Nhiễm trùng huyết ở 41/43 sơ sinh (95,3%)
và 8/8 (100%) ngoài sơ sinh. Tác nhân gây bệnh
đa số là Staphylococus coagulase - Candida albicans,
Klebsiella pneumoniae. Ứ mật: gặp trong 23/46 BN
(50%) với 73,9% có NTH đi kèm.Thử Bil máu,
PAL và GGT chưa được thực hiện thường xuyên
để phát hiện biến chứng. Hạ natri máu và chậm
vận động ruột còn cao. Tử vong 56,9%, do NTH
chiếm 72,4%. 17/51 (33,3%) tử vong trong hồi sức
sau phẫu thuật. Như vậy, việc phòng ngừa
nhiễm trùng là rất quan trọng bên cạnh các biện
pháp điều trị và hỗ trợ khác. Cần chú ý bù dung
dịch Natri uống thay nước.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 440 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chăm sóc hội chứng ruột ngắn sau phẫu thuật cắt ruột non ở trẻ em tại bệnh viện nhi đồng 1& 2 từ 1/1/2005-31/12/2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề Nhi Khoa 1
CHĂM SÓC HỘI CHỨNG RUỘT NGẮN
SAU PHẪU THUẬT CẮT RUỘT NON Ở TRẺ EM
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1& 2 TỪ 1/1/2005-31/12/2007
Nguyễn Thị Thu Hậu*, Phạm Thị Ngọc Tuyết*, Trần Thị Thanh Tâm**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ các đặc điểm lâm sàng, các biện pháp chăm sóc và kết quả điều trị của bệnh nhi
HCRN sau phẫu thuật cắt ruột non.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả hàng loạt ca.
Kết quả: tại bệnh viện Nhi đồng 1 và 2 từ 1/1/2005-31/12/2007 có 51 bệnh nhân. 84,3 % là sơ sinh, đa số do
bất thường giải phẫu đường tiêu hoá. Tỉ lệ mất hồi tràng cao (88,4%), hậu môn tạm chủ yếu ở hỗng tràng. Nuôi
tĩnh mạch chưa đầy đủ, sử dụng catheter trung ương ít và phải rút bỏ sớm do nhiễm trùng. Thời gian cho ăn
đường miệng lại chậm do rối loạn vận động ruột. Các can thiệp nội và ngoại khoa hỗ trợ chưa thường xuyên và
chưa thống nhất. Biến chứng chủ yếu là nhiễm trùng huyết (95,3% sơ sinh và 100% ngoài sơ sinh) do
Staphylococus coagulase, Candida albicans, Klebsiella pneumoniae, ứ mật, hạ natri máu, rối loạn vận động ruột.
Tử vong 56,9%, do NTH chiếm 72,4%, có 33,3% tử vong trong hồi sức sau phẫu thuật. Thời gian nằm viện và
thời gian nuôi tĩnh mạch dài hơn ở nhóm mất van hồi manh tràng, đại tràng không nguyên vẹn, ngoài tuổi sơ
sinh, có bất thường giải phẫu đường tiêu hoá, mất hồi tràng, được đặt catheter trung ương, nuôi qua sonde hỗ
trợ. Tỉ lệ tử vong cao hơn ở nhóm mất van hồi manh tràng, đại tràng không nguyên vẹn, ăn đường miệng trở lại
muộn hơn, ngoài tuổi sơ sinh, mất hồi tràng, nằm hồi sức sau mổ lâu hơn, có hạ Na máu.
Kết luận: HCRN sau phẫu thuật cắt ruột non chủ yếu xảy ra ở giai đoạn sơ sinh.Các can thiệp nội ngoại
khoa chưa thống nhất và chưa thường xuyên. Biến chứng chủ yếu là nhiễm trùng huyết, ứ mật, hạ natri máu và
rối loạn vận động ruột. Tỉ lệ tử vong còn cao dù đã có nhiều tiến bộ. Cần có phác đồ chăm sóc thống nhất và tích
cực hơn trong điều trị HCRN trẻ em để cải thiện tiên lượng bệnh.
ABSTRACT
MANAGEMENNT OF SHORT BOWEL SYNDROME IN CHILDREN AFTER SMALL INTESTINE
RESECTION IN HOSPITAL NHI DONG 1& 2 FROM 01/01/2005- 31/12/2007
Nguyen Thi Thu Hau, Pham Thi Ngoc Tuyet, Tran Thi Thanh Tam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 62 – 68
Objectives: to determine the rate of clinical characteristics, supports and inteventional results of short bowel
syndrome after small intestine resection.
Methods: Case series study.
Results: this study was conducted on 51 cases of pediatric hospital 1 and 2 from 1/1/2005-31/12/ 2007.
Neonates were 84.3 %, most of them had abnormal GI anatomy. Ileal resection was approximately 88.4%, and
stoma was mainly located at jejunum. Parenteral nutrition supports seem to be inadequate, the use of central
venous catheters was unusual and proportion of early withdrawed was high due to infection. The introduction of
oral feeding was delayed because of motility disorders. Medical and surgical managements have not been applied
adequately and consitently. Significant complications are sepsis (95.3% in neonates and 100% in the others
children) caused by Staphylococus coagulase, Candida albicans, Klebsiella pneumoniae, cholestasis, hyponatremia
and motility disorders. The mortality rate was 56.9%,in which sepsis was 72.4%, and 33.3% post-operation
children was died during intensive care period. Children with ileo cecum valve resection, colon resection, out of
neonatal period, abnormal GI anatomy, ileum resection, using central venous catheters and enteral nutrition
required longer duration of hospitalization and parenteral support. Higher mortality was seen in patients with
ileocecum valve resection, colon resection, delayed oral feeding, out of neonatal period, ileum resection, long stay
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 **: Đại học Y dược TP HCM
Chuyên đề Nhi Khoa 2
in ICU and hyponatremia.
Conclusions: Children SBS mainly occurs in neonatal period. Medical and surgical managements have not
been applied adequately and consitently. Significant complications are sepsis, cholestasis, hyponatremia and
motility disorders. The mortality rate was high in spite of recent improvements.It’s necessary to get a consensus
and more active protocol in clinical care to improve the outcome.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ruột ngắn (HCRN) đặc trưng bởi
tình trạng kém hấp thu các chất dinh dưỡng xảy
ra sau khi cắt phần lớn ruột non do các sang
thương bẩm sinh hay mắc phải. Sự phát triển
của nuôi ăn tĩnh mạch và đường tiêu hoá trên
thế giới giúp cải thiện tiên lượng bệnh rất nhiều.
Các kỹ thuật nuôi ăn giúp bệnh nhi bị HCRN có
thể phát triển bình thường trong quãng thời gian
dài chờ đợi sự thích ứng của phần ruột non còn
lại và quyết định kết quả thành công của cuộc
phẫu thuật. Ngoài ra, bệnh nhi còn được hỗ trợ
bằng các can thiệp nội khoa và ngoại khoa để cải
thiện chức năng của đoạn ruột còn lại. Tuy
nhiên, việc chăm sóc, điều trị bệnh nhân HCRN
rất phức tạp, tốn kém, chưa thống nhất. Chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này để bước đầu khảo
sát tình hình chăm sóc điều trị HCRN sau phẫu
thuật ở trẻ em Việt nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhi sau phẫu thuật cắt ruột
non tại bệnh viện Nhi đồng 1 và Nhi đồng 2 trong
khoảng thời gian 1/1/2005-31/12/2007 có biểu hiện
HCRN (chọn từ sổ tường trình phẫu thuật).
Tiêu chuẩn nhận vào
Bệnh nhân mổ cắt ruột non có 1 trong 2 tiêu
chuẩn:
1. Dựa vào chiều dài hỗng hồi tràng còn lại
sau phẫu thuật:
* Sơ sinh: Chiều dài đoạn hỗng hồi tràng còn
lại < 25% chiều dài hỗng hồi tràng ước đoán theo
tuổi thai.
-Nếu phẫu thuật RN khi< 35 tuần tuổi thai:
chiều dài hỗng hồi tràng còn lại ≤ 50cm
- Nếu phẫu thuật RN lúc ≥ 35 tuần tuổi thai:
chiều dài hỗng hồi tràng còn lại ≤72 cm.
* Nếu ngoài giai đoạn sơ sinh:
-Từ 1 tuổi trở xuống: chiều dài hỗng hồi
tràng còn lại ≤ 75 cm
-Trên 1 tuổi: chiều dài hỗng hồi tràng còn lại
≤ 100 cm
2. Dựa vào chức năng ruột sau phẫu thuật:
Sau phẫu thuật cắt ruột non phải nuôi tĩnh
mạch hỗ trợ trên 42 ngày do rối loạn chức
năng ruột.
Tiêu chuẩn loại ra
- Hồ sơ không đầy đủ dữ liệu.
- Có các bệnh lý đi kèm đòi hỏi phải nuôi
tĩnh mạch dài ngày như bệnh tim bẩm sinh phức
tạp, tràn dịch màng phổi dưỡng trấp, u vùng
hầu họng không nuốt được, hội chứng giả tắc
ruột mạn
Thu thập và xử lý số liệu
Các bệnh nhân được theo dõi trong suốt thời
gian nằm viện hoặc trong vòng 3 tháng kể từ khi
nhập viện.
Số liệu từ hồ sơ sẽ được thu thập theo phiếu
thu thập. Các biến số được mã hoá và xử lý bằng
phần mềm thống kê SPSS 10.0 for Window. Mô
tả đặc điểm mẫu nghiên cứu bằng tỉ lệ đối với
các biến định tính. Tính trung bình và độ lệch
chuẩn với các biến định lượng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 51 trường hợp thoả tiêu chuẩn nhận
bệnh.
Các đặc điểm về lâm sàng
- Có 28 bệnh nhân của bệnh viện Nhi đồng 1
(54,9%) và 23 bệnh nhân của bệnh viện Nhi đồng
2 (45,1%).
- Nam chiếm 56,9% (29/51 trường hợp), nữ
43,1% (22/51).
Chuyên đề Nhi Khoa 3
- Tuổi trung vị: 3 ngày tuổi, nhỏ nhất:1 ngày,
lớn nhất: 13 tuổi. Đa số dưới 1 tuần tuổi 37/51 ca
(72,5%).
- Sơ sinh: 43/51 trường hợp (84,3%), với 30/43
bệnh nhân sinh đủ tháng (69,7%) và 13/43 non
tháng; tuổi thai từ 35 đến dưới 37 tuần là 5/43
(11,6%), dưới 35 tuần là 8/43 (18,6%), không có
trường hợp nào tuổi thai dưới 27 tuần.
- Nguyên nhân gây HCRN: teo ruột non
21/51 bệnh nhân (41,2%), viêm hoại tử ruột non
6/51 (11,8%), xoay ruột bất toàn 8/51 (15,7%), tắc
ruột do dính 6/51(11,8%), hở thành bụng 4/51
(7,8%), bệnh Hirschsprung 4/51 (7,8%), nguyên
nhân khác 2/51 (3,9%).
- Chỉ có 47/51 bệnh nhân được ghi nhận
chiều dài hỗng hồi tràng còn lại sau phẫu thuật
trong tường trình phẫu thuật, trung bình 45,19 ±
20,13 cm, ngắn nhất là 5cm và dài nhất là 80 cm.
- Có 7 BN mất hỗng tràng, 22 BN mất hồi
tràng và 16 BN mất cả hỗng và hồi tràng (chỉ
43/51 bệnh nhân được ghi nhận đoạn ruột nào bị
cắt bỏ trong tường trình phẫu thuật)
- Tỉ lệ hậu môn tạm: 19/51, chiếm 37,2%.
HMT hỗng tràng: 15/51 (29,4%), hồi tràng: 4/51
(7,8%).
- Có 30/51(58,8%) bệnh nhân còn van hồi
manh tràng, 32/51(62,7%) bệnh nhân còn bảo tồn
đại tràng.
Các đặc điểm về chăm sóc và điều trị
Thời gian nằm hồi sức sau phẫu thuật, thời
gian điều trị và số khoa điều trị
- Thời gian nằm hồi sức sau phẫu thuật
trung bình của nhóm bệnh nhân được xuất viện
là 12,57 ± 10,28 ngày và nhóm bệnh nhân tử
vong hay bệnh nặng xin về là 22,2 ± 25,39 ngày
- Thời gian điều trị trung bình của bệnh nhân
được xuất viện là 67,33 ± 69,63 ngày (10-304
ngày), của nhóm tử vong hoặc bệnh nặng xin về
là 35,66 ± 29,49 ngày.
- Không tính khoa cấp cứu, trung bình một
bệnh nhân HCRN phải điều trị tại 2,08 ± 0,74
khoa, ít nhất là 1 khoa và nhiều nhất là 4 khoa.
Chăm sóc dinh dưỡng
Nuôi tĩnh mạch
Bảng1: Số ngày nuôi tĩnh mạch
Hình
thức
Nhóm BN Số BN Trung bình Ngắn
nhất
Dài
nhất
Tất cả n=51 41,37 ± 46,3 1 281
Xuất viện n=21 55,86 ± 64,87 6 281
Có nuôi
TM
Tử vong n=29 31,28 ± 23,58 1 82
TM
hoàn
toàn
Xuất viện n=21 11,14 ±9,66 4 47
Tất cả n=23 20,13 ± 23,82 3 122 Đủ nhu
cầu Xuất viện n=10 30,90± 33,34 4 22
Tất cả n=40 25,70 ± 22,14 2 101 ≥ nhu
cầu cơ
bản
Xuất viện n=19 26 ± 26,73 2 101
<nhu
cầu cơ
bản
Xuất viện n=21 12,14 ± 25,77 1 180
- Số ngày nuôi tĩnh mạch: 41,37 ± 46,3 ngày,
nuôi đủ nhu cầu: 20,13 ± 23,82 ngày, trên nhu
cầu cơ bản: 25,70 ± 22,14 ngày.
- Các chất và năng lượng qua đường tĩnh
mạch: Số lượng dịch truyền tối đa trong hồi sức
và ngoài hồi sức, lượng tối đa các chất dinh
dưỡng cung cấp ở các nhóm bệnh nhân không
sự khác biệt nhiều. Tuy nhiên, năng lượng có thể
cung cấp tối đa theo đường tĩnh mạch cho nhóm
xuất viện là 94,43 ± 22,5 kcal/kg/ngày, cao hơn
nhóm tử vong hoặc xin về là 82,33 ± 32,37
kcal/kg/ngày.
- Chỉ có 26/51 bệnh nhân được đặt catheter
trung ương, nhóm xuất viện được đặt trung bình
1,92 ± 1,38 lần, cao hơn nhóm bệnh nặng xin về
hoặc tử vong là 1,14 ± 0,36 lần. Số bệnh nhân còn
lại chỉ nuôi tĩnh mạch qua catheter ngoại biên. Số
ngày dùng catheter trung ương ở nhóm xuất
viện là 28,64 ±30,43 ngày, cao hơn nhóm tử vong
và bệnh nặng xin về (18,57 ± 11,04 ngày)
Nuôi đường tiêu hoá
- Ăn đường tiêu hoá: Có 43 bệnh nhân có thể
ăn đường miệng trong thời gian nằm viện, ngày
có thể bắt đầu sớm nhất là 2 ngày và muộn nhất
là 51 ngày sau phẫu thuật, ở nhóm được xuất
viện sớm hơn so với nhóm tử vong hoặc bệnh
nặng xin về (8,9 ngày so với 19,9 ngày). Sự khác
Chuyên đề Nhi Khoa 4
biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,01< 0,05.
Những BN không ăn đường miệng được là do
tử vong trước đó
- Nuôi ăn hỗ trợ qua sonde: 29/43 bệnh nhân
được nuôi qua sonde, chiếm 65,1%, 15/43 không
nuôi hỗ trợ qua sonde, chiếm 34,9%
Biểu đồ 1: Các hình thức nuôi qua sonde
-Loại thức ăn sử dụng chủ yếu: Sữa mẹ: 8/43
bệnh nhân(18,6 %), sữa non tháng: 7/43 (16,3 %),
sữa công thức hay thức ăn thông thường: 13/43
(30,2 %), sữa thuỷ phân: 15/43 (34,9%)
Biểu đồ 2: Loại thức ăn sử dụng chủ yếu
Các biện pháp nội khoa hỗ trợ
- Thuốc giảm tiết: Anti H2: 26/51(51%), PI:
5 (9,8%). Thuốc ức chế NĐR: 3/51 (5,9%).
Cholestyramin: 6/51 (11,8%). Probiotic: 8/51
(15,7%). Dung dịch bù Natri: 13 (25,5%).
Ursodeoxycholic: 3 (5,9%). Vit B12 tiêm bắp:
5/51 (9,8%).
Các biện pháp ngoại khoa hỗ trợ
Tỉ lệ bệnh nhân có can thiệp ngoại khoa sau
phẫu thuật đầu tiên: 18/51 trường hợp, chiếm
35,3%. Can thiệp ngoại thường nhất là đóng
HMT (11/18 trường hợp).
Kết quả điều trị
Tình trạng dinh dưỡng khi xuất viện
Trong 49 bệnh nhân có ghi nhận cân nặng
khi xuất viện, chỉ có 4 ca lên cân đủ (8,2%), 18 ca
bị sụt cân (36,7%) và 27 ca không lên cân hoặc
lên không đủ (55,1%).
Các biến chứng thường gặp
Nhiễm trùng huyết ở 41/43 sơ sinh (95,3%)
và 8/8 (100%) ngoài sơ sinh. Tác nhân gây bệnh
đa số là Staphylococus coagulase, Candida albicans,
Klebsiella pneumoniae.
Ứ mật
Gặp trong 23/46 BN (50%) với 73,9% có
NTH đi kèm. Thử Bil máu, PAL và GGT chưa
được thực hiện thường xuyên để phát hiện
biến chứng.
Hạ natri máu nhẹ gặp trong 26 bệnh nhân,
hạ natri máu nặng gặp trong 13 bệnh nhân.
20 bệnh nhân được ghi nhận có chậm vận
động ruột.
Tử vong
56,9%, do NTH chiếm 72,4%. 17/51(33,3%) tử
vong trong hồi sức sau phẫu thuật.
Bảng 2: Kết quả điều trị HCRN tại 2 BV nhi đồng
Năm Bệnh
viện
Kết quả
2005 2006 2007
Tổng số
Xuất viện 2 (28,6%) 5 (38,5%) 2 (28,6%) 9 (33,3%) Nhi
đồng 1
N= 27
Tử / nặng
xin về
5 (71,4%) 8 (61,5%) 5 (71,4%) 18
(66,7%)
Xuất viện 0 6 (66,7%) 6 (85,7%) 12
(53,2%)
Nhi
đồng 2
N=23 Tử / nặng
xin về
7 (100%) 3 (33,3%) 1 (14,3%) 11
(47,8%)
BÀN LUẬN
Sơ sinh chiếm đa số, tương tự với kết quả
của các tác giả khác trên thế giới. Như vậy,
nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) và tử
vong cao do khả năng đề kháng nhiễm trùng
của lứa tuổi này chưa hoàn thiện. Tuổi thai
trung bình của nhóm bệnh nhân sơ sinh của
chúng tôi cao hơn.
Bảng 3: Nguyên nhân gây HCRN ở trẻ em
r TRN VHTR
N
XRB
T
Gastrochi
sis
Hirsprsu
ng
TRD
D
khá
c
Nghiên
cứu này
41,2
%
11,8% 15,7
%
7,8% 7,8% 11,8
%
3,9
%
Bolus 3/51
Nhỏ giọt /1h
10/51
Nhỏ giọt chậm,
liên tục 16/51
Không nuôi qua
sonde 15/51
Chuyên đề Nhi Khoa 5
r TRN VHTR
N
XRB
T
Gastrochi
sis
Hirsprsu
ng
TRD
D
khá
c
Quiros 24,4
%
20,5% 19,2
%
24,4% 3,8% 7,7
%
Spencer 17,5
%
45% 17,5
%
23,8% 12,5
%
Wales 21% 20% 7,5% 12,5% 19,8% 19,2
%
Galea 31,2
5%
21,9% 31,2
5%
15,6%
Goulet 39% 14% 24% 14%
Nguyên nhân tập trung ở các bệnh lý bẩm
sinh đường tiêu hóa (chiếm 76,4% với 39/51
trường hợp) và viêm ruột hoại tử (6/51 trường
hợp, chiếm 11,8%). Điều này cũng tương tự y
văn: HCRN trẻ em đa số xảy ra ở tuổi sơ sinh và
bắt nguồn từ bất thường bẩm sinh đường tiêu
hóa và VHTRN. Tuy nhiên trong nghiên cứu
này, tỉ lệ do teo ruột non cao hơn hẳn, trong khi
VHTRN và hở thành bụng thấp hơn nhiều so
với thế giới, có lẽ do tỉ lệ trẻ sinh non thấp hơn.
Chúng tôi cũng ghi nhận nguyên nhân do bệnh
Hirschsprung, tắc ruột do dính trong khi ít được
các tác giả khác đề cập tới.
Đa số các bệnh nhân nằm viện lâu và qua
nhiều khoa, do đó việc thống nhất phác đồ điều
trị rất cần thiết. Thời gian nằm hồi sức và điều trị
của bệnh nhân HCRN dài hơn nhiều so với các
phẫu thuật tiêu hoá thông thường khác, tuy
nhiên, còn rất ngắn so với các nước khác. Tất cả
các bệnh nhân đều được nuôi tĩnh mạch nhưng
mức độ chưa đầy đủ, cả về lượng cung cấp và
thời gian. Tác giả Phạm Duy Hiền báo cáo thời
gian truyền dịch sau mổ của nhóm bệnh nhân
mổ teo ruột non là 11,5 ± 15,6 ngày. Tác giả
Quiros, sau 25 năm theo dõi bệnh nhân HCRN
nhận thấy chỉ 56% số bệnh nhân có thể cai nuôi
tĩnh mạch sau trung bình 1 năm (0,4 - 148 năm).
Thời gian nuôi tĩnh mạch trong nghiên cứu là
55,86 ± 64,87 ngày, dài hơn thời gian nuôi tĩnh
mạch của bệnh nhân không bị HCRN nhưng
ngắn hơn nhiều so với các nghiên cứu HCRN
trên thế giới. Như vậy, ruột bệnh nhân chưa đạt
được sự thích ứng đầy đủ với nuôi ăn đường
miệng đơn thuần và khó có thể tăng trưởng tốt,
bệnh nhân phải tái nhập viện nhiều lần do suy
kiệt, suy dinh dưỡng nặng cũng như mất nước
và điện giải trầm trọng. Việc sử dụng catheter
trung ương còn hạn chế trong khi tất cả đều có
chỉ định. Thời gian sử dụng cho 1 lần đặt
catheter còn quá ngắn, chứng tỏ việc chăm sóc
catheter chưa đúng cách và chưa đảm bảo vô
trùng. Để có thể sử dụng hiệu quả đường truyền
này, cần huấn luyện kỹ thuật chăm sóc cho điều
dưỡng cũng như tạo môi trường ít bị lây nhiễm
cho bệnh nhân.
Nuôi ăn đường tiêu hoá phù hợp sinh lý,
đơn giản, ít biến chứng và có tác dụng kích thích
sự hồi phục của ruột sau mổ. Tuy nhiên, thời
điểm bệnh nhân có thể ăn lại bằng đường tiêu
hoá chậm so với các phẫu thuật đường tiêu hoá
khác, do ảnh hưởng của rối loạn vận động ruột
trong HCRN và nguyên nhân gốc gây phẫu
thuật. Tỉ lệ nuôi qua sonde và hình thức nuôi
qua sonde vẫn chưa tối ưu để tránh tăng tải
trọng thẩm thấu tại ruột gây tiêu chảy. Các biện
pháp điều trị nội và ngoại khoa đều chưa tích
cực. Việc sử dụng các thuốc hỗ trợ còn ít, chưa
tiến hành các thủ thuật giúp kéo dài chiều dài
đoạn ruột. Tình trạng dinh dưỡng khi xuất viện
chưa tốt do việc chăm sóc và điều trị chưa đáp
ứng đủ nhu cầu bệnh nhân.
Nhiễm trùng huyết và NHT liên quan đến
catheter trung ương rất cao so với các nghiên
cứu nước ngoài (chỉ khoảng 1 đợt/ 2 tháng). Tác
nhân gây bệnh tương tự các ghi nhận trong
HCRN, gần giống các nghiên cứu có đối tượng
là sơ sinh và có sử dụng thiết bị lòng mạch
nhiều, khác với những nghiên cứu trên dân số
chung với chủ yếu là vi khuẩn gram âm. Tỉ lệ
giảm Natri máu mức độ nhẹ và nặng đều cao,
đặc biệt ở nhóm có HMT và mất hồi tràng, do đó
cần chú ý bù dung dịch natri thích hợp cho bệnh
nhân. Kết quả này cũng phù hợp với việc sử
dụng nước uống có Na và thuốc kháng tiết ở
bệnh nhân HCRN chưa đầy đủ.
Tổn thương gan do nuôi tĩnh mạch khá
cao. PAL và GGT là dấu hiệu rất nhạy, có thể
dùng để phát hiện sớm tổn thương gan do
nuôi tĩnh mạch chưa được các bác sĩ chú ý.
Chuyên đề Nhi Khoa 6
Thời gian xuất hiện ứ mật cũng giống với các
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, thường
vào khoảng 2-10 tuần sau khi bắt đầu nuôi
tĩnh mạch, nhưng có thể sớm hơn vào tuần lễ
1-2 với sơ sinh. Tỉ lệ bị biến chứng tắc ruột sau
mổ của HCRN cao hơn các phẫu thuật bụng
khác, ngoài ra chậm vận động ruột cũng là
biến chứng thường gặp. Biến chứng này cản
trở việc cho ăn sớm bằng đường miệng, dễ gây
ra quá phát vi khuẩn ruột, làm tăng nguy cơ
tổn thương gan do nuôi tĩnh mạch cũng như
giảm khả năng phục hồi của đường ruột.
Tỉ lệ tử vong trong lô nghiên cứu này cao
hơn nhiều so với thế giới. Điều này chứng tỏ
việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân bị HCRN
sau phẫu thuật của chúng ta còn chưa tích cực, tỉ
lệ NKBV của chúng ta rất cao, thời gian nuôi
tĩnh mạch, năng lượng, các chất dinh dưỡng
cung cấp cho bệnh nhân đều chưa đủ.
Bảng 4: So sánh tỉ lệ tử vong của HCRN sau phẫu
thuật
Tác giả Năm Số bn Tử
vong
Nơi tiến hành
Galea 1978-
1988
73 22% Anh &Scotland
Wales 1997-
1998
40 37,5% Toronto,Canada
Anagnostopoulos 1990 59 20% Hy lạp
Quiros-Tejeira 1975-
2000
78 27% Texas, Mỹ
Andorsky 2001 30 30% Mỹ
Bueno 1999 203 47% Mỹ
Goulet 1991 64 18% Pháp
Nguyễn Thuyên 1958-
1973
21 80,9% Hà nội, Việt nam
NC của chúng tôi 2005-
2007
51 56,9% TP HCM,Việt
nam
Tỉ lệ tử vong của BN khi còn nằm trong hồi
sức sau phẫu thuật liên quan trực tiếp đến độ
nặng của bệnh nền và các bệnh lý kết hợp khác.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ này là 33,3%, tức là
khoảng 1/3 số bệnh nhân không qua khỏi giai
đoạn hồi sức sau phẫu thuật. Trong đó, tỉ lệ trẻ
sơ sinh chiếm 86,5%. Điều này cũng phù hợp với
tỉ lệ trẻ sơ sinh trong mẫu nghiên cứu lên tới
84,3% Nhiễm trùng huyết và suy gan do nuôi
tĩnh mạch là 2 nguyên nhân chính gây tử vong
trong đa số các nghiên cứu.
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ tử vong do
nhiễm trùng huyết cao hơn hẳn, chiếm trên 2/3
tổng số bệnh nhân tử vong và bệnh nặng xin về,
ngoài ra do suy kiệt do bệnh nhân được nuôi
tĩnh mạch chưa đủ và xuất viện sớm. Chúng tôi
không ghi nhận được nguyên nhân suy gan do
nuôi tĩnh mạch. Do tỉ lệ NKBV của chúng ta cao
hơn, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng tái đi tái lại,
tử vong trước khi ruột kịp thích ứng để có thể
cai nuôi ăn tĩnh mạch. Do đó, suy gan do nuôi
tĩnh mạch có thể chưa kịp biểu hiện, và một
phần do chưa được các bác sĩ quan tâm để phát
hiện.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 51 trường hợp HCRN sau
phẫu thuật cắt ruột non điều trị tại bệnh viện
Nhi đồng 1 và bệnh viện Nhi đồng 2 từ 1/1/2005-
31/12/2007 chúng tôi nhận thấy:
Đặc điểm chung
Đa số trẻ ở tuổi sơ sinh (43/51, chiếm 84,3%).
Nguyên nhân: TRN 21/51 (41,2%), XRBT 8/51
(15,7%), VHTRN 6/51 (11,8%), TRDD 6/51 (11,8%).
Tỉ lệ mất hồi tràng cao 88,4%, tỉ lệ hậu môn tạm
thấp (37,2%), nhưng chủ yếu ở hỗng tràng.
Điều trị và chăm sóc
Thời gian nằm hồi sức sau phẫu thuật và
thời gian điều trị dài so với các phẫu thuật tiêu
hoá khác nhưng chưa đủ so với HCRN, bệnh
nhân phải xuất viện non. Nuôi tĩnh mạch chưa
đầy đủ, sử dụng catheter trung ương ít và phải
rút bỏ sớm do nhiễm trùng. Thời gian ăn đường
miệng lại chậm do chậm vận động ruột, ngày
bắt đầu 14,30 ± 13,68 ngày. Nuôi qua sonde chưa
tối ưu (tỉ lệ nhỏ giọt chậm qua sonde thấp). Tình
trạng dinh dưỡng khi xuất viện chưa tốt, đa số
sụt cân và lên cân không đủ. Cần có phác đồ
chuẩn và tích cực hơn trong chăm sóc bệnh nhi
HCRN sau phẫu thuật cắt ruột non.
Chuyên đề Nhi Khoa 7
Kết quả điều trị
Nhiễm trùng huyết ở 41/43 sơ sinh (95,3%)
và 8/8 (100%) ngoài sơ sinh. Tác nhân gây bệnh
đa số là Staphylococus coagulase - Candida albicans,
Klebsiella pneumoniae. Ứ mật: gặp trong 23/46 BN
(50%) với 73,9% có NTH đi kèm.Thử Bil máu,
PAL và GGT chưa được thực hiện thường xuyên
để phát hiện biến chứng. Hạ natri máu và chậm
vận động ruột còn cao. Tử vong 56,9%, do NTH
chiếm 72,4%. 17/51 (33,3%) tử vong trong hồi sức
sau phẫu thuật. Như vậy, việc phòng ngừa
nhiễm trùng là rất quan trọng bên cạnh các biện
pháp điều trị và hỗ trợ khác. Cần chú ý bù dung
dịch Natri uống thay nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Buchman A (1997). "The Clinical Management of SBS: Steps to
Avoid PN." Nutr.13(10):pp 907-1104.
2. Cohran VC, Kocoshis SA. (2007). "Short Bowel". Pediatric
Nutrition Support. S. S. Baker. NY, Jones and Bartlett. 1: pp
477-492.
3. Galea M, Holliday H, et al. (1992). "SBS: A Collective Review "
J Pediatr Surg 27(5):pp 592-596
4. Goulet O. (2004). "Short Bowel Syndrome". Textbook of
Pediatric Gastroenterology and nutrition. S. Guandalini. London,
Taylor and Francis. 1:pp 461-78.
5. Goulet O. and Samson C (2002). "Syndrome de grêle court".
Alimentation de l'Enfant en Situations Normale et Pathologique. O.
Goulet. Paris. Pediatrique 13:pp 283-294.
6. Hà Mạnh Tuấn (2006), “Yếu tố nguy cơ và tác nhân gây
nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện
nhi đồng 1”, Luận án tiến sĩ y học.
7. Nguyễn Thuyên, Tôn Thất Tùng (1973),”Di chứng cắt ruột
non rộng rãi”, Ngoại khoa, tập1, tr.142-146.
8. Phạm Duy Hiền, Nguyễn Duy Việt, Nguyễn Thanh Liêm
(2006), “Kết quả điều trị sớm sau mổ 52 trường hợp teo ruột
non bẩm sinh bằng nối ruột tận tận sau khi tạo hình nhỏ bớt
đầu trên”, Hội nghị ngoại nhi, tr.126-135.
9. Quiros-Tejeira R, Ament M, et al. (2004). "Long-term parenteral
nutritional support and intestinal adaptation in children with SBS:
a 25-year experience." J Pediatr 145: pp 157–163.
10. Spencer, A. U., A. Neaga, et al. (2005). "Pediatric Short Bowel
Syndrome: Redefining Predictors of Success." Ann Surg 242:
pp 403-412.
11. Touloukian R, Smith G. (1983). "Normal intestinal length in
preterm infants." J Pediatr Surg 18: pp 720–723.
12. Trương Quang Định (2002),”Tắc ruột sơ sinh: các yếu tố ảnh
hưởng đến biến chứng hậu phẫu và tỷ lệ tử vong,” Hội nghị
KHKT bệnh viện Nhi đồng 2, tr.101-106.
13. Vanderhoof, J., Young RJ. (2007). "Pathophysiololy of SBS in
children."UpToDate 15.3.
14. Wales PW, Silva N, et al. (2005). "Neonatal SBS: A cohort
study." J Pediatr Surg 40:pp 755-7626.
15. Campbell, K. and W. Balistreri (2006). "The liver and
parenteral nutrition." Hepatology -a textbook of liver diseases.
Torronto, Saunder Elsevier. 2:pp 1089-1098
Chuyên đề Nhi Khoa 8
Chuyên đề Nhi Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cham_soc_hoi_chung_ruot_ngan_sau_phau_thuat_cat_ruot_non_o_t.pdf