Chẩn đoán lỗ đái lệch thấp thể ẩn và chọn kỹ thuật mổ chữa
Kỹ thuật mổ kéo dài niệu đạo cũng hay
được sử dụng(7,14) và có chỉ định của nó. Chúng
tôi đã thực hiện kỹ thuật kéo dài niệu đạo ở 8
BN, kết quả tốt đạt ở 6 BN, cong dương vật ở 2
BN mà ở 2 BN này, dương vật vẫn còn cong nhẹ
ngay sau mổ và theo dõi hơn một năm thì
dương vật cong nhiều hơn nên phải mổ lại. Như
vậy chỉ định chọn kỹ thuật kéo dài niệu đạo ở 2
BN này chưa đúng. Cần phải đánh giá đúng sự
phát triển của niệu đạo kéo dài có phù hợp với
sự phát triển của dương vật hay không.
Về mổ chữa LĐLT thể ẩn bằng phẫu thuật
một hay hai thì: Trước đây, thể bệnh này được
mổ bằng phẫu thuật hai thì. Chúng tôi thấy mổ
thể bệnh này, khi phải tạo thêm niệu đạo thì
cũng giống như mổ LĐLT thể dương vật, do vậy
chúng tôi chỉ định mổ chữa LĐLT thể ẩn bằng
phẫu thuật một thì(11).
Chúng tôi hay dùng vạt niêm mạc bao qui
đầu tự do để tạo niệu đạo, tuy nhiên vạt niêm
mạc bao qui đầu hình đảo cũng là chất liệu tốt
để tạo hình niệu đạo(3,5).
Còn kỹ thuật Nesbit làm ngắn vật hang phiá
lưng dương vật để làm giảm hay mất độ cong
lõm phía bụng dương vật, chúng tôi không thực
hiện ở bệnh nhân nhỏ tuổi mà chỉ áp dụng cho
bệnh nhân ở tuổi dậy thì hay người lớn với
dương vật chỉ cong mức độ nhẹ, vì phương
pháp này gây ngắn dương vật.
Kết quả mổ của chúng tôi là khả quan,
chúng tôi tiếp tục mổ chữa LĐLT thể ẩn theo các
kỹ thuật đã trình bày ở trên.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán lỗ đái lệch thấp thể ẩn và chọn kỹ thuật mổ chữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 142
CHẨN ĐOÁN LỖ ĐÁI LỆCH THẤP THỂ ẨN
VÀ CHỌN KỸ THUẬT MỔ CHỮA
Trần Ngọc Bích*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Chọn kỹ thuật mổ, đánh giá kết quả mổ và cách làm chẩn đoán lỗ đái lệch thấp thể ẩn.
Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu những bệnh nhân bị lỗ đái lệch thấp thể ẩn được mổ
tại bệnh viện Việt - Đức từ 7-2000 đến 5-2011.
Kết quả: Số bệnh nhân 21, tuổi trung bình 7,5 tuổi (3-20 tuổi). Kỹ thuật mổ và kết quả: Cắt tổ chức xơ, giải
phóng niệu đạo bìu – dương vật để kéo dài niệu đạo: Mổ 8 bệnh nhân, kết quả tốt 6 bệnh nhân, còn cong dương
vật ở 2 bệnh nhân. Đã mổ lại 2 bệnh nhân này và tạo niệu đạo thiếu bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do. Cắt tổ
chức xơ, tạo niệu đạo thiếu bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do, có bảo tồn niệu đạo qui đầu. Mổ 6 bệnh nhân,
kết quả tốt cả 6 bệnh nhân. Cắt tổ chức xơ, tạo niệu đạo thiếu bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do, không bảo
tồn niệu đạo qui đầu. Mổ 7 bệnh nhân, kết quả tốt ở 6 bệnh nhân, rò niệu đạo 1 bệnh nhân.
Kết luận: Cần chẩn đoán đúng lỗ đái lệch thấp thể ẩn để chọn phương pháp mổ phù hợp. Mổ chữa lỗ đái
lệch thấp thể ẩn bằng phẫu thuật một thì, tạo niệu đạo bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do hay có cuống mạch
hoặc bằng cách kéo dài niệu đạo.
Từ khóa: Lỗ đái lệch thấp thể ẩn.
ABSTRACT
DIAGNOSE CONCEALED HYPOSPADIAS AND CHOOSE OPERATING TECHNIQUE
Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 142 - 146
Objectives: Concealed hypospadias can be mistaken for the simple penile curvature. So it makes the
surgeons difficult to diagnose and to choose the operating technique. How to make the diagnosis of the concealed
hypospadias and to choose the surgical technique and to evaluate the results.
Methods: Descriptive, retrospective study patients diagnosed with concealed hypospadias were operated on
at Viet-Duc Hospital from July 2000 to May 2011.
Results: Number of patients: 21, average age: 7.5 years old (3 to 20). Operating technique and results:
Resect the fibrous tissue, liberate the peno-scrotal urethra for its’prolongation: Operated on 8 patients, good
results in 6 patients, existence of penile curvature in 2 patients who were operated for urethroplasty using free
preputial mucosal graft. Resect the fibrous tissue, conserve the glans penile urethra and perform the urethroplasty
using free preputial mucosal graft: operated on 6 patients, good results in 6 patients. Resect the fibrous tissue,
resect the glans penile urethra and perform the urethroplasty using free preputial mucosal graft: operated on 7
patients, good results in 6 patients, urethral fistula in one patient
Conclusions: It is necessary to make the correct diagnosis of the concealed hypospadias in order to choose
the preferable operating technique. Treatment of concealed hypospadias by a single stage operation, the
urethroplasty can be performed by using free preputial mucosal graft or preputial island flap or by urethral
prolongation.
* Bệnh viện Việt Đức
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Ngọc Bích ĐT: 0912047958, Email: tnbich@hn.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 143
Key words: Concealed hypospadias.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lỗ đái lệch thấp thể ẩn (LĐLT thể ẩn) là một
thể bệnh của dị tật lỗ đái lệch thấp (LĐLT). Biểu
hiện của thể bệnh này là dương vật cong nhưng
lỗ đái vẫn ở đỉnh hay sát đỉnh qui đầu(9,11,13). Thể
bệnh này dễ bị nhầm với dị tật cong dương vật
đơn thuần nên làm phẫu thuật viên lúng túng
khi chọn phương pháp mổ: Chữa cong dương
vật bằng cách nào, có phải tạo thêm niệu đạo
không và tạo niệu đạo theo kỹ thuật nào, nên
mổ một hay hai thì.
Mục tiêu nghiên cứu
Cách làm chẩn đoán lỗ đái lệch thấp thể ẩn
thể ẩn .
Chọn kỹ thuật mổ và đánh giá kết quả.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Là những bệnh nhân bị LĐLT thể ẩn được
mổ tại bệnh viện Việt - Đức từ 7-2000 đến tháng
5-2011.
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả hồi cứu.
Nội dung nghiên cứu
Cách làm chẩn đoán LĐLT thể ẩn: Tiêu chuẩn
chẩn đoán là lỗ đái ở đỉnh hay gần đỉnh qui
đầu, dương vật cong, sau khi cắt bỏ tổ chức xơ
ở mặt dưới dương vật thì phải tạo thêm niệu
đạo hoặc kéo làm dài niệu đạo thì dương vật
mới thẳng được.
Trên lâm sàng hay ngay trước mổ: Dương
vật cong, thấy ống niệu đạo mỏng nằm ngay
dưới da hay niệu đạo có vật xốp bao bọc nhưng
có đoạn vật xốp mỏng hơn ở đúng vị trí cong
của dương vật. Luồn ống thông vào niệu đạo để
quan sát.
Trong mổ: Sau khi đã rạch da, bộc lộ niệu
đạo dương vật và quan sát niệu đạo có vật xốp
hay không, nếu không có vật xốp thì chắc chắn
là LĐLT thể ẩn và là thể điển hình. Nếu niệu đạo
vẫn có vật xốp bao bọc nhưng mỏng hơn bình
thường thì thấy dương vật cong đều, còn nếu
thấy có đoạn niệu đạo có vật xốp rất mỏng thì vị
trí cong của dương vật tương ứng với đoạn này.
Khi đã cắt bỏ tổ chức xơ ở hai bên niệu đạo
hay phẫu tích tách niệu đạo khỏi hai vật hang để
cắt xơ ở mặt dưới niệu đạo mà dương vật vẫn
còn cong do ống niệu đạo ngắn thì xác định đây
là LĐLT thể ẩn.
Chọn kỹ thuật mổ chữa: Tùy thuộc vào mức độ
cong của dương vật và cấu trúc của niệu đạo mà
chọn kỹ thuật tạo niệu đạo. Chúng tôi thực hiện
2 loại kỹ thuật sau:
Kéo dài niệu đạo: Thực hiện khi niệu đạo
dương vật có vật xốp mỏng bao bọc hay chỉ có
một đoạn ngắn niệu đạo thiếu vật xốp hay vật
xốp rất mỏng.
Kỹ thuật mổ như sau: Giải phóng niệu đạo
bìu và niệu đạo dương vật khỏi vật hang, cắt bỏ
hết tổ chức xơ ở mặt dưới dương vật, ở vị trí
dương vật cong. Khi niệu đạo dương vật và niệu
đạo bìu được giải phóng thì toàn bộ chiều dài
niệu đạo được căng giãn đều theo chiều dài của
dương vật. Cố định lại niệu đạo vào mặt dưới
của vật hang khi dương vật ở tư thế ưỡn – kéo
dài tối đa. Rạch da hình chữ Z ở mặt dưới
dương vật và bìu để chuyển vạt hoán vị che mặt
dưới dương vật. Có thể dùng một hay hai
đường rạch da chữ Z.
Nếu sau khi đã làm thêm một số đường rạch
ngang nhỏ ở màng trắng vật hang mặt cong lõm
mà dương vật còn cong nhẹ ở trẻ lớn trên 12 tuổi
thì có thể làm thêm kỹ thuật Nesbit(8).
Tạo hình thêm niệu đạo: Chỉ định khi ống
niệu đạo mỏng, không có vật xốp bao bọc. Niệu
đạo tạo hình bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự
do hay vạt niêm mạc bao qui đầu có cuống
mạch, vạt này còn được gọi là vạt hình đảo.
Vấn đề có giữ lại hay cắt bỏ niệu đạo qui đầu
thì phụ thuộc vào chất lượng của ống niệu đạo
qui đầu.
Nếu lỗ đái đúng ở đỉnh qui đầu, không hẹp,
qui đầu tròn thì nên giữ lại niệu đạo qui đầu và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 144
ống niệu đạo mới tạo sẽ nối với niệu đạo qui
đầu ở gần rãnh qui đầu và với đầu niệu đạo
dưới thường ở bìu hay gốc dương vật.
Nếu lỗ đái ở gần đỉnh qui đầu, hẹp, mặt
dưới qui đầu thiểu sản, dẹt, niệu đạo qui đầu
mỏng ngay dưới niêm mạc qui đầu và phần
niệu đạo ngay rãnh qui đầu cũng rất mỏng thì
nên cắt bỏ niệu đạo qui đầu và ống niệu đạo mới
tạo sẽ được đưa ra đỉnh qui đầu và nối với đầu
niệu đạo dưới thường ở gốc dương vật.
Trong khi mổ, phải gây cương dương vật
chủ động để đánh giá mức đô cong dương vật
trước và sau mổ.(6)
Cách đánh giá kết quả: Theo hai mức độ:
Tốt: Khi dương vật thẳng, đái ra đỉnh qui
đầu, không rò, không hẹp niệu đạo.
Có biến chứng: khi còn cong dương vật, có
rò niệu đạo hay hẹp niệu đạo.
KẾT QUẢ
Trong số 991 bệnh nhân bị lỗ đái thấp các thể
bệnh được mổ chữa trong cùng thời gian từ
tháng 7 năm 2000 tới tháng 5 năm 2011, chúng
tôi mổ 21 bệnh nhân bị LĐLT thể ẩn.
Số bệnh nhân 21, tuổi trung bình 7,5 tuổi (3-
20 tuổi).
Kỹ thuật mổ đã thực hiện và kết quả:
Cắt tổ chức xơ, giải phóng niệu đạo bìu-
dương vật để kéo dài niệu đạo: mổ 8 BN, kết
quả tốt 6 BN, còn cong dương vật ở 2 BN. Đã mổ
lại 2 BN này và tạo niệu đạo thiếu bằng vạt niêm
mạc bao qui đầu tự do.
Cắt tổ chức xơ, tạo niệu đạo thiếu bằng vạt
niêm mạc bao qui đầu tự do, có bảo tồn niệu đạo
qui đầu. Mổ 6 BN, kết quả tốt cả 6 BN.
Cắt tổ chức xơ, tạo niệu đạo thiếu bằng vạt
niêm mạc bao qui đầu tự do, không bảo tồn niệu
đạo qui đầu. Mổ 7 BN, kết quả tốt ở 6 BN, rò
niệu đạo 1 BN.
BÀN LUẬN
LĐLT thể ẩn là thể bệnh ít gặp của dị tật
LĐLT. Theo thống kê của chúng tôi có 21 LĐLT
thể ẩn trong số 991 LĐLT được mổ (2,1%). Trong
rất nhiều phân loại LĐLT đã công bố trong y
văn, LĐLT thể ẩn không được xếp vào dị tật
LĐLT nhưng được gọi bằng một số thuật ngữ
khác như: lỗ đái lệch thấp mà không có lỗ đái
thấp (Hypospadias without hypospadias or
hypospadias sins hypospadias), lỗ đái lệch thấp
thể ẩn (concealed hypospadias), ngắn niệu đạo
bẩm sinh (congenital short urethra)(1,2,3,4). Thể
bệnh này rất hay nhầm với dị tật cong dương
vật đơn thuần, dị tật này được gọi là cong
dương vật không có lỗ đái thấp (Chordee
without hypospadias or Congentinal curvature
of the penis without hypospadias). Năm 1988,
chúng tôi đã đưa ra một định nghĩa và phân loại
LĐLT của chúng tôi, trong phân loại này, chúng
tôi xếp LĐLT thể ẩn là một thể bệnh riêng biệt vì
những đặc điểm lâm sàng riêng của nó(9,10).
Chúng tôi xếp dị tật cong dương vật mà niệu
đạo ngắn, khi muốn chữa làm thẳng dương vật
mà phải tạo thêm niệu đạo (kéo dài niệu đạo
hay tạo thêm niệu đạo) vào dị tật LĐLT theo
đúng định nghĩa mà chúng tôi đề nghị. Còn
cong dương vật mà sau khi làm thẳng dương
vật, vẫn giữ nguyên niệu đạo thì gọi là cong
dương vật đơn thuần.
Chúng tôi đã đề xuất định nghĩa như sau
“Lỗ đái lệch thấp là một dị tật bẩm sinh mà lỗ
đái đổ ra bất thường ở mặt dưới của qui đầu,
dương vật, bìu hoặc đáy chậu, trước hoặc sau
khi chữa hết cong dương vật, thường kèm theo
biến dạng của dương vật như cong, xoay trục,
lún gục vào bìu”(9).
Chúng tôi đã phân LĐLT thành 5 thể bệnh
sau(9,10):
LĐLT thể rãnh qui đầu (lỗ đái ở rãnh qui
đầu, mặt dưới qui đầu)
LĐLT thể dương vật (lỗ đái ở mặt dưới
dương vật, gốc dương vật)
LĐLT thể bìu
LĐLT thể đáy chậu
LĐLT thể ẩn
Sự phân chia thành 5 thể bệnh này vì 2 lý do:
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 145
Biểu hiện lâm sàng của các thể bệnh có
những nét khác nhau rõ rệt.
Theo cách điều trị: ở mỗi thể bệnh, chúng tôi
thường dùng một loại kỹ thuật mổ.
Ở LĐLT thể ẩn, vì lỗ đái ở đỉnh hay gần đỉnh
qui đầu nên các phẫu thuật viên thường không
muốn tạo thêm niệu đạo, muốn giữ nguyên niệu
đạo cũ vì e ngại các biến chứng sau tạo niệu đạo
như rò hay hẹp niệu đạo. Do vậy có tác giả đã
thực hiện kỹ thuật Nesbit để làm ngắn vật hang
phía lưng dương vật và làm thẳng dương vật(3).
Với những trường hợp đã xác định cần tạo
thêm niệu đạo thì các phẫu thuật viên lại có sự
phân vân có nên giữ ống niệu đạo qui đầu hay
cắt bỏ đi vì nếu giữ niệu đạo qui đầu thì niệu
đạo mới tạo sẽ có 2 miệng nối, sẽ có nguy cơ
cao của hẹp miệng nối. Kinh nghiệm của
chúng tôi là phải làm thẳng dương vật rồi mới
tính có nên tạo thêm niệu đạo hay
không(9,11,12,13). Giữ được niệu đạo cũ là tốt nhất
nhưng dương vật phải thẳng. Nếu vẫn giữ
niệu đạo cũ mà gây cong dương vật thì phải
tạo thêm niệu đạo. Chúng tôi thấy nên bảo tồn
niệu đạo qui đầu khi qui đầu tròn, lỗ đái đúng
đỉnh qui đầu và không nên bảo tồn niệu đạo
qui đầu khi lỗ đái ở thấp hơn đỉnh qui đầu, lỗ
đái hẹp và ống niệu đạo mỏng nằm sát niêm
mạc qui đầu. Cắt bỏ niệu đạo qui đầu thì bớt
được một miệng nối ở dưới rãnh qui đầu
nhưng có nguy cơ hẹp lỗ đái ở đỉnh qui đầu
hay hẹp niệu đạo qui đầu. Còn bảo tồn niệu
đạo qui đầu thì tránh được hẹp lỗ đái, hẹp
niệu đạo qui đầu nhưng lại có nguy có hẹp
miệng nối niệu đạo. Mỗi cách đều có ưu và
nhược điểm của nó, do vậy cần cân nhắc về chỉ
định chọn kỹ thuật mổ.
Kỹ thuật mổ kéo dài niệu đạo cũng hay
được sử dụng(7,14) và có chỉ định của nó. Chúng
tôi đã thực hiện kỹ thuật kéo dài niệu đạo ở 8
BN, kết quả tốt đạt ở 6 BN, cong dương vật ở 2
BN mà ở 2 BN này, dương vật vẫn còn cong nhẹ
ngay sau mổ và theo dõi hơn một năm thì
dương vật cong nhiều hơn nên phải mổ lại. Như
vậy chỉ định chọn kỹ thuật kéo dài niệu đạo ở 2
BN này chưa đúng. Cần phải đánh giá đúng sự
phát triển của niệu đạo kéo dài có phù hợp với
sự phát triển của dương vật hay không.
Về mổ chữa LĐLT thể ẩn bằng phẫu thuật
một hay hai thì: Trước đây, thể bệnh này được
mổ bằng phẫu thuật hai thì. Chúng tôi thấy mổ
thể bệnh này, khi phải tạo thêm niệu đạo thì
cũng giống như mổ LĐLT thể dương vật, do vậy
chúng tôi chỉ định mổ chữa LĐLT thể ẩn bằng
phẫu thuật một thì(11).
Chúng tôi hay dùng vạt niêm mạc bao qui
đầu tự do để tạo niệu đạo, tuy nhiên vạt niêm
mạc bao qui đầu hình đảo cũng là chất liệu tốt
để tạo hình niệu đạo(3,5).
Còn kỹ thuật Nesbit làm ngắn vật hang phiá
lưng dương vật để làm giảm hay mất độ cong
lõm phía bụng dương vật, chúng tôi không thực
hiện ở bệnh nhân nhỏ tuổi mà chỉ áp dụng cho
bệnh nhân ở tuổi dậy thì hay người lớn với
dương vật chỉ cong mức độ nhẹ, vì phương
pháp này gây ngắn dương vật.
Kết quả mổ của chúng tôi là khả quan,
chúng tôi tiếp tục mổ chữa LĐLT thể ẩn theo các
kỹ thuật đã trình bày ở trên.
KẾT LUẬN
Cần chẩn đoán đúng lỗ đái lệch thấp thể ẩn
để chọn phương pháp mổ phù hợp. Mổ chữa
LĐLT thể ẩn bằng phẫu thuật một thì, tạo niệu
đạo bằng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do hay có
cuống mạch hoặc bằng cách kéo dài niệu đạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cendron J, Melin Y (1981). Congentinal curvature of the penis
without hypospadias. Urol. Clin. North Am, 8: 389 - 395
2. Correa RJ (1971). Congenital curvature of the penis: J. Urol.,
106: 881 – 885.
3. Daskalopoulos E.I, Baskin L, et al (1993). Congenital penile
curvature (chordee without hypospadias). Urology, 2: 708 -
712
4. Devine C.J, Horton C.E (1975). Chordee without hypospadias.
J. Urol, 110: 264- 268
5. Duckett J.W, (1981). The Island flap technique for
hypospadias repair. Urol. Clin. North Am, 8: 503 - 507.
6. Gittes R.F, Mc Laughlin A.P, (1974). Injection technique to
induce penile erection. Urology., 4: 473 -476
7. Koff S.A, (1981). Mobilization of the urethra in the surgical
treatment of hypospadias. J. Urol, 125:394 - 387
8. Nesbit R.M (1965). Congenital curvature of phallus. Report of
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Ngoại Nhi 146
three cases with desscription of corrective operation. J. Urol,
93: 230 - 232
9. Trần Ngọc Bích (1988). Điều trị lỗ đái lệch thấp bằng phẫu
thuật một thì. Luận án Phó tiến sỹ Y học. Trường Đại học Y
Hà Nội.
10. Trần Ngọc Bích (1988). Phân loại thể bệnh và một số nét về
đặc điểm lâm sàng của dị tật lỗ đái lệch thấp. Công trình
NCKH Y Dược Bộ Y tế: 44, Nhà xuất bản Y học.
11. Trần Ngọc Bích (1990). Điều trị lỗ đái lệch thấp thể ẩn bằng
phẫu thuật một thì. Công trình nghiên cứu Khoa học Y-Dược
Bộ Y tế, tr 40. Nhà xuất bản Y học
12. Trần Ngọc Bích (2006). Cong vẹo dương vật bẩm sinh: Chỉ
định và chọn lựa – áp dụng kỹ thuật điều trị. Tạp chí thông
tin Y Dược (số đặc biệt chào mừng Đại hội thành lập Hôi
Phẫu thuật Nhi Việt Nam) Hà Nội 16-17/3/2006, tr 56-61.
13. Trần Ngọc Bích, Nguyễn Xuân Thụ, Nguyễn Bửu Triều và
Nguyễn Mễ (1987). Dị tật cong dương vật: Nguyên nhân và
cách chữa. Tạp chí Ngoại khoa 3: 1 - 5.
14. Waterhouse K, Glassberg K.P (1984). Mobilization of the
anterior urethra as an aid in the one-stage repair of
hypospadias. Urol.Clin. North Am, 9:521
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chan_doan_lo_dai_lech_thap_the_an_va_chon_ky_thuat_mo_chua.pdf