập khẩu phân bón, cần quy định chi tiết cụ thể: màu sắc, cỡ hạt, hàm lượng các chất, trọng lượng tịnh, trọng lượng bao, quy cách bao, hàng mới, rời, tơi xốp, phần trăm tỷ lệ hạt nguyên lành (90%), nếu hàng giao theo mẫu, y hệt mẫu phải lưu mẫu cho các bên và cơ quan giám định chuyên ngành do hai bên thoả thuận, khi có tranh chấp về chất lượng mới có cơ sở để chứng minh người bán đã giao sai mẫu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hình thức các loại hợp đồng xuất nhập khẩu nói chung, hình thức hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học nói riêng được coi là hợp pháp khi được lập bằng văn bản. Vì thế khi ký kết hợp đồng với các thương nhân nước ngoài các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ quy định này, nếu thiếu một trong những điều khoản này khi ra tranh chấp thì hợp đồng bị coi là vô hiệu. Về đối tượng của hợp đồng là phân bón hoá học phải được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho phép nhập khẩu (Bộ ban hành danh mục phân bón được phép nhập khẩu hàng năm) và nước xuất khẩu cho phép xuất khẩu. Vì vậy, các bên không được ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phân bón mà các nước xuất khẩu cũng như nước nhập khẩu cấm xuất hoặc cấm nhập. Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao thì các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón có thể đưa vào hợp đồng những điều kiện khác do hai bên thoả thuận. Ví dụ với nhãn mác bao bì phân bón các doanh nghiệp khi ký hợp đồng yêu cầu người bán thực hiện “Quyết định 178 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 8 năm 1999 ban hành quy chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”, cụ thể: “... Yêu cầu để phía nước ngoài cung cấp hàng chấp thuận ghi trên phần nhãn nguyên gốc các thông tin thuộc nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt Nam. Trường hợp không thoả thuận được nội dung trên thì thương nhân nhập khẩu hàng hoá phải làm nhãn phụ ghi những thông tin thuộc nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt Nam đính kèm theo nhãn nguyên gốc bằng tiếng nước ngoài ... khi đưa ra bán hoặc lưu thông trên thị trường.” (điều 5 khoản 3 điểm a,b; QĐ 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999). Nếu người bán chấp nhận yêu cầu trên thì người mua giảm được đáng kể chi phí phát sinh trong việc thực hiện ghi nhãn hàng hoá, đồng thời tránh được tranh chấp có thể xảy ra. 1.2. Lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp Như trên đã phân tích hợp đồng mua bán hàng hoá có thể vô hiệu khi không được ký kết theo đúng quy định của pháp luật, nhưng điều khoản luật áp dụng (nếu có) thì vẫn còn hiệu lực. Trong thực tế ký kết hợp đồng nhập khẩu phân bón, các doanh nghiệp Việt Nam đã đưa vào hợp đồng và quy định điều khoản trọng tài, cơ quan giải quyết tranh chấp, nhưng chưa quy định luật áp dụng cho hợp đồng. Để có cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh sau này, khi đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu phân bón, các doanh nghiệp Việt Nam nên quy định một điều khoản “trọng tài và luật áp dụng”. Trước đây, phía người bán nước ngoài thường quy định điều khoản này là trọng tài Thương mại Singapore và áp dụng quy tắc của trung tâm này. Từ tháng 1 năm 1998 trở lại đây, luật Thương mại Việt Nam đã chính thức có hiệu lực, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón khi ký kết các hợp đồng nhập khẩu phân bón đã hướng người bán nước ngoài trong việc chọn các cơ quan xét xử và chọn nguồn luật của Việt nam. Nhiều hợp đồng đã thoả thuận được với thương nhân nước ngoài chọn trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Nếu có tranh chấp phát sinh, chắc chắn đỡ tốn kém và thuận lợi hơn khi tham gia tố tụng. Hợp đồng thường quy định “ mọi tranh chấp và bất đồng có thể xảy ra từ hoặc liên quan đến hợp đồng này trước hết phải được giải quyết bằng phương pháp thương lượng trực tiếp. Nếu không giải quyết bằng thương lượng trực tiếp các bên sẽ đưa tranh chấp ra Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, bên cạnh phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. Việc xét xử được tiến hành theo nguyên tắc tố tụng của trung tâm này và nên đưa điều khoản mẫu sau đây vào hợp đồng: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, theo Qui tắc tố tụng trọng tài của trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam”. “All disputes arising out of or in relation to this contract shall be finally settled by the Vietnam International Arbitration Center (VIAC) at the Vietnam Chamber of Commerce and Industry in accordance with its Arbitration Rules”. 1.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác kinh doanh nhập khẩu phân bón Muốn đạt hiệu quả cao trong kinh doanh một trong những yếu tố quyết định là con người. Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu phân bón cần phải có những cán bộ trực tiếp đàm phán và ký kết hợp đồng tinh thông nghiệp vụ và pháp luật về kinh doanh. Không ít các doanh nghiệp Việt Nam khi ký kết hợp đồng với thương nhân nước ngoài đã gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp mình do yếu về trình độ chuyên môn, không thông ngoại ngữ và sơ hở về mặt pháp lý (sự yếu kém này rất dễ bị đối tác khai thác). Vì thế, việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý cho đội ngũ cán bộ làm công việc chuyên môn nhập (xuất) khẩu nhằm giảm thiểu các tranh chấp phát sinh từ sự yếu kém về trình độ kinh doanh. Những người trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón cần phải có trình độ hiểu biết về sản xuất nông nghiệp như: mùa vụ của từng vùng, miền, tính chất lý, hoá học của từng loại phân bón, cách chăm bón cho từng loại cây trồng v.v... Có như vậy, mỗi tàu hàng nhập khẩu về hàng sẽ nhanh chóng được đưa đến đồng ruộng, giảm chi phí lưu kho, bãi, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong hoạt động nhập khẩu phân bón các doanh nghiệp cũng nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách ký những hợp đồng lớn (tàu Panamax 55.000 MT, cước phí vận chuyển rẻ hơn tàu nhỏ), giá trị hợp đồng cao. Khi đàm phán ký kết hợp đồng này (nếu cần) phải có tư vấn hoặc chuyên gia pháp lý để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong đàm phán ký kết cũng như trong tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý của đội ngũ cán bộ làm công tác nhập khẩu phân bón cần phải chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng. Cần phải tuyển dụng những người vừa hồng vừa chuyên, luôn đặt lợi ích của doanh nghiệp lên trên để đảm nhiệm công việc giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng. Đối với những người đang đảm nhiệm vị trí tương tự, các doanh nghiệp cần quan tâm đào tạo và đào tạo lại bằng cách tham gia các lớp chuyên ngành, tại chức và các lớp về nghiệp vụ xuất nhập khẩu ngắn hạn do trường Đại học Ngoại thương tổ chức. Ngoài ra các doanh nghiệp cần tổ chức sinh hoạt chuyên đề, mời các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu và pháp luật kinh doanh đến trao đổi để học hỏi, kết hợp lý luận với thực tiễn và lấy cả tiêu chí học tập trong bình xét thi đua hàng quý, hàng năm làm đòn bẩy cho hoạt động kinh doanh. 1.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu 1.4.1. Việt Nam cần tích cực, chủ động tham gia ký kết các điều ước quốc tế về thương mại. Trong xu thế tự do hoá thương mại, các quốc gia dù là nước phát triển hay kém phát triển đang nỗ lực đàm phán để ký kết các điều ước quốc tế đa phương về thương mại. Mục đích của các điều ước này là xây dựng các quy tắc pháp lý quốc tế điều chỉnh hoạt động thương mại trên phạm vi toàn cầu; giảm bớt sự xung đột pháp luật giữa luật pháp các quốc gia khác nhau; tạo ra môi trường pháp lý ổn định, bình đẳng cho các doanh nghiệp tiến tới có thể đạt được những luật chung cho lĩnh vực hoạt động thương mại. Chính vì vậy, Việt Nam cần xúc tiến một cách tích cực đàm phán gia nhập WTO, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế ... Công ước Viên 1980 là điều ước quốc tế cụ thể về thương mại, công ước này bảo vệ bình đẳng quyền và nghĩa vụ giữa người bán và người mua. Công ước cũng có những quy định cho phép các nước tham gia được quyền bảo lưu một số điều khoản. Có thể nói Công ước Viên 1980 là công ước có tính chuyên môn hẹp không mang “màu sắc chính trị”, vì vậy, Việt Nam cần sớm tham gia công ước này. 1.4.2. Hoàn thiện luật Thương mại Việt Nam Luật Thương mại Việt Nam đã được ban hành năm 1997. Để thuyết phục thương nhân nước ngoài tin tưởng áp dụng luật Thương mại Việt Nam, cần phải hoàn thiện Luật Thương mại trong thời gian sớm nhất. Theo luật Thương mại quy định, khi vi phạm các hợp đồng bên vi phạm phải gánh chịu chế độ trách nhiệm thông qua 4 chế tài, cụ thể là: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài phạt vi phạm, chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài huỷ hợp đồng. Tuy nhiên, luật Thương mại quy định rất chung chung về chế tài huỷ hợp đồng cũng như điều kiện để áp dụng chế tài này. Điều 235 quy định “Bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận”. Với cách quy định chung chung, thiếu rõ ràng như vậy hầu như không thể áp dụng được trên thực tiễn. Do vậy, điều 235 về chế tài huỷ hợp đồng cần phải sửa đổi theo hướng quy định rõ những vi phạm như thế nào thì chế tài huỷ hợp đồng sẽ được áp dụng. Chẳng hạn, có thể khẳng định rõ rằng, nếu một bên vi phạm các điều khoản liên quan đến 6 nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán (được quy định ở điều 50) thì bên kia có quyền huỷ hợp đồng. Bổ sung thêm các quy định liên quan tới hoạt động mua bán với thương nhân nước ngoài. Hiện nay hoạt động mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và đối với thương nhân Việt Nam nói riêng. Mặt khác, quan hệ này có những đặc trưng riêng biệt so với quan hệ mua bán hàng hoá trong nước, nó phức tạp hơn nhiều và mang tính quốc tế hơn nhiều. Nhưng đối với mối quan hệ này, Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 chỉ sử dụng có 3 điều (80, 81, 82). Như vậy, trong thời gian tới cần bổ sung thêm các quy định riêng để điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Theo Luật Thương mại hiện hành, hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài phải làm thành văn bản, điều này trở thành một tiêu chí bắt buộc đối với các thương nhân khi giao kết hợp đồng, nhưng khi sửa đổi, bổ sung hợp đồng lại không quy định rõ hình thức sửa đổi, bổ sung có cần phải lập thành văn bản như đã áp dụng khi giao kết hợp đồng hay không (điều 57). Thiết nghĩ để đảm bảo tính pháp lý, cần phải quy định rõ mọi sửa đổi, bổ sung hợp đồng phải được lập bằng văn bản. 1.4.3. Hoàn thiện các quy định về thi hành án Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm hiệu lực của các bản án đã được toà án hoặc trọng tài xét xử, công tác thi hành án nói chung và công tác thi hành án kinh tế nói riêng, phải được thực hiện nghiêm chỉnh. Công tác thi hành án trực tiếp liên quan đến việc bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hôi, góp phần vào việc giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Điều 136 Hiến pháp năm 1992 đã xác định: “Các bản án và các quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Hiện nay, tuy hệ thống tổ chức các cơ quan thi hành án kinh tế đã được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu, làm giảm đáng kể số lượng án tồn đọng, nhưng nhìn chung, công tác thi hành án còn chưa ngang tầm với sự phát triển của xã hội, còn nhiều vấn đề bức xúc, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Ở một số địa phương, lực lượng thi hành án vẫn còn thiếu, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu. Việc quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án còn có một số mặt hạn chế, chưa kịp thời. Nhiều nơi, các cấp chính quyền, các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ vai trò, ý nghĩa của công tác thi hành án. Từ đó, nhiều cơ quan nhà nước và cá nhân không chấp hành bản án, không tự nguyện thi hành án, thậm chí còn can thiệp không đúng pháp luật vào việc thi hành án, chưa nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp lệnh thi hành án. Bên cạnh đó, sự phối hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể trong công tác thi hành án chưa chặt chẽ; chưa huy động được sức mạnh của cả hệ thống các cơ quan nhà nước và các thành phần kinh tế trong xã hội. Số lượng bản án, quyết định còn tồn đọng chưa được thi hành vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Hiện tượng tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu tận tuỵ trong công việc, vẫn còn ở một số cán bộ, nhân viên thi hành án. Để chấn chỉnh và tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án, cần có một số giải pháp chủ yếu sau: (1) Cần có biện pháp củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức các cơ quan thi hành án, thực hiện đủ biên chế, nâng cao đội ngũ chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án; tăng cường chỉ đạo kiểm tra, xử lý vi phạm, hướng dẫn kịp thời các vướng mắc trong công tác thi hành án; xây dựng đề án phân cấp cho địa phương trong việc thực hiện thi hành án. (2) Cần có biện pháp chỉ đạo cơ quan thi hành án thực hiện quy chế dân chủ với các doanh nghiệp trong việc giải quyết thi hành án, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức, chí công vô tư, kiên quyết xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực, gây phiền hà, sách nhiễu; làm tốt công tác động viên, thuyết phục để các đương sự tự nguyện thi hành. Khi cần cưỡng chế phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật. (3) Các cấp chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác thi hành án tại đia phương mình; phát huy vai trò của cơ quan tư pháp, huy động lực lượng các cơ quan hữu quan của bộ máy chính quyền, phối hợp với các đoàn thể ở địa phương, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. (4) Các cơ quan, tổ chức, kể cả các cơ quan nhà nước phải tự nguyện thi hành án, nếu không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật. Những trường hợp cố tình dây dưa, cản trở hoạt động thi hành án, cần được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Đối với những cá nhân cản trở, chống đối việc thi hành án mà có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì kiên quyết truy cứu trách nhiệm hình sự, tổ chức xét xử lưu động một số vụ điển hình để tuyên truyền rộng rãi, làm gương cho những đối tượng khác. Các khiếu nại, tố cáo về thi hành án phải được cơ quan có liên quan phối hợp giải quyết kịp thời, dứt điểm tại nơi phát sinh, hạn chế tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cao vượt cấp. (5) Cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các thành phần kinh tế trong việc thi hành các bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. (6) Cuối cùng là cần có một cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật, hướng dẫn việc để lại cho địa phương trực tiếp thi hành án số tiền mà các cơ quan thi hành án thuộc địa phương này đã thu được cho ngân sách nhà nước để hỗ trợ công tác thi hành án tại cơ sở. 1.4.4. Hoàn thiện quy định về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. + Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp lệnh trọng tài thương mại: Lệnh chủ tịch nước số 08/2003/L-CTN ngày 10/3/2003 về việc công bố Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XI thông qua ngày 25 tháng 02 năm 2003 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2003. Pháp lệnh trọng tài thương mại được xây dựng trên những quy định luật mẫu của Uỷ ban thương mại quốc tế (Liên hợp quốc), có một số điểm mới và quan trọng như: Một là, hình thức tổ chức trọng tài có hai hình thức: trọng tài quy chế (là tổ chức các trung tâm trọng tài tại các trung tâm kinh tế do chính phủ quy định) và trọng tài vụ việc do yêu cầu của các bên có tranh chấp, có thể thành lập uỷ ban trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất để giải quyết. Pháp lệnh trọng tài giải quyết được mối quan hệ giữa trọng tài với toà án - cơ quan quyền lực nhà nước, khi một việc tranh chấp mà đã có thoả thuận của trọng tài thì thoả thuận đó phải được tôn trọng, nếu một bên đưa ra khởi kiện tại toà án mà bên kia phát hiện ra và xuất trình thoả thuận của trọng tài thì toà án phải đình chỉ giải quyết vụ việc để chuyển sang cho trọng tài giải quyết. Hai là, các bên tranh chấp được tự do lựa chọn trọng tài viên ngoài danh sách, trước đây các bên chỉ được chọn trọng tài viên trong danh sách. Ba là, được phép áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đó là bảo toàn chứng cứ, hoặc khi trọng tài đã có phán quyết mà một bên không chịu thực hiện thì bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu toà án thi hành phán quyết ấy. Bốn là, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu toà án huỷ quyết định của trọng tài khi thấy quyết định đó không khách quan, hay có dấu hiệu tiêu cực... Tuy nhiên, để pháp lệnh trọng tài thương mại đi vào thực tiễn giải quyết tranh chấp và chiếm đựơc niềm tin nơi doanh nghiệp cần phải có những văn bản liên quan tới hoạt động của trọng tài, hướng dẫn thi hành pháp lệnh trọng tài thương mại làm tăng sức hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với doanh nghiệp Việt Nam và thương nhân nước ngoài. 2. Các biện pháp giải quyết hiệu quả tranh chấp phát sinh Bất kỳ một hợp đồng nào trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu phân bón hoá học nói riêng nếu các bên đương sự thực hiện đúng thì không xảy ra tranh chấp và do đó không cần phải giải quyết tranh chấp. Nhưng trong thực tế có không ít những hợp đồng do một bên vi phạm gây cho bên kia thiệt hại cho nên dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Khi có tranh chấp thì phải giải quyết tranh chấp nếu bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu. Đây là khâu cuối cùng không thể thiếu của cả một quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu, các bên đương sự thường sử dụng các phương pháp: - Thương lượng giữa hai bên bằng cách gặp nhau thương lượng hoặc thông qua khiếu nại và trả lời khiếu nại. - Hoà giải có sự tham gia của người thứ ba. - Đi kiện ra toà án hoặc trọng tài. Dù giải quyết bằng phương pháp nào thì bên bị vi phạm cần phải cân nhắc lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp để đạt hiệu quả nhất, trên cơ sở lý luận ở chương I và thực trạng giải quyết tranh chấp ở chương II có thể rút ra một số biện pháp giải quyết như sau: 2.1. Căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng Các điều khoản của hợp đồng là thể hiện sự tự do ý chí của chủ thể trong việc xác lập quan hệ hợp đồng bao gồm các yếu tố: Tự do đề nghị giao kết, tự do chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của phía bên kia, ngoài các điều khoản chủ yếu của hợp đồng theo luật quy định còn tự do thoả thuận các điều khoản khác mà luật không quy định. Vì thế khi có tranh chấp các bên vận dụng đúng các điều khoản của hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng thì các bên dễ thống nhất giải quyết được tranh chấp. Nếu một bên giải thích thiên lệch điều khoản của hợp đồng hoặc quy định của pháp luật về tranh chấp, thì bên kia sẽ đưa ra những căn cứ bác bỏ, không chấp nhận và không thể giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thương lượng hoặc hoà giải. Khi đó các bên sẽ kiện ra toà án hoặc trọng tài thương mại. Các cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải vận dụng đúng các điều khoản hợp đồng và quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng thì sẽ đưa ra được những phán quyết đúng đắn, hợp tình, hợp lý, công bằng cho các bên. Nếu phán quyết của trọng tài hoặc toà án thiên lệch do không áp dụng đúng điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng sẽ làm cho bên này hoặc bên kia thiệt hại. Bản án hoặc phán quyết đó không đạt đựơc hiệu quả đối với các bên đương sự. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu muốn vận dụng đúng điều khoản hợp đồng, quy định của luật áp dụng cho hợp đồng thì cần phải có những cán bộ tinh thông nghiệp vụ, pháp luật để đọc và phân tích kỹ những điều khoản của hợp đồng và quy định của pháp luật, nếu cần phải nhờ tới chuyên gia có kinh nghiệm hoặc luật sư. Đối với cơ quan xét xử cũng phải có trình độ chuyên môn và pháp lý cao về tranh chấp trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể phân tích, mổ xẻ ý kiến của các bên trong quá trình tranh chấp. Đồng thời những người làm công tác xét xử phải có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, công minh, vô tư khách quan thì mới đưa ra phán quyết đúng, công bằng cho các bên đương sự. 2.2. Lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp Khi có tranh chấp phát sinh các bên đương sự phải căn cứ vào hợp đồng để chọn phương pháp giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho hợp đồng đó. Hợp đồng quy định phương pháp giải quyết tranh chấp nào thì phải sử dụng phương pháp ấy. Phần lớn hợp đồng nhập khẩu phân bón hoá học quy định trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp phát sinh, hai bên không thương lượng được thì đưa ra trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nếu hợp đồng quy định như trên khi có tranh chấp phát sinh bên có quyền lợi bị vi phạm không thương lượng trước với bên với bên vi phạm mà kiện ra trọng tài ngay thì trọng tài sẽ bác đơn kiện. Trường hợp đơn kiện đã được thụ lý, nhưng trong quá trình nghiên cứu hồ sơ kiện Uỷ ban Trọng tài sẽ yêu cầu bên đi kiện thương lượng với bên bị kiện trước. Bên đi kiện không thực hiện yêu cầu này của Uỷ ban Trọng tài thì yêu cầu của đơn kiện sẽ bị bác. Như vậy trọng tài cũng như các bên phải tôn trọng ý chí thoả thuận của các bên quy định trong hợp đồng là các bên phải thương lượng giải quyết trước, khi thương lượng không thành thì mới kiện ra trọng tài. Khi hợp đồng không có quy định gì về phương pháp giải quyết tranh chấp thì đọc luật áp dụng cho hợp đồng. Nếu luật áp dụng có quy định phương pháp giải quyết tranh chấp thì các bên phải tuân thủ đúng quy định của luật đó như quy định của hợp đồng về phương pháp giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp cả hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng đều không có quy định về phương pháp giải quyết tranh chấp thì tuỳ các bên lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp. Xét về mặt thực tiễn cũng như lý thuyết, phương pháp đầu tiên các bên nên chọn là phương pháp thương lượng vì hợp đồng được ký kết trên cơ sở ý chí thoả thuận của các bên. Bên vi phạm và bên bị vi phạm hiểu rõ sự việc trong quá trình thực hiện hợp đồng và nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Chỉ cần hai bên thẳng thắn, thiện chí, lắng nghe và thấu hiểu được nguyện vọng của bên kia thì chắc chắn thương lượng sẽ thành công. Mặt khác, thương lượng là phương pháp giải quyết tranh chấp ít tốn kém nhất vì các bên không phải trả chi phí cho các cơ quan xét xử, đồng thời tiết kiệm thời gian và các bên không phải tuân theo quy tắc tố tụng nào. Thương lượng của các bên thường được tiến hành bằng hai cách: Trực tiếp hoặc gián tiếp; Thương lượng trực tiếp là hai bên gặp gỡ trực tiếp trình bày, trao đổi những ý kiến về tranh chấp. Phương pháp này thường tốn kém chi phí và thời gian, áp dụng đối với những tranh chấp phức tạp, có giá trị lớn, nhưng giúp hai bên hiểu nhau hơn và do đó có thể giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn. Phương pháp gián tiếp là đơn khiếu nại và trả lời khiếu nại được thực hiện thông qua thư từ, telex, fax, email ... Phương pháp này đỡ tốn kém chi phí và thời gian, song hiệu quả không cao. Hoà giải có sự tham gia của người thứ ba chỉ nên chọn khi hai bên đã thương lượng rồi, nhưng còn một số điểm chưa đi đến thống nhất cần phải có ý kiến khách quan của người thứ ba là một luật sư, một chuyên gia hoặc một hoà giải viên với điều kiện các bên có thiện chí, sẵn sàng chấp nhận ý kiến khách quan, hợp tình, hợp lý của người thứ ba vì người thứ ba không bắt buộc các bên phải nghe theo mình. Khi hợp đồng hoặc luật áp dụng cho hợp đồng không có quy định gì về khiếu nại thì khiếu nại không phải là bắt buộc. Tuy nhiên, bên bị vi phạm không nên kiện ra trọng tài hoặc toà án ngay. Trong thực tế các bên đương sự tiến hành khiếu nại nhau trước, rồi sau đó mới đi kiện. Như vậy, đi kiện là phương pháp cuối cùng được sử dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh. Trước khi đi kiện phải tính toán kỹ về chi phí đi kiện, về khả năng thắng kiện, khả năng thi hành án. Về hiệu quả của việc đi kiện, nếu thấy giá trị của tranh chấp nhỏ, chi phí kiện tụng lớn thì không nên đi kiện. Hợp đồng quy định cơ quan xét xử nào thì nộp hồ sơ kiện cho cơ quan xét xử đó. Nếu hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng không quy định thì hai bên thoả thuận chọn cơ quan xét xử. Trong trường hợp không thoả thuận được thì theo thông lệ bên bị vi phạm có quyền đi kiện ra toà án cấp tỉnh nơi đóng trụ sở hoặc nơi có tài sản của bên vi phạm. Việc đi kiện ra toà án này sẽ đảm bảo những điều sau: - Bên bị kiện không thể bác bỏ được thẩm quyền của toà án vì thẩm quyền đó đã được luật của các nước bên bị kiện quy định. - Nếu bên bị kiện vắng mặt không có lý do chính đáng thì toà án vẫn tiến hành xét xử. - Khi bên bị kiện không kháng cáo thì buộc phải thi hành bản án, nếu không tự nguyện thi hành thì bản án sẽ bị cưỡng chế thi hành theo luật của nước toà án đó. Việc xác định đúng cơ quan xét xử để nộp hồ sơ kiện bước đầu sẽ đảm bảo việc tranh chấp có kết quả. 2.3. Lập hồ sơ khiếu nại hoặc đi kiện 2.3.1 Lập hồ sơ khiếu nại Trong hoạt động thương mại quốc tế khiếu nại liên quan đến nhiều bên như người bán, người chuyên chở, người thuê chở hàng hoá bằng đường biển, người bảo hiểm v.v... Song trong hoạt động nhập khẩu phân bón ở Việt Nam khiếu nại người bán hàng về giao hàng chậm, giao hàng kém phẩm chất là phổ biến nhất. Trước tiên khi có tranh chấp phát sinh người nhập khẩu muốn xác định khiếu nại ai thì phải dựa vào các căn cứ sau: - Dựa vào hợp đồng mua bán do các bên ký kết, trong hợp đồng quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Vì thế khi bên bán vi phạm thì người mua có quyền khiếu nại người bán. - Dựa vào điều ước quốc tế, luật áp dụng cho hợp đồng và tập quán thương mại quốc tế vì quyền lợi của người mua còn được quy định trong điều ước quốc tế, luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng và tập quán thương mại quốc tế. Chẳng hạn, khi khiếu nại người bán về giao hàng chậm thì bộ hồ sơ khiếu nại gồm: đơn khiếu nại; nội dung đơn phải đủ chi tiết như: Tên, địa chỉ của bên khiếu nại (người mua) và bên bị khiếu nại (người bán), số hợp đồng, số lượng hàng hoá bị giao chậm, số vận đơn, giao hàng chậm bao nhiêu ngày, căn cứ khiếu nại, yêu sách của bên khiếu nại, các căn cứ để đưa ra yêu sách đó. Các tài liệu, chứng từ kèm theo đơn khiếu nại như: Hợp đồng nhập khẩu, vận đơn, trích sao quy định của luật nói về tiền phạt do giao hàng chậm (nếu đòi tiền phạt), chứng từ, biên lai chứng minh thiệt hại thực tế phát sinh từ việc giao hàng chậm (nếu đòi bồi thường thiệt hại). Nếu thiệt hại là số tiền chênh lệch giữa giá bán hàng vào thời điểm hàng được giao đúng hạn và giá bán hàng vào thời điểm hàng bị giao chậm thì phải cung cấp các tài liệu đề cập về giá của loại hàng đó vào hai thời điểm này. Các hợp đồng mua bán cùng loại hàng giữa các khách hàng khác cũng vào hai thời điểm đó. Nếu thiệt hại là số tiền phạt hay tiền bồi thường cho người mua lại (người thứ ba) vì giao hàng chậm dây chuyền cho người này thì phải cung cấp hợp đồng mua bán loại hàng đó giữa người nhập khẩu và người mua lại, hoặc bản án của toà án hay phán quyết của trọng tài buộc người nhập khẩu phải nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại cho người mua lại. 2.3.2 Lập hồ sơ đi kiện Khi đi kiện ra toà án hoặc trọng tài thì bộ hồ sơ kiện phải phù hợp với luật tố tụng của nước toà án hay quy tắc tố tụng của trọng tài. Nhìn chung, theo luật tố tụng của các nước, theo quy tắc của trọng tài thì hồ sơ kiện bao gồm đơn kiện và các chứng từ làm bằng chứng. Chẳng hạn, bộ hồ sơ kiện ra trọng tài về người bán giao hàng kém phẩm chất, gồm: - Đơn kiện gửi cho trọng tài. Trong đơn kiện gồm những chi tiết như: Ngày, tháng, năm viết đơn; Tên, địa chỉ, tổ chức trọng tài; tên địa chỉ của các bên, nếu cử đại diện phải ghi rõ tên và địa chỉ của người đại diện; tóm tắt nội dung vụ tranh chấp diễn ra giữa hai bên từ khi ký hợp đồng cho đến khi không thể giải quyết được tranh chấp về phẩm chất kém bằng thương lượng, bằng hoà giải có sự tham gia của người thứ ba (nếu có); các yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn và căn cứ (ví dụ như đòi giảm giá, hoặc đòi trả lại hàng kém phẩm chất, lấy lại tiền); trị giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu; tên trọng tài viên mà nguyên đơn yêu cầu. Chứng từ làm bằng chứng là toàn bộ các chứng từ có trong hồ sơ khiếu nại về giao hàng kém phẩm chất gồm: - Hợp đồng chứng minh phẩm chất hàng hoá mà người bán phải giao. - Biên bản giám định phẩm chất hàng hoá ở cảng dỡ hàng để chứng minh hàng hoá kém phẩm chất. Biên bản này có thể do hai bên đương sự giám định đối tịch lập ra, có thể do một tổ chức giám định chuyên nghiệp được hai bên đương sự cùng chỉ định làm giám định lô hàng lập ra. Loại biên bản này ràng buộc tuyệt đối người bán, người bán không thể bác bỏ được. - Tài liệu chứng từ chứng minh cho tỷ lệ giảm giá và tổng số tiền giảm giá, nếu đòi giảm giá hàng. - Tài liệu, chứng từ chứng minh cho số tiền thiệt hại do hàng kém phẩn chất gây ra, nếu đòi bồi thường thiệt hại, như hợp đồng tái chế, biên lai tiền công tái chế, biên bản giám định về số trọng lượng hao hụt do tái chế, thiệt hại phát sinh do không sử dụng được hàng trong thời gian tái chế, hoặc hợp đồng bán lại lô hàng kém phẩm chất cho người thứ ba để chứng minh khoản tiền lỗ vì hàng kém phẩm chất, v.v... Khi yêu cầu trọng tài xử trả lại hàng, lấy lại tiền hàng, đồng thời đòi bồi thường thiệt hại thì tuỳ thuộc vào các khoản thiệt hại nêu trong đơn kiện mà phải cung cấp tài liệu, chứng từ để chứng minh như: biên lai phí mở L/C, biên lai về các chi phí đàm phán ký kết hợp đồng, chi phí fax, telex, điện thoại, tài liệu chứng minh mức lãi suất của số tiền hàng mà người mua đã phải trả cho người bán, thư khiếu nại hay đơn kiện của người mua đòi người bán nộp phạt hay bồi thường thiệt hại do không giao hàng, các tài liệu chứng minh khoản lợi mất hưởng do hàng kém phẩm chất phải trả lại v.v... - Các bản fax, telex ... yêu cầu người bán sang nước người mua để giám định đối tịch lại lô hàng kém phẩm chất hoặc yêu cầu cùng chỉ định tổ chức giám định thứ ba. - Thư, điện khiếu nại và thư, điện trả lời khiếu nại giữa hai bên. - Các tài liệu chứng từ có liên quan khác. 2.3.3 Bảo đảm thời hạn khiếu nại hoặc khởi kiện Sau khi đã lập được bộ hồ sơ đầy đủ thì phải gửi bộ hồ sơ trong thời hạn quy định cho người bị khiếu nại hoặc cho toà án hay trọng tài. Thời hạn khiếu nại người bán là một khoảng thời gian nhất định dành cho người mua hàng khiếu nại người bán. Vì vậy, người khiếu nại phải gửi hồ sơ khiếu nại đến tay người bị khiếu nại trong thời hạn khiếu nại. Nếu người mua bỏ qua thời hạn khiếu nại rồi mới tiến hành khiếu nại thì sẽ bị khước từ khiếu nại. Thời hạn khiếu nại chia làm hai loại: Thời hạn khiếu nại theo luật định và thời hạn khiếu nại quy ước. Thời hạn khiếu nại theo luật định là thời hạn khiếu nại được quy định trong luật mà các bên đương sự phải tuân theo. Chẳng hạn điều 49 Công ước La Hay 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình quy định thời hạn khiếu nại về phẩm chất hàng hoá là một năm kể từ lúc người mua hàng thông báo cho người bán biết về hàng hoá không phù hợp. Theo điều 39 của Công ước thì người mua phải thông báo cho người bán biết về hàng không phù hợp trong một thời gian ngắn kể từ lúc phát hiện ra khuyết tật của hàng hoá hay đáng lẽ phải phát hiện. Theo điều 39 của Công ước Liên hợp quốc 1980 về mua bán quốc tế hàng hoá thời hạn khiếu nại về hàng hoá không phù hợp là hai năm kể từ ngày hàng hoá đã thực sự giao cho người mua. Điều 241 Luật Thương mại Việt Nam quy định thời hạn khiếu nại: ba tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hoá; sáu tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hoá; trong trường hợp hàng hoá có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ ngày hết thời hạn bảo hành; ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đối với khiếu nại về các hành vi thương mại khác. Thời hạn khiếu nại quy ước là thời hạn khiếu nại do các bên quy định trong hợp đồng. Thời hạn ngắn hay dài do các bên tự thoả thuận, nhưng trong thực tế thì thời hạn khiếu nại ngắn hơn thời hạn khiếu nại luật định, thường là ba tháng kể từ ngày phát hiện ra khuyết tật của hàng hoá. Thời hiệu khởi kiện Người có quyền lợi bị vi phạm sau khi thương lượng không thành công có thể (hoặc có thể bỏ qua bước thương lượng) đi kiện ra toà án hay trọng tài thương mại. Người đi kiện phải tuân thủ đúng thời hiệu khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian do pháp luật quy định cho bên có quyền lợi bị vi phạm đi kiện ra toà án hoặc trọng tài, nếu bỏ qua thời hiệu khởi kiện mới đi kiện thì đơn kiện sẽ bị bác. Công ước Viên 1980 quy định thời hiệu khởi kiện người bán là hai năm, Luật Thương mại Việt Nam (điều 242) quy định thời hiệu khởi kiện áp dụng chung cho tất cả hành vi thương mại là hai năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền khiếu nại. Tóm lại, lập hồ sơ khiếu nại hoặc đi kiện rất quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu, vì thế bên có quyền lợi bị vi phạm muốn giải quyết có hiệu quả tranh chấp phát sinh phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, chứng từ gửi cho bên vi phạm, toà án hoặc trọng tài trong thời hiệu khiếu nại hoặc thời hiệu khởi kiện. KẾT LUẬN Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu phân bón ở nước ta trong những năm qua đã phát sinh nhiều tranh chấp do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để ngăn ngừa tranh chấp ngay từ đầu cần phải chú ý khâu đàm phán ký kết hợp đồng, lựa chọn đối tác có uy tín trên thị trường, có khả năng thực hiện hợp đồng. Khi ký kết các bên phải đọc kỹ hợp đồng, người ký hợp đồng phải đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Hợp đồng phải thể hiện đầy đủ ý chí, có đầy đủ các điều khoản theo luật định quy định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Ngoài ra, các bên cũng cần đưa điều khoản “trọng tài và luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp” vào hợp đồng, bởi vì điều khoản này độc lập với hợp đồng, tuy hợp đồng vô hiệu nhưng điều khoản trọng tài vẫn có giá trị pháp luật. Khi tranh chấp phát sinh các bên cần phải chọn các biện pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp đó. Tốt nhất là thoả thuận, hoà giải trên tinh thần thân thiện, hợp tác hai bên cùng có lợi để đi đến thống nhất giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, khi bên vi phạm cố tình không chấp nhận yêu sách tối thiểu thì bên có quyền lợi bị vi phạm cần cân nhắc, trường hợp thiệt hại giá trị lớn có thể đi kiện ra toà án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Muốn giải quyết hiệu quả các tranh chấp các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ chứng từ, các bằng chứng chứng minh mình bị vi phạm. Hồ sơ chứng từ khiếu nại hoặc khởi kiện phải được gửi đến người bị khiếu nại hoặc cơ quan giải quyết tranh chấp trong thời hạn hiệu lực quy định. Có như vậy mới có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 2. Bộ luật Dân sự 1995 3. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 4. Luật Doanh nghiệp Việt Nam 1999 5. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ngày 25 tháng 9 năm 1989 6. NĐ 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chế độ ký kết hợp đồng kinh tế 7. Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hoá 8. Công ước Lahaye 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình 9. Nghị định 57 NĐ/CP ngày 31/7/1998 10. Quyết định về xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón của Thủ tướng Chính phủ các năm 1997/1998/1999/2000/2001 11. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương (ĐH. Ngoại thương) 12. Giáo trình pháp luật trong hoạt động kinh doanh đối ngoại (ĐH. Ngoại thương) 13. Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án kinh tế, (trường đào tạo các chức danh tư pháp), 2001 14. 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, (2002), NXB Chính trị quốc gia 15. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, 2002, NXB Chính trị quốc gia 16. Bộ Nông nghiệp & PTNT, “số liệu thống kê ngành Nông nghiệp & PTNT 1996-2000, NXB Nông nghiệp” 17. Tổng cục Thống kê, niên giám thống kê 2000, 2001 NXB Thống kê 18. Những điều khoản thống nhất về thực hành tín dụng chứng từ, UCP 500 19. Inconterms 2000 20. PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết, (2002), “tranh chấp từ hợp đồng XNK án lệ trọng tài và kinh nghiệm”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Tạp chí thông tin ngân hàng Ngoại thương 2002 (ngân hàng Ngoại thương Việt Nam), năm 2002 22. Tạp chí Tài chính (Bộ Tài chính), 2001, 2002 23. Báo Thương mại năm 2000, 2001, 2002 24. Báo An ninh thế giới năm 2001, 2002 25. Báo Diễn đàn doanh nghiệp năm 1999, 2000, 2001, 2002 26. Báo Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 2000, 2001, 2002 27. Ban Vật giá Chính phủ: “Báo cáo công tác điều hành giá cả trong 10 năm về xuất khẩu gạo và nhập khẩu phân bón, 1990-1999” 28. Tổng cục Hải quan, Báo cáo thống kê hàng hoá nhập khẩu hàng năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 29. Bộ Thương mại-Bộ Văn hoá Thông tin, 2003 “Sản phẩm hội nhập, Việt Nam tự do hoá thương mại” NXB Chính trị quốc gia 30. Pháp lệnh thi hành án (lệnh của Chủ tịch nước số 13L/CTN công bố ngày 24 tháng 4 năm 1993) 31. Thông tư liên ngành số 02-TTLN ngày 17 tháng 9 năm 1993 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao hướng dẫn về việc cưỡng chế thi hành án dân sự; 32. Pháp lệnh trong tài thương mại; Lệnh số 08/2003/L-CTN về việc công bố Pháp lệnh trọng tài thương mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuat12.doc
Tài liệu liên quan