Các dấu hiệu khác trên CLVT: các quai ruột non
giãn, có hình mức dịch-khí, điểm chuyển tiếp ở lỗ bịt
[14]. Nếu chẩn đoán muộn có thể thấy các biến chứng
thiếu máu, hoại tử hoặc thủng quai ruột. Có thể thấy
dịch tự do ổ bụng, giữa các quai ruột, khí ổ bụng
(trường hợp có biến chứng).
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đều chẩn đoán
được thóat vị bịt trước mổ nhờ những dấu hiệu đặc
hiệu trên phim chụp cắt lớp vi tính bụng. Hai bệnh nhân
đều có hình ảnh tắc ruột, thóat vị quai ruột qua lỗ bịt
phải, trong đó trường hợp thứ nhất có biến chứng hoại
tử ruột thể hiện bằng hình ảnh quai ruột ngấm thuốc
kém và có dịch - khí tự do ổ bụng.
Thóat vị bịt khi đã chẩn đoán được phải điều trị
phẫu thuật với tiên lượng xấu: tỉ lệ cắt đoạn ruột từ 25-
75%, tỉ lệ tử vong sau mổ từ 15-50%. Chẩn đoán khó,
tình trạng bệnh toàn thân phối hợp, kết hợp với tỉ lệ hoại
tử ruột non cao góp phần làm tăng tỷ lệ biến chứng và
tử vong sau mổ [4]. Mở bụng đường trắng giữa dưới
rốn cho phép thăm dò ổ bụng, giải phóng bao thóat vịt,
cắt đoạn ruột hoại tử, rửa sạch bụng [2]. Nakayama
khuyên nên thăm dò cả lỗ bịt bên đối diện vì nghiên cứu
cảu ông có 3/7 bệnh nhân có thóat vị bịt cả 2 bên [5].
Có nhiều phương pháp phục hồi lại ống bịt như: khâu
trực tiếp, tạo hình mạc nối lớn, khâu tử cung hoặc bàng
quang, và sử dụng mesh. Nếu không phục hồi lỗ bịt, tỉ
lệ tái phát được thông báo khoảng 10%[8].
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đều được mổ cấp
cứu, giải phóng bao thóat vị, cắt đoạn ruột hoại tử, khâu
trực tiếp lỗ bịt bằng chỉ prolene 2/0 trong đó bệnh nhân
thứ hai được khâu lỗ bịt cả hai bên. Chúng tôi không
sử dụng lưới vì cả 2 bệnh nhân đều nghẹt ruột gây hoại
tử ruột. Bệnh nhân thứ nhất kèm rạch rộng để hở khối
áp xe đùi phải, diễn biến sau mổ xấu dần, gia đình xin
về trong tình trạng sốc nhiễm trùng nặng liên quan đến
việc bệnh nhân đến muộn trong tình trạng viêm phúc
mạc, nhiễm trùng nặng, thể trạng kém suy kiệt.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán thoát vị bịt trước mố, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201676
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
CHẨN ĐOÁN THOÁT VỊ BỊT TRƯỚC MỐ
Preoperative diagnosis of obturator hernia
Bùi Quang Huynh*, Phạm Hoàng Hà*, Nguyễn Đắc Thao*
SUMMARY
The obturator hernia is a very rare type of hernia which usually presents in thin, elderly women with poor clinical
signs. The preoperative diagnosis is typically difficult, with non-specific signs and symptoms which result in a delay
in the diagnosis. Delayed diagnosis is a cause of increased mortality due to ruptured gangrenous bowel. We report
two cases of incarcerated obturator hernia presented with a history of intestinal obstruction and the hernia was
diagnosed preoperatively by computed tomography.
Keywords: Obturator hernia; diagnosis, computed tomomgraphy scan.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thóat vị bịt là bệnh lí hiếm gặp, chiếm khoảng
0,05% đến 1,4% tất cả các loại thóat vị nói chung và
chiếm 0,4% các nguyên nhân gây tắc ruột [5]. Thóat vị
bịt gặp nhiều hơn ở bên phải [60%] do bên trái có đại
tràng sigma chắn lỗ bịt, tuy nhiên thóat vị bịt 2 bên xảy
ra ở khoảng 6% các trường hợp [5]. Nội dung bao thóat
vị có thể là ruột non, đại tràng, mạc nối lớn, vòi trứng,
ruột thừa nhưng hay gặp nhất là hồi tràng [1],[6]. Nguyên
nhân thóat vị bịt được cho là sự lỏng lẻo của sàn chậu đi
kèm với tuổi cao, giảm lượng mỡ của cơ thể (làm rộng
lỗ bịt) và tăng áp lực ổ bụng (tình trạng táo bón kéo dài,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, cổ trướng...) [9]. Do vậy
thóat vị bịt hay gặp ở phụ nữ lớn tuổi, gầy, đẻ nhiều lần
và thường phối hợp với các bệnh lí khác. Chẩn đoán
thóat vị bịt trước mổ rất khó khăn do các triệu chứng
không đặc hiệu, thường chỉ được phát hiện trong khi mở
bụng do tắc ruột cơ học hoặc do viêm phúc mạc [2].
Đây là nguyên nhân chính dẫn đến chậm trễ trong điều
trị phẫu thuật, làm tăng tỷ lệ tử vong và biến chứng sau
mổ nhất là ở người già có kèm theo bệnh tim mạch và
hô hấp. Chẩn đoán khó trước mổ, tỉ lệ biến chứng và
tử vong trong và sau mổ cao làm cho thóat vị bịt vẫn là
thách thức cho hầu hết các phẫu thuật viên [4].
Với sự phát triển của các phương pháp chẩn đoán
hình ảnh, thóat vị bịt hiện nay có thể chẩn đoán được
trước mổ nhờ những hình ảnh đặc hiệu trên phim chụp
cắt lớp vi tính với độ nhạy lên tới 90% [7]. Liệu điều này
có góp phần cải tiên lượng của bệnh hay không vẫn là
vấn đề đang được bàn cãi [2]. Nhân hai trường hợp
thóat vị bịt chẩn đoán được trước mổ trong cấp cứu,
chúng tôi muốn tìm hiểu kĩ hơn về đặc điểm lâm sàng,
chẩn đoán hình ảnh và ý nghĩa của việc chẩn đoán sớm
trước mổ đối với tiên lượng bệnh nhân.
II. GIỚI THIỆU BỆNH ÁN
Bệnh án số 1:
Bệnh nhân Nguyễn Thị C, nữ, 83 tuổi, nghề nghiệp
làm ruộng, ở Tam Đồng, Mê Linh, Vĩnh Phúc, vào viện
ngày 09/02/2015. Bệnh nhân có tiền sử mổ tắc ruột
cách 8 năm, không có giấy tờ mổ cũ, xuất hiện đau
bụng quanh rốn cách 7 ngày, đau tăng dần rồi lan ra
khắp bụng, kèm theo bí trung, đại tiện. Bệnh nhân đến
khám tại Bệnh viện Đa khoa Phúc Yên, điều trị nội khoa
1 ngày không đỡ, chuyển Bệnh viện Việt Đức với chẩn
đoán tắc ruột sau mổ. Khám lúc vào: thể trạng gầy, suy
kiệt; mạch 100 lần/ phút, Huyết áp 100/70 mm Hg, hội
chứng nhiễm trùng rõ, sốt 38o5. Khám bụng thấy sẹo
mổ cũ đường trắng giữa dưới rốn, bụng trướng nhiều,
ấn đau khắp bụng, có cảm ứng phúc mạc. Khám vùng * Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Việt Đức
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 77
DIỄN ĐÀN
bẹn bìu thấy mặt trước trong đùi phải có khối ranh giới
không rõ, mật độ mềm ấn đau, kích thước 5 x 6 cm.
Xét nghiệm: Bạch cầu 2.8G/l, Natri: 132mmol/l, Kali:
3.2mmol/l, Albumin: 24g/l, chức năng thận trong giới
hạn bình thường.
Bệnh nhân được chụp Xquang bụng không chuẩn
bị thấy hình ảnh giãn nhiều quai ruột non, không có liềm
hơi dưới cơ hoành. Siêu âm ổ bụng: giãn các quai ruột
non, đường kính trung bình 46mm, dịch tự do ổ bụng.
Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng: các quai ruột non giãn, quai
lớn nhất 48mm, hình ảnh ruột non chui qua lỗ bịt bên
phải xuống vùng trước trong đùi, có dịch và khí tự do
ổ bụng.
Bệnh nhân được mổ cấp cứu ngày 10/02/2015
với chẩn đoán: Viêm phúc mạc do thóat vị bịt bên phải
nghẹt gây hoại tử ruột. Mở bụng đường trắng giữa dưới
rốn thấy ổ bụng có nhiều dịch đục và giả mạc, bở tự do
hồi tràng thóat vị qua lỗ bịt bên phải kiểu Richter đã hoại
tử, đoạn ruột phía trên giãn, phía dưới xẹp. Khối áp xe
mặt trước đùi phải chứa dịch phân thối. Phương pháp
phẫu thuật: cắt đoạn hồi tràng, nối bên-bên, lau rửa dẫn
lưu ổ bụng, khâu lỗ bịt, rạch mở rộng, để hở ổ áp xe đùi
phải. Sau mổ bệnh nhân chuyển về phòng hồi tỉnh, thở
máy, dùng phối hợp 2 thuốc vận mạch liều cao, gia đình
bệnh nhân xin về ngày 13/10/2015 trong tình trạng sốc
nhiễm trùng nặng. Kết quả cấy vinh sinh dịch ổ bụng: có
vi khuẩn E.coli, Proteus mirabilis.
(A) (B) (C)
Hình 1. (A) Phim chụp XQ bụng không chuẩn bị: giãn các quai ruột non. (B) Phim CLVT ổ bụng:
Hình ảnh ruột, với khí và dịch trong lòng chui vào trong lỗ bịt phải (mũi tên đen). (C) Hình ảnh khí tự do
ổ bụng trên phim CLVT (mũi tên vàng).
Bệnh án số 2:
BN Nguyễn Thị Đ, nữ, 92 tuổi, nghề nghiệp làm
ruộng, địa chỉ ở thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội,
vào viện ngày 01/11/2014. Bệnh nhân có tiền sử khỏe
mạnh, đẻ thường 7 lần, xuất hiện đau bung hạ vị cách 3
ngày: đau âm ỉ, có lúc trội lên thành cơn, kèm theo buồn
nôn và nôn, bí trung đại tiện. Khám lúc vào viện: thể
trạng gầy, mạch 76 lần/phút, huyết áp 110/60 mmHg,
không sốt, bụng trướng hơi, ấn đau tức vùng hạ vị,
không có phản ứng thành bụng, nghe có tăng nhu động
ruột. Thăm trực tràng thấy có phân vàng, không sờ thấy
u. Xét nghiệm: bạch cầu 13,8 G/l, Natri: 129mmol/l, Clo
93mmol/l, Albumin 36, chức năng thận trong giới hạn
bình thường.
Bệnh nhân được chụp Xquang bụng không chuẩn
bị thấy hình ảnh mức nước hơi giữa bụng, giãn 1 số
quai ruột non. Siêu âm ổ bụng thấy hình ảnh giãn kèm
tăng nhu động một số quai ruột non. Chụp cắt lớp vi
tính ổ bụng: hình ảnh giãn các quai ruột non, lỗ bịt phải
có hình ảnh cấu trúc hình ống đường kính 11mm liên
tiếp cấu trúc hình ống trong ổ bụng, thâm nhiễm xung
quanh.
Bệnh nhân được mổ cấp cứu ngày 01/11/2014 với
chẩn đoán: Tắc ruột non do thóat vị bịt phải. Mở bụng
đường trắng giữa dưới rốn thấy ổ bụng có ít dịch tiết,
ruột non giãn to từ góc Treitz đến đoạn giữa hỗng-hồi
tràng, nguyên nhân tắc là do một quai hỗng tràng chui
vào lỗ bịt phải kiểu Richter, quai ruột tím, hoại tử nhưng
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201678
DIỄN ĐÀN
III. BÀN LUẬN
Thóat vị bịt được Arnaudde Ronsil mô tả lần đầu
vào năm 1724 và được điều trị thành công lần đầu vào
năm 1851 bởi Henry Obre [1]. Thóat vị bịt là bệnh hiếm
gặp, mỗi phẫu thuật viên thường chỉ gặp 1 - 2 trường
hợp trong sự nghiệp của mình [6]. Thóat vị bịt thường
gặp ở những phụ nữ lớn tuổi, gầy, do nữ giới có khung
chậu rộng hơn, ống bịt lớn hơn và có tiền sử sinh đẻ
nhiều lần. Sự gầy mòn thường dẫn đến mất lớp mô
đệm trước phúc mạc phủ lên ống bịt làm tăng nguy
cơ thóat vị bịt. Chẩn đoán thóat vị bịt trước mổ gặp
nhiều khó khăn, thường chỉ chẩn đoán được khi mở
bụng thăm dò do các biến chứng của bệnh như tắc
ruột, viêm phúc mạc... hơn 90% bệnh nhân thóat vị bịt
được phát hiện qua biểu hiện của tắc ruột [5]. Tuy nhiên
theo y văn, thóat vị bịt cũng có các dấu hiệu đặc trưng
do thần kinh bịt bị chèn ép bởi khối thóat vị như dấu
hiệu Howship Romberg (gặp trong 15 - 20% các trường
hợp): đau dọc theo thần kinh bịt, lan theo mặt trong đùi
tới gối, đau tăng lên khi dạng và xoay ngoài đùi, dấu
hiệu này có thể nhầm lẫn với các biểu hiện đau xương
khớp ở người già; dấu hiệu Hannington-Kiff: đặc trưng
bởi mất phản xạ cơ khép; dấu hiệu một vùng thâm mờ
ở tam giác đùi, dưới dây chằng bẹn gặp khi đoạn ruột
thóat vị hoại tử [3],[5].
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đều là phụ nữ, già
[83 và 92 tuổi] thể trạng gầy, suy kiệt, trong đó bệnh
nhân thứ hai có tiền sử đẻ 7 lần. Bệnh cảnh lâm sàng
nổi bật là hội chứng viêm phúc mạc (bệnh án 1) và tắc
ruột (bệnh án 2). Các dấu hiệu đặc trưng của thóat vị
bịt như Howship Romberg, Hanninton Kiff đều không
được đánh giá do chưa có kinh nghiệm về bệnh lí này.
Bệnh nhân thứ nhất có dấu hiệu khối áp xe ở vùng tam
giác đùi, đặc trưng khi có hoại tử đoạn ruột bị nghẹt,
phù hợp với tình trạng viêm phúc mạc của bệnh nhân.
Nghiên cứu của Naris có 53% bệnh nhân thóat vị bịt có
khối thóat vị kẹt, trong số này 43% có biểu hiện nghẹt
ruột. Tỷ lệ nghẹt ruột trong nghiên cứu của Rodriguez -
Hermosa là 75%, tỉ lệ thủng ruột là 56,3% [2].
Chẩn đoán sớm thóat vị bịt có nhiều thách thức khi
các dấu hiệu và triệu chứng chưa đặc hiệu. Có nhiều
phương pháp chẩn đoán hình ảnh đã được áp dụng như
chụp Xquang, siêu âm, chụp ổ thóat vị (herniography),
cắt lớp vi tính [10].
Xquang thường quy cho các dấu hiệu không đặc
hiệu của tắc ruột non và hiếm khi chẩn đoán được thóat
vị bịt. Một số trường hợp có thể thấy bóng khí ở lỗ bịt.
Chụp cản quang barit ruột non có thể thấy được quai
ruột trong ống bịt, nhưng phương pháp này mất thời
chưa thủng. Lỗ bịt bên trái có phúc mạc thóat vị sâu vào trong ống bịt. Cách thức phẫu thuật: Cắt đoạn ruột hoại tử,
nối bên-bên, khâu phục hồi lỗ bịt cả 2 bên bằng chỉ prolene 2/0 mũi rời.
Diễn biến sau mổ thuận lợi, bệnh nhân trung tiện ngày thứ 2 sau mổ, và ra viện ngày thứ 12 sau mổ trong tình
trạng ổn định.
(A) (B)
Hình 2. (A) Phim XQ bụng không chuẩn bị: hình ảnh mức nước - hơi ruột non.
(B) Phim CT bụng: hình ảnh cấu trúc hình ống nghi ngờ ruột ở lỗ bịt phải (mũi tên vàng)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 79
DIỄN ĐÀN
gian đặc biệt là ở bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu.
Siêu âm có tác dụng và đáng tin cậy nhưng thường bị
hạn chế do không tiếp cận được vùng sâu và các thành
phần trong lỗ bịt [11].
CLVT đã góp phần chẩn đoán trước phẫu thuật
chính xác hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân cao tuổi,
không có tiền sử phẫu thuật bụng. Ngày nay, CLVT
đóng vai trò quan trọng trong đánh giá và quản lý các
bệnh nhân tắc ruột, bằng việc chẩn đoán chính xác,
xác định các căn nguyên, đưa ra các dấu hiệu để chẩn
đoán phân biệt giữa tắc ruột khác với các trường hợp
tắc ruột do nghẹt đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật sớm,
giảm tỷ lệ phải cắt bỏ ruột do hoại tử và giảm tỷ lệ tử
vong cũng như di chứng của bệnh sau phẫu thuật. Theo
Nakayama và cs. [10], CLVT chẩn đoán chính xác trong
100% các trường hợp. Theo Ho-Hsing Lin và cs. [12], tỷ
lệ chẩn đoán trước mổ đã cải thiện từ 43%-90%. CLVT
có thể chẩn đoán chính xác không chỉ thóat vị bịt mà
còn chẩn đoán chính xác các tình trạng tắc ruột khác.
Giải phẫu vùng thấp của tiểu khung nơi có lỗ bịt được
bộc lộ rất tốt trên cắt lớp vi tính có độ phân giải cao.
CLVT đa dãy với tái tạo đa bình diện cho các chi tiết giải
phẫu chính xác, phân biệt thóat vị với các khối khác [u,
tụ máu, áp xe] và phát hiện các biến chứng trước phẫu
thuật: thóat vị nghẹt.
Có 3 loại thóat vị bịt đã được mô tả: thóat vị giữa
cơ lược và các cơ bịt ngoài [hay gặp nhất], thóat vị giữa
bó giữa và bó trên của cơ bịt ngoài, thóat vị giữa màng
bịt trong và ngoài [ít gặp nhất]. Khối thóat vị có chứa
quai ruột non ở hầu hết các trường hợp, đặc biệt là hồi
tràng, đôi khi có thể chứa đại tràng, mạc nối, vòi trứng
hoặc ruột thừa [11]. Khối thóat vị bịt thường nhỏ, quai
ruột dễ bị nghẹt gây thiếu máu, phù nề, dần sẽ dẫn đến
hoại tử và thủng. CLVT thấy khối trong lỗ bịt có tỷ trọng
thấp, có thể chứa khí trong một số trường hợp và có
đặc điểm khác so với bên đối diện. Quai ruột thóat vị
chạy vào trong lỗ bịt, biến dạng đồng hồ cát do bị chèn
ép ở giữa bởi màng bịt. Trong lỗ bịt chỉ nhìn thấy cơ
lược do khối thóat vị tách các bó cơ bịt ra, biến dạng
các dải cơ bịt ngoài [13].
Các dấu hiệu khác trên CLVT: các quai ruột non
giãn, có hình mức dịch-khí, điểm chuyển tiếp ở lỗ bịt
[14]. Nếu chẩn đoán muộn có thể thấy các biến chứng
thiếu máu, hoại tử hoặc thủng quai ruột. Có thể thấy
dịch tự do ổ bụng, giữa các quai ruột, khí ổ bụng
(trường hợp có biến chứng).
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đều chẩn đoán
được thóat vị bịt trước mổ nhờ những dấu hiệu đặc
hiệu trên phim chụp cắt lớp vi tính bụng. Hai bệnh nhân
đều có hình ảnh tắc ruột, thóat vị quai ruột qua lỗ bịt
phải, trong đó trường hợp thứ nhất có biến chứng hoại
tử ruột thể hiện bằng hình ảnh quai ruột ngấm thuốc
kém và có dịch - khí tự do ổ bụng.
Thóat vị bịt khi đã chẩn đoán được phải điều trị
phẫu thuật với tiên lượng xấu: tỉ lệ cắt đoạn ruột từ 25-
75%, tỉ lệ tử vong sau mổ từ 15-50%. Chẩn đoán khó,
tình trạng bệnh toàn thân phối hợp, kết hợp với tỉ lệ hoại
tử ruột non cao góp phần làm tăng tỷ lệ biến chứng và
tử vong sau mổ [4]. Mở bụng đường trắng giữa dưới
rốn cho phép thăm dò ổ bụng, giải phóng bao thóat vịt,
cắt đoạn ruột hoại tử, rửa sạch bụng [2]. Nakayama
khuyên nên thăm dò cả lỗ bịt bên đối diện vì nghiên cứu
cảu ông có 3/7 bệnh nhân có thóat vị bịt cả 2 bên [5].
Có nhiều phương pháp phục hồi lại ống bịt như: khâu
trực tiếp, tạo hình mạc nối lớn, khâu tử cung hoặc bàng
quang, và sử dụng mesh. Nếu không phục hồi lỗ bịt, tỉ
lệ tái phát được thông báo khoảng 10%[8].
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi đều được mổ cấp
cứu, giải phóng bao thóat vị, cắt đoạn ruột hoại tử, khâu
trực tiếp lỗ bịt bằng chỉ prolene 2/0 trong đó bệnh nhân
thứ hai được khâu lỗ bịt cả hai bên. Chúng tôi không
sử dụng lưới vì cả 2 bệnh nhân đều nghẹt ruột gây hoại
tử ruột. Bệnh nhân thứ nhất kèm rạch rộng để hở khối
áp xe đùi phải, diễn biến sau mổ xấu dần, gia đình xin
về trong tình trạng sốc nhiễm trùng nặng liên quan đến
việc bệnh nhân đến muộn trong tình trạng viêm phúc
mạc, nhiễm trùng nặng, thể trạng kém suy kiệt.
IV. KẾT LUẬN
Mặc dù thóat vị bịt hiếm gặp nhưng nên nghĩ đến
nó ở bệnh nhân nữ, cao tuổi, gầy có biểu hiện tắc ruột
non mà không có tiền sử mổ bụng. Cần khai thác các
dấu hiệu lâm sàng đặc hiệu của thóat vị bịt. Chụp cắt
lớp vi tính bụng có khả năng giúp chẩn đoán xác định
thóat vị bịt và các biến chứng. Chẩn đoán sớm và điều
trị kịp thời là yếu tố quan trọng nhất giúp cải thiện tiên
lượng bệnh.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201680
DIỄN ĐÀN
1. Dhiraj Agarwal, Govind Sharma, Nilesh Nirmal
Kumar Agarwal & Jagdeep Rao [2013]. Intestinal
Obtruction Due to Obturator Hernia {A Rarest
Presentation}, Indian J Surg, 75[1]: p. 388- 390.
2. Chan K. V, Chan C. K. O, Yau K. W & Cheung M.
T [2014]. Surgical morbidity and motarlity in obturator
henia: a 10-year retrospective risk factor evaluation.
Hernia, 18: p. 387- 392.
3. Stamatiou D, Skandalakis Lj, Zoras O & Mirilas
P [2011]. Obturator hernia revisited: surgical anatomy,
embryology, diagnosis, and technique of repair. Am
Surg, 77[9]: p. 1147- 1157.
4. Ng D. C. K, Tung K. L. M, Tang C. N & Li M. K. W
[2014]. Fifteen-year experience in managing obturator
hernia: from open to laparoscopic approach. Hernia,
18: p. 381-386.
5. Alison Petrie, Shane Tubbs, Petru Matusz, et al
[2011]. Obturator Hernia: Anatomy, Embryology, Diagnosis
and Treatment. Clinical Anatomy, 24: p. 562- 569.
6. Tchanque C. N, Virmani S., Teklehaimanot N.
& Malamet M. D [2010]. Bilateral obturator henia with
intestinal obstruction: repair with cigar roll technique.
Hernia 14: p. 543- 545.
7. Midori Tokushima, Hidetoshi Aihara, Masaki
Tago & Motosuke Tomonaga [2014]. Obturator Hernia:
A Diagnostic challenge. American Journal of case
reports, 15: p. 280- 283.
8. Uludag M., Yetkin G., Kebudi A. & Isgor A.
[2006]. A rare cause of intestinal obtruction: incarcetated
femoral hernia, strangulated obturator hernia. Hernia,
10: p. 288-291.
9. Chang S. S, Shan Y. S, Lin Y. J, Tai Y. S et al
[2005]. A review of obturator hernia and a proposed
algorithm for its diagnosis and treatment. World J Surg
29[4]: p. 450-4; discussion 454.
10. Somuncu1 E, Gökçal F, Çarkman S, Peker K
[2014]. Diagnosis and laparoscopic repair of obturator
hernia with intestinal obstruction. JAREM 1: 31-4.
11. Ho-Hsing Lin, Chi-Wen Juan, Bau-Tein Chew,
Jui-Ho Chao [2010]. Obturator hernia. International
Journal of Gerontology 4[2]: 104–106.
12. Nakayama A, Kobayashi S, Shiraishi K et al
[2002]. Diagnosis and treatment of obturator hernia.
Keio J Med 51 [3]: 129-132
13. Greenberg G, Shapiro-Feinberg M, Zissin R
[2002]. Small bowel obstruction due to obturator hernia:
CT appearance. IMAJ 4:391-392.
14. Chun-Lin Huang, Yu- Bun N, I-Li Lin et al
[2005]. Obturator hernia- usefulness of CT scan in
diagnosis. Chin J Radiol; 30: 263-267.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Thóat vị bịt là loại thóat vị rất hiếm gặp, thường ở phụ nữ cao tuổi, gầy với biểu hiện lâm sàng nghèo nàn. Chẩn
đoán thóat vị bịt trước mổ khó khăn do các triệu chứng không đặc hiệu. Chẩn đoán muộn thường dẫn đến hoại tử
ruột do nghẹt, làm tăng tỷ lệ tử vong. Chúng tôi thông báo 2 trường hợp thóat vị bịt nghẹt, biểu hiện lâm sàng bởi hội
chứng tắc ruột và được chẩn đoán trước mổ nhờ chụp cắt lớp vi tính ổ bụng.
Từ khóa: Thóat vị bịt, chẩn đoán, chụp cắt lớp vi tính.
Người liên hệ: Bùi Quang Huynh; Email: huynhbq69@yahoo.com
Ngày nhận bài: 2.7.2016
Ngày chấp nhận đăng: 20.7.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
chan_doan_thoat_vi_bit_truoc_mo.pdf