Chăm sóc cho bệnh nhân 6 giờ đầu sau phẫu thuật

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ Nghiên cứu khảo sát kiến thức, thực hành của điều dưỡng chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu sau phẫu thuật lấy mẫu toàn bộ các điều dưỡng đã hoặc đang làm việc tại phòng hồi sức khoa gây mê hồi sức các bệnh viện hạng 1 nên kết quả của nghiên cứu đã khái quát và tổng hợp hết các ý kiến của những người trực tiếp làm việc trong ngành nghề này. Với lưu lượng người bệnh ngày càng tăng và bệnh lý phẫu thuậtphức tạp, đa dạng trách nhiệm của điều dưỡng giai đoạn trước, trong và đặc biệt là sau mổ đòi hỏi một sựchăm sóc đặc biệt. Tỉ lệ kiến thức đúng của điều dưỡng đa khoa và gây mê hồi sức làm việc trong phòng hồi tỉnh đạt trên 60%. Kết quả cho thấy, nhóm điều dưỡng gây mê có điểm kiến thức hay tỉ lệ đúng cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa. Tỉ lệ thực hành đúng ở 2 nhóm điều dưỡng đa khoa và gây mê. Kết quả cho thấy, nhóm điều dưỡng gây mê có điểm thực hành hay tỉ lệ đúng cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa ở hầu hết các thao tác. Có bốn mối liên quan giữa đặc tính dịch tễ học của điều dưỡng với điểm kiến thức, đó là mối liên quan về giới tính, việc cập nhật thông tin chuyên môn, bệnh mổ được phân công chăm sóc và về phân nhóm điều dưỡng. Có ba mối liên quan giữa đặc tính dịch tễ học của điều dưỡng với điểm thực hành, đó là mối liên quan về nhóm tuổi, thâm niên công tác và về phân nhóm điều dưỡng. Từ kết quả của nghiên cứu, các nhận xét và so sánh với các đề tài liên quan, chúng tôi mong muốn xây dựng một chương trình theo chuyên đề dựa trên các nội dung còn nhầm lẫn hoặc chưa nắm rõ trong kiến thức cũng như lớp huấn luyện về các kỹ năng còn sai và thiếu sót trong thực hành. Trong quá trình thực hiện đề tài theo chúng tôi, tại phòng hồi tỉnh cần có sự phân công chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu sau phẫu thuật nên phối hợp giữa đội ngũ điều dưỡng gây mê hồi sức và đa khoa. Điều này cần nhân rộng trong tất cả khoa gây mê hồi sức các bệnh viện đa khoa cũng như chuyên khoa.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chăm sóc cho bệnh nhân 6 giờ đầu sau phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014  35 CHĂM SÓC CHO BỆNH NHÂN 6 GIỜ ĐẦU SAU PHẪU THUẬT  Nguyễn Thị Mỹ Hiền*, Nguyễn Văn Chừng**, Nguyễn Văn Chinh**  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Thời gian 6 giờ đầu sau mổ là giai đoạn của nhiều rối loạn về sinh lý trên các tạng chính yếu  của cơ thể; bệnh nhân cần phải được theo dõi chăm sóc một cách đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng  và kinh nghiệm.  Mục  tiêu nghiên cứu: Khảo sát kiến thức, thực hành chăm sóc bệnh nhân (CSBN) 6 giờ đầusau mổ của  điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng đa khoa tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn Thành  phố Hồ Chí Minh.  Đối tượng‐phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 131 điều dưỡng hiện đang CSBN  tại phòng hồi tỉnh các bệnh viện Bình Dân, Nguyễn Tri Phương, 115, Nhân Dân Gia Định, Nhi Đồng 1 và 2 từ  tháng 3/2013 đến tháng 5/2013 được phân thành 2 nhóm. Nhóm điều dưỡng gây mê hồi sức (n = 68) và nhóm  điều dưỡng đa khoa (n = 63). Điều dưỡng được phát phiếu khảo sát kiến thức bằng bộ câu hỏi trắc nghiệm và  quan sát thực hành CSBN tại phòng hồi tỉnh qua bảng kiểm kỹ thuật.  Kết quả:Điều dưỡng CSBN 6 giờ đầu sau mổ đa phần là nữ giới chiếm tỉ lệ 78,6% và phần lớn có độ tuổi  dưới 45 với tỉ lệ 91,6% và đa số trình độ chuyên môn trung học đạt tỉ lệ cao 74,8%. Phần lớn các nội dung về  kiến thức và thực hiện kỹ thuật điều dưỡng đều có tỉ lệ trả lời và chăm sóc đúng trên 50%.   Kết  luận:Nhóm  điều dưỡng gây mê có  điểm kiến  thức và  thực hành hay  tỉ  lệ đúng cao hơn nhóm  điều  dưỡng đa khoa. Có bốn mối liên quan về kiến thức và ba mối liên quan với điểm thực hành giữa đặc tính dịch tễ  học của điều dưỡng.  Từ khóa: Chăm sóc bệnh nhân ngay sau mổ, phòng hồi tỉnh.  ABSTRACT PATIENT CARE PRACTICE AT 6 HOURS AFTER SURGERY  Nguyen Thi My Hien, Nguyen Van Chung, Nguyen Van Chinh    * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 35 – 40  Background: Six hours after surgery end  time  is  the stage of many physiological disorders on  the major  organs of the body; patients need to be monitored with particular care with doctors, nursing has the ability and  experience.   Objectives: Knowledge surveys, patient care practices 6 hours after surgery of Nurse Anesthetists and General Nurses at the first class hospitals in Ho Chi Minh City. Research methods: The  cross‐section  study descripts 131 nurses who  are working  in  recovery  room  at  Nguyen Tri Phuong hospital, 115 Hospital, Gia Định Hospital, Pediatric Hospital no.1 and Pediatric Hospital  no. 2  from March to May 2013.They are classified  into two groups. Nurse Anesthetists (n = 68) and General  Nurses (n = 63). Nursing knowledge was surveyed by the multiple choice questions and observed patient care  practice at recovery room by using checklist. Results: Most women, who care the patient for 6‐hour after surgery, comprise 78.6% and most of them are  under age 45 with the ratio of 91.6% and a majority of qualified with 2‐year‐ training is high, ratio 74.8%. The  majority of the content on knowledge and on‐the‐job implementation has a ratio of answers and proper care on  * Đại học Y Dược Tp. HCM,   ** BV Nguyễn Tri Phương  Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Mỹ Hiền,   ĐT: 0983363762,   Email: hienduc1081@ymail.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 36 50%.  Conclusion: Nurse  anesthetists  have  the  knowledge  and  practice  of  the  correct  ratio  or  higher  general  nurses. There are 4 relations of knowledge and 3 points of respect to the practice of epidemiology characteristics  between nurse anesthetists and general nurses.   Keywords: Patient care after surgery, recovery room.   ĐẶT VẤN ĐỀ  Thời gian sau mổ, nhất là thời gian khi người  bệnh còn tác dụng của thuốc dùng trong gây mê  và phẫu thuật, còn gọi là thời gian thoát mê rất  quan trọng, đây  là giai đoạn của nhiều rối  loạn  về  sinh  lý  trên  các  tạng  chính  yếu  của  cơ  thể  người bệnh, bao gồm các biến chứng về hô hấp,  tuần hoàn, thần kinh trung ương, tiêu hóa, thận  niệu cho đến hệ vận động cơ xương khớp, cũng  như hệ nội tiết(4,5,6). Để phát hiện sớm các tai biến,  biến  chứng  xảy  ra  trong  thời  gian  này,  người  bệnh cần phải được theo dõi chăm sóc một cách  đặc biệt với các bác sĩ, điều dưỡng có khả năng  và  kinh  nghiệm,  đồng  thời  cần  có  đầy  đủ  các  phương tiện để theo dõi và bảo trì các chức năng  quan trọng của người bệnh(9).  Chăm  sóc  người  bệnh  tại  phòng  hồi  tỉnh  làmột  chuyên khoa  đòi hỏi phải  có kỹ năng(10).  Do vậy, người  điều dưỡng  làm việc  tại phòng  hồi  tỉnh  vừa  là  người  nói  thay  người  bệnh  những yêu cầu cần thiết, đồng thời vừa là người  đáp ứng các yêu cầu đó; nhất là khi người bệnh  đang trong thời gian chịu ảnh hưởng của gây mê  và có  trách nhiệm duy nhất  là chăm sóc người  bệnh sau gây mê cho đến khi họ hoàn toàn có ý  thức, gần như trở về trạng thái ban đầu(7).  Tại Việt Nam nói  chung,  ở Thành phố Hố  Chí Minh nói riêng hầu hết các bệnh viện đã có  sự thống nhất điều trị người bệnh ngay sau mổ  thuộc quyền quyết  định  của bác  sĩ gây mê hồi  sức, nhưng  lãnh vực  theo dõi,  chăm  sóc người  bệnh  ngay  sau mổ  chưa  được  phân  công  phổ  biến  cho  điều dưỡng  gây mê  hồi  sức  chủ  yếu  vẫn  là  điều  dưỡng  đa  khoa.  Theo  tiêu  chuẩn  nghiệp vụ các ngạch viên chức y tế điều dưỡng  cho thấy rằng điều dưỡng gây mê hồi sức có đủ  kiến thức, thực hành trong chăm sóc người bệnh  6 giờ đầu saumổ (1).  Đây là vấn đề cần phải tiến hành nghiên cứu  đề  tài  nàynhằm mục  đích  tìm  hiểu  kiến  thức,  thực hành chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu  sau  mổvà  mối  liên  quan  giữa  đặc  điểm  của  đối  tượng nghiên cứu với kiến thức, thực hành trong  chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu sau mổ.  ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Tiêu chí đưa vào  Đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  là  những  điều dưỡng gây mê hồi sức (ĐDGMHS) và điều  dưỡng đa khoa (ĐDĐK) ở khoa gây mê hồi sức  đã  có  chăm  sóc người  bệnh  (CSNB)  tại phòng  hồi tỉnh trong các bệnh viện hạng 1 trên địa bàn  Thành phố Hồ Chí Minh; có thời gian làm việc từ  12 tháng trở lên; tình nguyện tham gia nghiên cứu.  Tiêu chí loại trừ  Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng  đa khoa  đang  trong  thời gian  tập  sự,  làm việc  bán thời gian hay cộng tác, đang trong thời gian  chấp hành kỷ luật có thể làm ảnh hưởng đến kết  quả nghiên cứu.  Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả.  Cỡ mẫu  131 mẫu đạt yêu cầu chia thành hai nhóm  Nhóm  Điều  dưỡng  gây mê  hồi  sức:  68  điều  dưỡng   Nhóm Điều dưỡng đa khoa: 63 điều dưỡng  Địa điểm và thời gian nghiên cứu  Thu  thập số  liệu  tại khoa Phẫu  thuật – gây  mê  hồi  sức  các  bệnh  việnNguyễn  Tri  Phương,  115, Nhi  Đồng  1, Nhi  Đồng  2, Nhân Dân Gia  Định, Bình Dân từ 15/3/2013 đến 15/5/2013.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014  37 Phương pháp tiến hành  Điều dưỡng gây mê hồi sức và điều dưỡng  đa khoa đồng ý tham gia nghiên cứu thì sau khi  ký giấy đồng ý sẽ được phát bảng câu hỏi  trắc  nghiệm.  Điều dưỡng  trưởng khoa phân công cụ  thể  lịch  làm việc  của  từng  điều dưỡng  trong khoa  cho người nghiên cứu quan sát  thực hành dựa  theo bảng kiểm kỹ thuật.  Số  liệu  sau khi  thu  thập  sẽ được phân  tích  dựa trên phần mềm Stata 12.0.  KẾT QUẢ  Qua khảo sát có 131 mẫu được đưa vào phân  tích. Kết quả như sau:  Đặc tính chung của điều dưỡng  Điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân 6 giờ đầu  sau mổ đa phần  là nữ giới chiếm tỉ  lệ 78,6% và  phần  lớn có độ  tuổi dưới 45 với  tỉ  lệ 91,6%. Về  trình độ chuyên môn, đa số  trung học đạt  tỉ  lệ  cao 74,8%, đại học chỉ 22,1%; 41,2% điều dưỡng  tham gia có  thời gian công  tác dưới 5 năm. Về  đời sống cá nhân, tỉ lệ có và chưa có gia đình là  gần bằng nhau và hầu như tất cả đều có dưới 2  con với tỉ lệ 95,4%. Về các nguồn cập nhật thông  tin chăm sóc người bệnh, học hỏi kinh nghiệm từ  đồng nghiệp chiếm tỉ lệ vượt trội với 84,6%; loại  bệnh mổ ASA IV và ASA V có tỉ lệ thấp, các mặt  bệnh mổ còn  lại có  tỉ  lệ  tương đương; đa phần  đối tượng đều mong muốn được học thêm kiến  thức về cách chăm sóc người bệnh tại phòng hồi  tỉnh với tỉ lệ 84,7%.  Tỉ  lệ  kiến  thức  đúng  về  chăm  sóc  người  bệnh 6 giờ đầusau mổ  Gồm  51  câu  hỏi,  được  chia  thành  3  nhóm  dựa  theo mức  độ  quan  trọng  trong  giai  đoạn  chăm sóc người bệnh ngay sau phẫu  thuật. Đa  phần các nội dung đều có tỉ lệ trả lời đúng trên  50%, 21 nội dung có tỉ  lệ trả  lời đúng trên 90%,  bên cạnh đó vẫn còn 7 nội dung tỉ lệ trả lời đúng  dưới  50%  thậm  chí  có  3 nội dung  chỉ  đạt  tỉ  lệ  dưới 30%.  Tỉ  lệ  thực  hành  đúng  về  chăm  sóc  người  bệnh 6 giờ đầusau mổ  Phần  thực hành người nghiên cứu quan sát  theo bảng kiểm để đánh giá thực hành CSNB 6  giờ đầu sau mổcủa điều dưỡng gây mê hồi sức  và điều dưỡng đa khoa. Ngoại trừ truyền máu,  tất cả các nội dung còn  lại đều có  trên 50% đối  tượng  thực  hành  đúng.  Tuy  nhiên,  đối  với  những  yêu  cầu  đầu  tiên  khi  chăm  sóc  người  bệnh  6  giờ  đầu  sau phẫu  thuật  là  theo dõi  cử  động  2  chi dưới  với  gây  tê  tủy  sống,  theo dõi  lượng máu mất, nâng hàm khi SpO2 dưới 95% và  đặt nội khí quản khi người bệnh có suy hô hấp  có tỉ  lệ thực hành đúng chưa cao so với các nội  dung khác.  Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học của  điều  dưỡng  với  điểm  kiến  thức  chăm  sóc  người bệnh 6 giờ đầusau mổ:   Bảng 1: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều  dưỡng với điểm kiến thức  Đặc tính Điểm (tổng = 126) Độ lệch chuẩn Giá trị p Thông tin cập nhật Có 99,7 8,3 0,04 Không 93,3 17,3 Phân loại bệnh mổ Biết 99,2 8,0 0,02 Không 89,5 21,7 Ý kiến đào tạo Có 97,1 14,6 0,01 Không 92,8 9,5 Phân nhóm Gây mê (kiến thức) 101 8,9 0,04 Gây mê (kiến thức, thực hành) 97,8 8,2 Đa khoa (kiến thức, thực hành) 93,3 18,3 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 38 Mối liên quan giữa đặc điểm dịch tễ học của điều dưỡng với điểm kiến thức chăm sóc người  bệnh 6 giờ đầusau mổ:   Bảng 2: Mối liên quan đặc điểm dịch tễ học của điều dưỡng với điểm thực hành  Đặc tính Điểm (tổng = 27) Độ lệch chuẩn Giá trị p Nhóm tuổi Dưới 30 16,5 7,5 0,004 Từ 30 đến 45 10,8 8,3 Trên 45 14,3 6,9 Thâm niên công tác Dưới 5 năm 17,5 7,1 0,003 Từ 5 đến 10 năm 11,7 7,8 Từ 11 đến 20 năm 11,6 9,2 Trên 20 năm 12,5 5,6 Trên 10 triệu 23,8 1,8 Không 14,4 8,7 Phân loại bệnh mổ Biết 14,5 8,6 0,05 Không 11,8 8,0 Phân nhóm Gây mê (kiến thức, thực hành) 18,5 4,6 0,0001 Điều dưỡng (kiến thức, thực hành) 15,0 6,5 BÀN LUẬN  Chăm sóc người bệnh  là một công việc đòi  hỏi sự cẩn thận và chu đáo, đặc biệt là chăm sóc  người bệnh ở giai đoạn hậu phẫu, vì thế các đặc  tính này dường như phù hợp ở nữ giới hơn phái  nam. Qua khảo sát toàn bộ điều dưỡng chăm sóc  ở khoa gây mê các bệnh viện, tỉ lệ nữ giới chiếm  hơn ¾ trong mẫu nghiên cứu. Một nghiên cứu ở  bệnh viện Johannesburg, Nam Phi(8) cũng có kết  quả tương tự, 95,9% (n=47) điều dưỡng làm việc  trong phòng hồi tỉnh là nữ và chỉ 4,1% (n = 2) là  nam. Độ tuổi trung bình là 44 (25 đến 63), trung  vị 41 tuổi. Bên cạnh đó, tỉ lệ nhân viên có trên 5  năm  kinh  nghiệm  chiếm  tỉ  lệ  tương  đương  (58,8%); đây là nguồn lực dồi dào và là điều kiện  thuận  lợi  để  lớp  sau  học  hỏi  lớp  trước,  cộng  hưởng  sức mạnh  tuổi  trẻ  giúp  nâng  cao  chất  lượng  chăm  sóc  người  bệnh.Tất  cả  đối  tượng  đều đồng ý rằng điều dưỡng cần được đào tạo  thêm kiến thức cũng như kỹ năng chăm sóc của  điều  dưỡng  tại  phòng  hồi  tỉnh,  điều  này  cho  thấy  trách  nhiệm  của  nhân  viên  đối  với  chính  công  việc  đang  làm,  là  yếu  tố  quan  trọng  để  nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh.  Nhìn chung 51 câu hỏi về kiến thức, tỉ lệ trả  lời đúng là rất cao chỉ 7 nội dung có tỉ lệ trả lời  đúng dưới 50%,  thậm chí có câu đạt gần 100%,  điều này  cho  thấy  chất  lượng  chăm  sóc người  bệnh khâu sau mổ ở các bệnh việnhạng 1, mặc  dù tỉ lệ nhân viên có trình độ cử nhân và làm lâu  năm  là  không  nhiều,  tuy  nhiên  kiến  thức  vẫn  được họ cập nhật đầy đủ. Bên cạnh đó, chúng ta  cũng cần lưu tâm đến 7 câu có tỉ lệ trả lời thấp,  thậm chí chỉ đạt xung quanh mức 20%.  Đây  là  giai  đoạn  đòi  hỏi  rất  nhiều  yếu  tố  giúp  người  bệnh  phục  hồi  sức  khỏe  sau  phẫu  thuật, trong đó 4 bước quan trọng nhất thiết phải  có là theo dõi cử động hai chi dưới với gây tê tủy  sống,  theo  dõi  lượng máu mất,  nâng  hàm  khi  SpO2 dưới  95% và  đặt nội khí quản khi người  bệnh có suy hô hấp có tỉ lệ thực hành đúng trên  50%  nhưng  vẫn  chưa  cao  bằng  các  nội  dung  khác.  Điều  này  có  thể  diễn  giải  từ  thực  trạng  hiện  nay,  các  nhân  viên  y  tế  đều  nắm  rõ  lý  thuyết và các thao tác chuyên môn, tuy nhiên do  tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên, họ  phải chăm sóc quá nhiều người bệnh khiến cho  các  thao  tác  chưa  được  thực hiện  đầy  đủ như  những gì được học. Đặc biệt ở nhóm điều dưỡng  gây mê hồi sức các thao tác chăm sóc người bệnh  ngay sau mổ hầu như đạt tỉ lệ 100%.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014  39 Có sự khác biệt đáng kể ở nhóm điều dưỡng  gây mê được đào tạo chuyên sâu và điều dưỡng  đa khoa. Nhóm điều dưỡng đa khoa có điểm về  thực hành thấp hơn nhóm còn lại. Đây là yếu tố  quan trọng nhất trong chăm sóc người bệnh, đặc  biệt là giai đoạn 6 giờ sau hậu phẫu, việc đào tạo  chuyên ngành cho điều dưỡng chăm sóc người  bệnh tại phòng hồi tỉnh là điều cần thiết và cũng  được hầu hết điều dưỡng làm việc trong ngành  nghề này ủng hộ.  Nhân viên có cập nhật thông tin về chăm sóc  người bệnh cao hơn nhân viên không cập nhật  cho  thấy mức  độ quan  tâm  đến việc nâng  cao  kiến  thức  trong công việc mình  làm có ý nghĩa  rất  lớn.  Ý  thức  được  tầm  ảnh  hưởng  của  giai  đoạn  hậu  phẫu  đối  với  sức  khỏe  người  bệnh,  người  điều dưỡng  cần  luôn  chủ động học hỏi,  tìm  tòi  thêm kiến  thức nâng cao  tay nghề. Tuy  nhiên,  nhân  viên  không  được  phân  công  hoặc  không biết phân cấp mình đang chăm sóc có số  điểm thấp, đây là vấn đề cần lưu ý, điều dưỡng  chăm sóc cần nắm rõ mặt bệnh mình phụ trách  sẽ giúp nhận biết mình phải  làm gì để kết quả  cuộc phẫu  thuật  sẽ  theo  chiều hướng  tốt nhất.  Nhóm những điều dưỡng có ý kiến nên đào tạo  thêm về chuyên ngành chăm sóc người bệnh giai  đoạn  hồi  tỉnh,  điểm  kiến  thức  cao  hơn  nhóm  không muốn.  Điều  dưỡng  gây mê  không  trực  tiếp chăm sóc người bệnh có điểm kiến thức cao  hơn 2 phân nhóm còn  lại. Đây  là những người  đa số thâm niên công tác từ 5 năm trở lên có độ  chín trong tay nghề, luôn cập nhật các thông tin  mới và tiếp thu chúng dễ dàng hơn so với nhóm  những người  ít  thâm niên hơn khi chưa đạt độ  thuần  thục  trong nghề nghiệp vì  chưa  có kinh  nghiệm. Ngoài ra, những người này cũng là đối  tượng  được phân công chăm sóc các mặt bệnh  đa dạng, hiểu và nắm rõ các cấp độ cần xử lý đối  với một người bệnh sau phẫu thuật.  Tóm  lại,  trên  đối  tượng  là  các  điều dưỡng  làm việc  trong phòng hồi  tỉnh  thực hiện  chăm  sóc người bệnh sau phẫu  thuật  tập  trung phần  lớn là nữ, trung bình khoảng 33 tuổi, tỉ lệ có gia  đình nhiều hơn một ít so với người còn độc thân,  có  và  chưa  có  con  tương  đương  nhau.  Điều  dưỡng  đa khoa và  điều dưỡng gây mê  có  tỉ  lệ  tương đương nhau khi lấy mẫu toàn bộ các bệnh  viện  đa khoa  có phòng hồi  tỉnh,  trình  độ  điều  dưỡng phần lớn vẫn là trung cấp cả ở nhóm đa  khoa và chuyên ngành gây mê. Thâm niên công  tác  từ 5 năm  trở  lên chiếm gần 60%. Trong cập  nhật thông tin về chuyên ngành mình đang công  tác, đa phần họ cập nhật từ nhà trường. Việc cập  nhật  thông  tin xét  theo  tiêu  chí  cập nhật  từ ba  nguồn thông  tin trở  lên, ngoài các kiến  thức đã  được  cung  cấp  trên  ghế  nhà  trường,  bổ  sung  thêm  trong  quá  trình  làm  việc  (sách,  tạp  chí,  internet, từ đồng nghiệp hoặc kinh nghiệm thực  tế) tỉ lệ này chiếm khoảng 41%. Đa phần các điều  dưỡng  tham  gia  trả  lời  bộ  câu  hỏi  đều  được  phân  công  chăm  sóc  các  cấp  độ  từ ASA  I  đến  ASA V (91%). Tham khảo ý kiến chung về việc  nên đào  tạo chuyên ngành chăm sóc hậu phẫu  cho điều dưỡng  làm việc ở phòng hồi tỉnh, gần  85% đồng ý với ý kiến trên. Trong quá trình thu  thập số liệu, nghiên cứu viên cũng đã tham khảo  ý kiến chuyên gia gây mê hồi sức mô hình chăm  sóc người bệnh ngay sau phẫu  thuật  tại phòng  hồi tỉnh, các chuyên gia cho rằng trên thực tế đã  có  nhiều  tai  biến  xảy  ra  nhất  là  xử  trí  nhanh  trong cấp cứu hô hấp cho người bệnh ngay sau  mổ nên rất cần  thiết phải có sự phối hợp chăm  sóc  giữa  điều  dưỡng  gây mê  hồi  sức  và  điều  dưỡng đa khoa giai đoạn này. Điều dưỡng gây  mê hồi sức đã được huấn  luyện  thành thạo các  kỹ năng giải phóng đường  thở như nâng hàm,  đặt nội khí quản, kiến  thức dược động  lực học  giúp phát hiện sớm, đánh giá tác dụng của thuốc  sử dụng  trong gây mê hồi sức ngay  từ khi còn  ngồi  trên ghế nhà  trường.  Đây  cũng  là vấn  đề  cần phải  đào  tạo  về  chuyên ngành  cho những  điều  dưỡng  đa  khoa  khi  họ  được  phân  công  chăm sóc người bệnh tại phòng hồi tỉnh.  Điểm  kiến  thức  và  thực  hành  có mối  liên  quan  với  các  đặc  điểm  về  độ  tuổi,  thâm  niên  công  tác,  ý  kiến  nên  hay  không  trong  đào  tạo  chuyên  ngành  cho  các  điều  dưỡng  chăm  sóc  người bệnh phòng hồi  tỉnh và nhất  là 3 yếu  tố  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nguyễn Tri Phương 2014 40 quan  trọng:  cập  nhật  thông  tin  thường  xuyên,  nhận định mặt bệnh được phân công chăm sóc  và phân nhóm điều dưỡng đa khoa và gây mê.  KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ  Nghiên  cứu  khảo  sát  kiến  thức,  thực  hành  của điều dưỡng chăm sóc người bệnh 6 giờ đầu  sau phẫu thuật lấy mẫu toàn bộ các điều dưỡng  đã hoặc  đang  làm việc  tại phòng hồi  sức khoa  gây mê hồi sức các bệnh viện hạng 1 nên kết quả  của nghiên cứu đã khái quát và tổng hợp hết các  ý kiến của những người trực tiếp làm việc trong  ngành  nghề  này.  Với  lưu  lượng  người  bệnh  ngày càng tăng và bệnh lý phẫu thuậtphức tạp,  đa dạng trách nhiệm của điều dưỡng giai đoạn  trước,  trong và  đặc biệt  là  sau mổ đòi hỏi một  sựchăm sóc đặc biệt.  Tỉ lệ kiến thức đúng của điều dưỡng đa khoa  và gây mê hồi sức làm việc trong phòng hồi tỉnh  đạt  trên  60%.  Kết  quả  cho  thấy,  nhóm  điều  dưỡng gây mê có điểm kiến thức hay tỉ lệ đúng  cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa.  Tỉ lệ thực hành đúng ở 2 nhóm điều dưỡng  đa khoa và gây mê. Kết quả cho thấy, nhóm điều  dưỡng gây mê có điểm thực hành hay tỉ lệ đúng  cao hơn nhóm điều dưỡng đa khoa ở hầu hết các  thao tác.   Có bốn mối  liên quan giữa đặc  tính dịch  tễ  học  của  điều dưỡng với  điểm kiến  thức,  đó  là  mối  liên quan về giới  tính, việc cập nhật  thông  tin chuyên môn, bệnh mổ được phân công chăm  sóc và về phân nhóm điều dưỡng.  Có ba mối liên quan giữa đặc tính dịch tễ học  của điều dưỡng với điểm  thực hành, đó  là mối  liên quan về nhóm  tuổi,  thâm niên công  tác và  về phân nhóm điều dưỡng.  Từ kết quả của nghiên cứu, các nhận xét và  so sánh với các đề tài liên quan, chúng tôi mong  muốn xây dựng một chương  trình  theo chuyên  đề  dựa  trên  các  nội  dung  còn  nhầm  lẫn  hoặc  chưa nắm rõ trong kiến thức cũng như lớp huấn  luyện về các kỹ năng còn sai và thiếu sót trong  thực hành.   Trong quá trình thực hiện đề tài theo chúng  tôi, tại phòng hồi tỉnh cần có sự phân công chăm  sóc người  bệnh  6  giờ  đầu  sau phẫu  thuật nên  phối hợp giữa đội ngũ điều dưỡng gây mê hồi  sức và đa khoa. Điều này cần nhân  rộng  trong  tất cả khoa gây mê hồi sức các bệnh viện đa khoa  cũng như chuyên khoa.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ nội vụ  (2005) Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch y  tế viên  chức điều dưỡng.  2. Đỗ Văn Dũng (2009) Hướng dẫn phân tích và sử dụng Stata,  Khoa Y tế công cộng.  3. Lê Hoàng Ninh (2011) Phương pháp chọn mẫu và xác định cỡ  mẫu trong nghiên cứu y học, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh  Tp.HCM, tr.30‐36.  4. Nguyễn Văn Chừng (2011). Chăm sóc bệnh nhân sau mổ. In:  Nguyễn Văn Chừng. Gây mê hồi  sức  cơ bản,  tr.18‐33. Nhà  xuất bản Y học, Chi nhánh Tp. HCM.  5. Nguyễn Văn Chừng (2013). Hội chứng suy hô hấp người lớn.  In: Nguyễn Văn Chừng. Gây mê hồi  sức giản yếu,  tr.36‐38.  Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh Tp.HCM.  6. Nguyễn Văn Chừng, Nguyễn Văn Chinh (2010). Những đặc  điểm  đường  thở.  In: Nguyễn Văn Chừng. Sử dụng mặt nạ  thanh quản để kiểm soát đường  thở  trong Gây mê hồi sức,  tr.14‐20. Nhà xuất bản Y Học, Chi nhánh Tp. HCM.  7. Manager OR (1998)  ʺPatterson P.PACU Staffing. Staffing the  recovery areas an art as well as a scienceʺ. 14 (4), pp.19‐22.  8. Scribane J, et al. (2011) ʺA pilot study to determine the profile  of recovery room nurses in Johannesburg hospitalsʺ. South Afr  J Anaesth Analg, 17 (5), pp.323‐327.  9. Van Aken H Prien T (1997) ʺThe perioperative phase as a part  of anesthesia. Tasks of  the  recovery  roomʺ. Anesth Article  in  German, 2 (46)  10. Wit MA,  Bos‐Schaap  AJ,  Hautvast  RW,  Heestermans  AA,  Umans VA  (2012)  ʺNursing  role  to  improve  care  to  infarct  patiets  and  patients  undergoing  heart  surgery:  10  years’  experienceʺ. Netherlands Heart J, 20, pp.5‐11.  Ngày nhận bài báo:       20/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:  15/11/2014  Ngày bài báo được đăng:     05/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcham_soc_cho_benh_nhan_6_gio_dau_sau_phau_thuat.pdf
Tài liệu liên quan