Nên chụp cộng hưởng từ hố yên ở các bệnh
nhân có tăng nồng độ PRL máu kéo dài hay quá mức
(>100ng/ml) mà không có liên quan với tình trạng suy
giáp hay sử dụng các thuốc kháng tâm thần. Điều này
có thể giúp phát hiện các tổn thương của tuyến yên.
Điều trị các bệnh nhân vô kinh do tăng PRL máu
nhằm mục tiêu giảm nồng độ PRL và phục hồi kinh
nguyệt. Các chất đồng vận thụ thể dopamine như
biệt là các vận động viên ở các môn thể thao sử dụng
cơ bắp, việc mất cân bằng kéo dài giữa nguồn năng
lượng đưa vào và năng lượng được tiêu thụ, cũng như
stress do việc tập luyện có thể dẫn đến rối loạn chức
năng vùng dưới đồi. Các bệnh nhân này có tỉ trọng
xương thấp hơn so với nhóm chứng, có thể bị loãng
xương sau này và tăng nguy cơ gãy xương trong giai
đoạn hậu mãn kinh.
Mục tiêu của điều trị vô kinh chức năng do vùng
dưới đồi là phục hồi mật độ xương cũng như phục hồi
kinh nguyệt bình thường. Điều trị vô kinh chức năng
do vùng dưới đồi liên quan đến việc phục hồi dinh
dưỡng cũng như giảm cường độ stress và tập luyện.
Liệu pháp hormone thay thế không khôi phục được
tỉ trọng xương như trong nhóm chứng mà chỉ có thể
ngăn ngừa mất xương trong tương lai. Bởi vì mật độ
xương thấp là kết quả của cơ chế sinh lý bệnh phức
tạp, liên quan đến các yếu tố nội tiết và dinh dưỡng,
vì vậy việc bổ sung estrogen đơn thuần không đủ để
khôi phục mật độ xương. Việc điều trị nên tập trung
vào việc điều chỉnh các nguyên nhân gây rối loạn
chức năng vùng dưới đồi. Thuốc ngừa thai phối hợp
sẽ giúp phục hồi kinh nguyệt nhưng sẽ không điều
chỉnh mật độ xương. Leptin được cho là giúp phục
hồi tiết GnRH theo dạng xung và phóng noãn nhưng
tác động của chúng lên sức khỏe của xương vẫn chưa
rõ ràng.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 17 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán và điều trị vô kinh tuổi vị thành niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẠM CHÍ KÔNG TỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
26
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Phạm Chí Kông, email: phamchikong@gmail.com
Ngày nhận bài (received): 18/07/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 01/08/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 01/08/2015
Phạm Chí Kông
Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà nẵng
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VÔ KINH
TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
1. Đại cương
Tuổi vị thành niên là lứa tuổi từ 13-19 tuổi, có
nhiều thay đổi lớn về tinh thần và thân thể. Ở nữ giới,
việc có kinh lần đầu là thay đổi đáng kể nhất ở độ tuổi
này. Tại các quốc gia phát triển, tuổi hành kinh lần đầu
thường là 12-13 tuổi. Tuổi hành kinh lần đầu tiên có
khuynh hướng giảm từ những năm đầu của thế kỷ 19,
nhưng bắt đầu từ năm 1950, tuổi hành kinh lần đầu
tiên vẫn còn tương đối ổn định. Ngày nay, tuổi trung
bình hành kinh lần đầu tiên là 12,43 tuổi. Sự phát
triển tuyến vú đánh dấu giai đoạn bắt đầu có những
thay đổi về mặt thân thể và thường xảy ra trước hành
kinh lần đầu trung bình 2,7 năm ở trẻ da đen và 2,5
năm ở trẻ da trắng. Sự phát triển của vú vào thời điểm
có kinh lần đầu tiên phần lớn ở giai đoạn Tanner IV và
hiếm khi ở giai đoạn III (Deligeoroglou E và cs, 2010).
Vô kinh là lý do thường gặp khiến các trẻ vị thành
niên đến gặp các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu
hay bác sĩ phụ khoa. Vô kinh thường được phân thành
vô kinh nguyên phát và vô kinh thứ phát. Vô kinh
nguyên phát là tình trạng (1) không có kinh nguyệt
ở độ tuổi 16 dù các đặc điểm sinh dục thứ phát phát
triển bình thường hoặc (2) không có kinh và không có
sự phát triển các đặc tính sinh dục thứ phát ở độ tuổi
13. Đối với nhóm (2), thuật ngữ “Dậy thì muộn” là phù
hợp hơn. Vô kinh thứ phát được xác định khi bệnh
nhân đã từng có kinh nhưng vòng kinh không đều và
sau đó mất kinh từ 06 tháng trở lên. Nếu bệnh nhân
có các chu kỳ kinh trước đó đều, vô kinh thứ phát
được xác định khi bệnh nhân không có kinh trong
vòng 03 tháng liên tiếp (Gray SH, 2013). Các nghiên
cứu cho thấy 3-8% phụ nữ trẻ ở lứa tuổi 13-24 bị vô
kinh thứ phát (Miller RJ vaf cs, 2009).
2. Đánh giá bệnh nhân tuổi vị thành
niên bị vô kinh
Ủy Ban thực hành của Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ
cho rằng do tuổi có kinh lần đầu có khuynh hướng
sớm hơn nên cần phải có sự thăm khám cho các bệnh
nhân tuổi vị thành niên bị vô kinh nguyên phát mà
các đặc tính sinh dục thứ phát phát triển bình thường
vào lứa tuổi 15 (trên độ tuổi trung bình 13 hai độ lệch
chuẩn). Ngoài ra, cũng cần bắt đầu thăm khám cho
những trẻ có sự phát triển tuyến vú lúc 10 tuổi nhưng
05 năm sau vẫn chưa có kinh lần đầu và những trẻ
vô kinh và không có sự phát triển đặc tính sinh dục
Lưu đồ 1: Cách tiếp cận trong chẩn đoán vô kinh nguyên phát (Master-Hunter T và cs, 2006; Klein DA và cs, 2013)
Hỏi tiền sử và khám thực thể
Đặc tính sinh dục thứ phát
Không
Định lượng FSH và LH
FSH và LH
<5IU/L
FSH >20IU/L và
LH >40IU/L
Suy tuyến sinh dục
giảm gonadotropin,
vô kinh chức năng,
dậy thì trễ
Suy tuyến sinh dục
tăng gonadotropin
Phân tích nhiễm
sắc đồ
46,XX
Suy buồng
trứng sớm
45,XO
Hội chứng
Turner
Có
Siêu âm tử cung
Không có tử cung hay tử
cung bất thường
Có tử cung, tử cung
bình thường
Phân tích nhiễm sắc đồ
46,XY
Hội chứng
không nhạy cảm
androgen
46,XX
Bất sản ống
Muller
Tắc nghẽn đường
thoát kinh
Không Có
Đánh giá
theo vô kinh
thứ phát
Màng trinh
không thủng
hay vách
ngang âm
đạo
FSH và LH bình
thường
Tắc nghẽn đường
thoát kinh, cũng xem
xét các nguyên nhân
vô kinh có nồng độ
gonadotropin bình
thường như trong lưu
đồ đánh giá vô kinh
thứ phát
Loại trừ có thai, bệnh lý tuyến giáp
(xét nghiệm TSH), tăng PRL máu
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
27
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 26-33, 2015
phụ vào lứa tuổi 13 (trên độ tuổi trung bình hai độ
lệch chuẩn) (The Practice Committee of the American
Society for Reproductive Medicine, 2008).
Có rất nhiều lưu đồ hướng dẫn đánh giá và chẩn
đoán vô kinh. Lưu đồ 1 và 2 là một trong số các lưu
đồ hướng dẫn đánh giá bệnh nhân vô kinh nguyên
phát và thứ phát (Master-Hunter T và cs, 2006; Klein
DA và cs, 2013).
Hỏi bệnh sử một cách chi tiết đóng vai trò quan
trọng trong quá trình thăm khám, bao gồm tiền sử
bệnh lý nội khoa của gia đình, tuổi có kinh lần đầu của
mẹ bệnh nhân. Ngoài các thông tin về tiền sử bệnh
lý nội ngoại khoa, cần khai thác thêm về các bệnh lý
toàn thân có thể gây vô kinh. Cần ghi nhận các thời
điểm xảy ra các thời điểm quan trọng liên quan đến
dậy thì như tuổi bắt đầu phát triển tuyến vú, tuổi có
lông mu, tuổi có kinh lần đầu tiên. Các thông tin về
tiền sử kinh nguyệt như thời gian trung bình của chu
kỳ kinh, thời gian của chu kỳ dài nhất, số ngày hành
kinh và ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối. Cần hỏi bệnh
nhân đã có quan hệ tình dục hay chưa và thời gian
của lần quan hệ cuối. Cũng cần hỏi thêm về tiền sử
thai nghén như sẩy thai tự nhiên, phá thai nội khoa,
ngoại khoa. Hỏi về việc sử dụng các thuốc được kê
đơn và các thực phẩm bổ sung không kê đơn. Ngoài
ra, cần ghi nhận các thông tin về việc sử dụng hay lạm
dụng các chất hay thuốc trái phép. Bên cạnh đó, cần
chú ý đến các hoạt động và thói quen thể dục của
Lưu đồ 2: Cách tiếp cận trong chẩn đoán vô kinh thứ phát (Klein DA và cs, 2013)
Hỏi tiền sử và khám thực thể
Định lượng β-hCG, LH, FSH, TSH, PRL
Siêu âm vùng chậu và các xét nghiệm khác nếu cần
S
β-hCG(+)→có thai
TSH bất thường→đánh giá chức năng tuyến giáp và điều trị bệnh tuyến
giáp
PRL tăng→MRI tuyến yên để loại trừ adenoma
Tăng FSH và LH FSH, LH thấp hay bình thường
Lặp lại sau 01 tháng, có thể
xét nghiệm them estrogen
Suy buồng trứng sớm, xét
nghiệm them nhiễm sắc đồ,
đặc biệt ở bệnh nhân có vóc
dáng thấp để loại trừ HC
Turner và các biến thể
Bằng chứng của rối loạn ăn
uống, tập luyện quá mức hay
dinh dưỡng kém
Vô kinh chức năng nhưng
không loại trừ bệnh mãn
tính
Bằng chứng của tăng áp
lực nội sọ (nhức đầu,
buồn nôn, thay đổi thị
lực)
MRI đầu để tìm kiếm
khối u
Bằng chứng của cường
androgen
Tăng 17-hydroxyprogesterone
Định lượng testosterone,
DHEA-S, 17-
hydroxyprogesterone
Tăng sản tuyến thượng thận bẩm
sinh khởi phát muộn
Đáp ứng tiêu chuẩn của HCBTĐN
Tầm soát HC chuyển hóa và điều
trị theo nguyên nhân
Các triệu chứng khởi phát nhanh
hoặc nồng độ androgen rất
cao→thăm dò hình ảnh tuyến
thượng thận và buồng trứng để
đánh giá sự hiện diện của khối u
Tiền sử có thực hiện các thủ thuật
sản phụ khoa→thực hiện các test
hay nội soi BTC để đánh giá HC
Asherman
bệnh nhân và tầm soát các hành vi rối loạn ăn uống
như ăn kiêng, ăn uống quá độ (Nathan M và cs, 2013).
Ở các bệnh nhân vô kinh nguyên phát, sự hiện
diện của các đặc tính sinh dục phụ là dấu hiệu quan
trọng, chứng tỏ các steroid sinh dục đã được thành
lập và lưu hành trong tuần hoàn. Trong quá trình
khám thực thể, cần tìm kiếm các dấu hiệu hay các
triệu chứng của các bệnh toàn thân.
Ở các bệnh nhân vô kinh nguyên phát và không có
đặc tính sinh dục thứ phát, nên định lượng FSH và LH.
Sự gia tăng nồng độ gonadotropin cho thấy nguyên
nhân của dậy thì trễ nằm ở tuyến sinh dục, trong khi
đó nồng độ FSH và LH thấp hay bình thường cho
thấy dậy thì trễ bản chất, rối loạn chức năng tuyến
yên hay rối loạn ở vùng dưới đồi (thường do rối loạn
ăn uống hay bệnh tòn thân mãn tính). Bước tiếp theo
trong việc đánh giá bệnh nhân dậy thì muộn có nồng
độ gonadotropin tăng bao gồm siêu âm vùng chậu
(có hay không có nang noãn ở buồng trứng, độ dày
nội mạc tử cung), phân tích nhiễm sắc đồ góp phần
chẩn đoán phân biệt giữa suy buồng trứng, bất sản
tuyến sinh dục, hội chứng Turner và hội chứng không
nhạy cảm androgen bởi vì đây là những nguyên nhân
thường gặp nhất của vô kinh nguyên phát có bất
thường nhiễm sắc thể.
Tất cả các bệnh nhân vô kinh có quá trình phát
triển dậy thì bình thường và vô kinh nguyên phát nên
nên được khám phụ khoa qua đường trực tràng-bụng
PHẠM CHÍ KÔNGTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
28
và siêu âm vùng chậu để loại trừ bất thường bẩm sinh
của đường thoát kinh nguyệt. Dấu hiệu đau bụng có
tính chu kỳ và ngày càng tăng ở bệnh nhân vô kinh
nguyên phát cũng là một chỉ định cho việc đánh giá
sự tắc nghẽn đường thoát kinh. Sau khi loại trừ khả
năng dị dạng bẩm sinh đường sinh dục ở các bé gái vị
thành niên bị vô kinh mà có quá trình phát triển dậy
thì bình thường, cần phải đánh giá thêm theo lưu đồ
đánh giá một bệnh nhân vô kinh thứ phát.
Đối với bệnh nhân vô kinh thứ phát, cần loại trừ khả
năng có thai và tiếp theo là tìm các dấu hiệu của cường
androgen trên lâm sàng như mụn trứng cá, rậm lông,
giọng nói trầm, âm vật to. Trong trường hợp có dấu
hiệu cường androgen trên lâm sang, nên định lượng
FSH, LH, testosterone và dehydroepiandrosterone
sulfate (DHEA-S). Sự gia tăng mức độ nhẹ đến trung
bình nồng độ testosterone và tỉ lệ LH/FSH thường
gợi ý đến hội chứng buồng trứng đa nang. Nếu nồng
độ DHEA-S từ 5-700mg/dL, cần phải đánh giá thêm
chức năng tuyến thượng thận bằng cách định lượng
17OH-progesterone. Nếu nồng độ DHEA-S >700mg/
dL, nguyên nhân của tình trạng tăng androgen là
tang sản tuyến thượng thận bẩm sinh dạng khởi phát
muộn. Ở các bệnh nhân vô kinh thứ phát có nồng
độ androgen bình thường, mặc dù có các dấu hiệu
cường androgen trên lâm sàng, cũng nên thực hiện
chứng nghiệm progesterone để đánh giá nồng độ
estrogen trong tuần hoàn và tác động của chúng lên
chức năng nội mạc tử cung.
Trong trường hợp vô kinh thứ phát và không có
dấu hiệu của cường androgen trên lâm sàng, cần
định lượng FSH, LH, TSH và prolactin (PRL) bởi vì vô
kinh có thể do rối loạn chức năng tuyến giáp hay tăng
prolactin máu. Nếu nồng độ TSH cao hay thấp hơn
giá trị bình thường thì vô kinh thứ phát là do bệnh lý
tuyến giáp. Nếu nồng độ prolactin cao, cần phải đánh
giá thêm. Nếu nồng độ FSH và LH tăng cao trong nhiều
lần định lượng liên tiếp và nồng độ TSH, PRL bình
thường thì nguyên nhân của vô kinh thứ phát có thể là
suy buồng trứng. Trong trường hợp nồng độ của tất cả
các hormone trên bình thường, nên thực hiện chứng
nghiệm progesterone và nếu bệnh nhân không có
kinh sau test, cần thực hiện chứng nghiệm estrogen-
progesterone để đảm bảo chức năng nội mạc tử cung
bình thường (Deligeoroglou E và cs, 2010).
3. Các nguyên nhân của vô kinh
Mặc dù có rất nhiều nguyên nhân gây ra vô kinh,
nhưng đa số các trường hợp thuộc 04 nhóm: buồng
trứng đa nang, vô kinh do vùng dưới đồi, tăng PRL
máu và suy buồng trứng. Tổ chức Y tế thế giới đã
tóm tắt các nguyên nhân của vô kinh: (1) nhóm 1:
không có bằng chứng của sự sản xuất estrogen nội
sinh, nồng độ FSH thấp hay bình thường, nồng độ
PRL bình thường và không có bằng chứng của tổn
thương vùng dưới đồi-tuyến yên; (2) nhóm 2 liên
quan với tăng sản xuất estrogen, nồng độ FSH và
PRL bình thường và (3) nhóm 3 liên quan với tăng
nồng độ FSH, cho thấy tình trạng suy tuyến sinh dục
(The Practice Committee of the American Society for
Reproductive Medicine, 2008).
Theo Ủy Ban thực hành của Hội Y học sinh sản Hoa
Kỳ, các nguyên nhân của vô kinh gồm (không bao gồm
các rối loạn mơ hồ giới tính bẩm sinh) (1) Các khiếm
khuyết giải phẫu của đường thoát kinh, (2) suy tuyến
sinh dục nguyên phát, (3) nguyên nhân ở vùng dưới
đồi, (4) nguyên nhân ở tuyến yên, (5) các rối loạn tuyến
nội tiết khác (Bảng 1) và (6) nguyên nhân kết hợp
(Deligeoroglou E và cs, 2010).
4. Các nguyên nhân vô kinh thường
gặp nhất ở tuổi vị thành niên
Bất thường giải phẫu
Các bất thường giải phẫu đường thoát kinh
bao gồm bất sản ống Muller (Hội chứng Mayer-
Rokitanski-Kuster-Hauser), kháng androgen hoàn
toàn (tinh hoàn nữ hóa), dính buồng tử cung (hội
chứng Asherman, cực kỳ hiếm gặp ở tuổi vị thành
niên), màng trinh không thủng, vách ngang âm đạo,
bất sản cổ tử cung, hẹp cổ tử cung (cũng hiếm gặp ở
tuổi vị thành niên), bất sản âm đạo và giảm sản hay
bất sản nội mạc tử cung bẩm sinh.
Hội chứng Mayer-Rokitanski-Kuster-Hauser
Hội chứng này chiếm tỉ lệ 1/4000-1/10.000 trẻ sơ
sinh nữ. Đặc trưng của hội chứng bao gồm không có
hay giảm sản các thành phần được biệt hóa từ ống
muller (tử cung, cổ tử cung và 2/3 trên âm đạo) ở các
trẻ gái có nhiễm sắc đồ XX bình thường, chức năng
buồng trứng bình thường và có sự phát triển của dậy
thì. Trong trường hợp điển hình, các bệnh nhân này
bị vô kinh nguyên phát ở tuổi dậy thì. Trong một số
Tuyến thượng thận
Tăng sản tuyến thượng thận khởi phát ở tuổi trưởng thành
Hội chứng Cushing
Tuyến giáp
Suy giáp
Cường giáp
Khối u buồng trứng
Khối u tế bào vỏ-hạt
U thanh dịch
Bảng 1. Các rối loạn nột tiết khác gây vô kinh
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
29
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 26-33, 2015
ít trường hợp bệnh nhân có thể có tử cung sơ khai
(rudimentary uterus) với nội mạc tử cung có chức
năng và dấu hiệu chính của bệnh nhân lúc đi khám
là đau bụng có tính chu kỳ ngày càng tăng. Ngoài ra,
đôi khi có thể gặp bệnh nhân đi khám vì lý do không
thể giao hợp được. Hội chứng này thường đi kèm
bất thường hệ tiết niệu (ví dụ bất sản thận một bên,
thận nằm ở vùng chậu, thận hình móng ngựa, thận
đôi), bất thường hệ xương và dị dạng tai giữa và
tim (Hayden CJ và cs, 2007).
Ngày nay, không có biện pháp điều trị nào có thể
gây ra kinh nguyệt ở các bệnh nhân bị hội chứng này.
Việc điều trị bao gồm hỗ trợ tâm lý, tạo hình âm đạo
để bệnh nhân có cuộc sống tình dục bình thường.
Nếu bệnh nhân có tử cung sơ khai, nội mạc tử cung có
chức năng và có triệu chứng đau vùng bụng có chu kỳ
hoặc lạc nội mạc tử cung do kinh ngược dòng, có thể
chỉ định phẫu thuật cắt bỏ tử cung sơ khai. Hiện nay,
biện pháp điều trị duy nhất để các bệnh nhân bị hội
chứng này có thể có con là kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm bằng trứng của bệnh nhân.
Đề kháng androgen hoàn toàn
Đề kháng androgen hoàn toàn hay hội chứng
không nhạy cảm androgen là một hội chứng hiếm
gặp (1/60.000), chiếm 5% trẻ vị thành niên bị vô
kinh nguyên phát (Hayden CJ và cs, 2007). Đây là
một rối loạn di truyền lặn liên kết nhiễm sắc thể X.
Bệnh nhân có nhiễm sắc đồ là 46XY và kiểu hình
nữ. Nguyên nhân của rối loạn này là do bất thường
ở thụ thể androgen, dẫn đến đề kháng với tác động
của testosterone. Sự đề kháng này có thể một phần
(bệnh nhân có ít lông nách hay lông mu) hay hoàn
toàn (không có lông nách hay lông mu). Cơ quan sinh
dục ngoài là nữ với sự phát triển quá mức của môi bé.
Bệnh nhân có tinh hoàn do có nhiễm sắc thể Y. Trong
quá trình phát triển, tinh hoàn tiết ra chất ức chế ống
Muller, vì thế bệnh nhân không có 1/3 trên âm đạo,
tử cung và vòi tử cung. Tinh hoàn nằm trong ổ bụng
hay ống bẹn. Trong giai đoạn dậy thì, có sự phát triển
của tuyến vú do có sự chuyển đổi androgen ngoại vi
thành estrogen (Nathan M và cs, 2013).
Việc hỗ trợ tâm lý có vai trò rất quan trọng đối với
bệnh nhân bị hội chứng không nhạy cảm androgen
bởi vì việc xác định chẩn đoán đã có tác động rất lớn
đối với tâm lý của “cô gái”. Do nguy cơ ác tính của tinh
hoàn lạc chỗ (22%), nên việc cắt bỏ tuyến sinh dục
là cần thiết. Thời điểm phù hợp là ở lứa tuổi 20, khi
tuyến vú và dáng vóc của bệnh nhân đạt được sự
phát triển tối đa. Có thể tạo hình âm đạo như trong
trường hợp hội chứng Rokitanski.
Màng trinh không thủng
Đây là nguyên nhân thường gặp nhất của bất
thường bẩm sinh đường thoát kinh, chiếm tỉ lệ
1/1000 bé gái (Miller R và cs, 2009). Có thể chẩn đoán
bất thường này từ rất sớm, trong những giờ đầu sau
sinh bằng khám phụ khoa cẩn thận. Tuy nhiên, điều
này hiếm khi thực hiện được. Trong trường hợp điển
hình, các bệnh nhân tuổi vị thành niên sẽ có triệu
chứng đau bụng có chu kỳ và ngày càng tăng. Khi
khám thực thể, có thể phát hiện ứ máu kinh trong
âm đạo, trong tử cung hay trong ổ phúc mạc, màng
trinh phồng căng. Điều trị bằng cách mở màng trinh
(Deligeoroglou E và cs, 2010).
Vách ngăn âm đạo
Bất thường này chiếm tỉ lệ 1/80.000 trẻ gái. Vách
ngăn âm đạo có thể hoàn toàn hay không hoàn toàn
và có thể nằm ở 1/3 trên, giữa hoặc dưới của âm đạo.
Thường gặp vách ngăn âm đạo ở 1/3 trên và giữa
(46% và 40%), ít gặp hơn là ở 1/3 dưới (14%). Các
bệnh nhân có vách ngăn âm đạo hoàn toàn thường
biểu hiện vô kinh hay đau bụng có chu kỳ sau giai
đoạn dậy thì. Vách ngăn sẽ ngăn cản dòng chảy ra
ngoài của kinh nguyệt, dẫn đến tích tụ máu trong
âm đạo, tử cung. Các trường hợp vách ngăn ở cao
thì biểu hiện triệu chứng càng sớm bởi vì khoảng âm
đạo tích tụ máu nhỏ. Chụp cộng hưởng từ sẽ giúp
phân biệt các loại bất thường của ống Muller, giúp
xác định vị trí và độ dày của vách ngăn (Miller R và cs,
2009), (Deligeoroglou E và cs, 2010).
Bất sản/Giảm sản cổ tử cung
Bất sản cổ tử cung có thể kèm theo có âm đạo
bình thường hay không có âm đạo. Bệnh nhân có
biểu hiện vô kinh nguyên phát và đau vùng chậu có
chu kỳ tái diễn ở giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên.
Giảm sản cổ tử cung khi một phần cổ tử cung đã phát
triển. Không có đồng thuận trong việc điều trị các bất
thường này. Các phương pháp thường được đưa ra
là cắt tử cung và tạo hình cổ tử cung. Việc tạo hình
cổ tử cung có thể có lợi ở các bệnh nhân bị giảm sản
cổ tử cung và có âm đạo bình thường. Đối với những
trường hợp bất sản cổ tử cung hoàn toàn, thường chỉ
định cắt tử cung (Deligeoroglou E và cs, 2010).
Suy tuyến sinh dục nguyên phát
Suy tuyến sinh dục nguyên phát (hay suy tuyến
sinh dục tăng nồng độ hormone hướng sinh dục)
là do tuyến sinh dục không sản xuất đủ nồng độ
hormone sinh dục để ức chế tiết FSH và LH ở mức
bình thường. Suy tuyến sinh dục xảy ra trước dậy thì
thường dẫn đến vô kinh nguyên phát và không có
đặc tính sinh dục phụ. Trong trường hợp xảy ra sau
PHẠM CHÍ KÔNGTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
30
dậy thì, bệnh nhân thường bị vô kinh thứ phát. Các
nguyên nhân thường gặp nhất của suy tuyến sinh
dục là giảm sản tuyến sinh dục và suy buồng trứng
sớm, trong khi đó đột biến thụ thể FSH, LH, bất
thường enzyme (17-α-hydroxylase, 17,20-lyase và
bất thường men thơm hóa) là những nguyên nhân
ít gặp hơn. Các nguyên nhân của suy tuyến sinh dục
nguyên phát được trình bày trong bảng 2.
Giảm sản tuyến sinh dục
Giảm sản tuyến sinh dục là tình trạng tuyến sinh
dục chỉ còn lại một dải nhỏ do bất thường trong quá
trình phát triển,. Nghiên cứu nhiễm sắc đồ cho thấy
bộ nhiễm sắc thể có thể bình thường hay bất thường.
Bất thường hay gặp nhất là 45,XO (hội chứng Turner).
Các trường hợp có kiểu gen là XY và suy tuyến sinh
dục (hội chứng Swyer) có cơ quan sinh dục ngoài là nữ,
tử cung và âm đạo bình thường do không có sự sản
xuất của hormone kháng ống Muller và testosterone.
Các khối u tuyến sinh dục chiếm 25% bệnh nhân bị hội
chứng Swyer. Không giống như hội chứng không nhạy
cảm androgen, các tuyến sinh dục này không tiết ra
hormone và cần được phẫu thuật cắt bỏ vào thời điểm
chẩn đoán (Deligeoroglou E và cs, 2010).
Suy buồng trứng sớm
Đặc trưng của suy buồng trứng sớm bao gồm vô
kinh, tăng nồng độ hormone hướng sinh dục và giảm
nồng độ estrogen ở các phụ nữ dưới 40 tuổi. Tỉ lệ ước
tính là 0,9-1,2% ở tất cả phụ nữ, 10-28% ở bệnh nhân
vô kinh nguyên phát và 4-18% ở các trường hợp vô
kinh thứ phát. Đa số (90%) các trường hợp không rõ
nguyên nhân. Trong những năm qua, thuật ngữ giảm
hoạt động buồng trứng sớm (premature ovarian
Giảm sản tuyến sinh dục
Bất thường nhiễm sắc đồ
Hội chứng Turner 45, XO
Thể khảm
Nhiễm sắc đồ bình thường
Giảm sản đơn thuần tuyến sinh dục
46,XY (hội chứng Swyer)
46,XX
Bất sản tuyến sinh dục
Thiếu hụt enzyme
Thiếu men 17-Hydroxylase
Thiếu men 17,20-Lyase
Thiếu men thơm hóa
Suy buồng trứng sớm
Vô căn
Mắc phải
Hóa trị
Xạ trị
Tăng galactose máu
Hội chứng Glycoprotein type I
Bảng 2. Các nguyên nhân của suy tuyến sinh dục nguyên phát insufficiency) đã được đề nghị thay thế thuật ngữ suy
buồng trứng sớm (premature ovarian failure) bởi vì
người ta nhận thấy rằng sự phóng noãn và thậm chí
là thai kỳ tự nhiên xảy ra ở một số bệnh nhân sau khi
đã được chẩn đoán là suy buồng trứng sớm.
Ở tuổi vị thành niên, nguyên nhân của suy buồng
trứng sớm bao gồm do phẫu thuật, hóa trị liệu hay xạ
trị, các rối loạn nhiễm sắc thể, chủ yếu liên quan đến
nhiễm sắc thể thể X. Có thể xác định hội chứng Turner
bằng phân tích nhiễm sắc đồ. Một số bệnh tự miễn
cũng liên quan đến suy buồng trứng sớm. Trên 20%
bệnh nhân có liên quan với bệnh tự miễn và hay gặp
nhất là viêm tuyến giáp tự miễn. Các rối loạn khác
bao gồm đái đường type 1, suy tuyến thượng thận và
suy tuyến cận giáp.
Điều trị suy buồng trứng sớm ở tuổi vị thành niên
tập trung vào 03 vấn đề gồm (1) hỗ trợ tâm lý cho
bệnh nhân và gia đình, (2) giải quyết các hậu quả do
thiếu hụt estrogen và (3) điều trị vô sinh.
Việc chẩn đoán hội chứng này rõ ràng đã gây ra
chấn thương tâm lý lớn cho các trẻ vị thành niên.
Các cô gái trẻ có thể chưa bao giờ được chuẩn bị về
mặt tình cảm để tiếp nhận chẩn đoán như thế, vì vậy
cần phải có chuyên gia giàu kinh nghiệm để tư vấn
cho các bệnh nhân này. Cảm giác giận dữ, thất vọng,
buồn chán, mất cảm giác nữ tính, buồn rầu và trầm
cảm thường xuất hiện sau khi bệnh nhân biết được
mình bị mắc hội chứng này, vì vậy việc đánh giá các
vấn đề tâm lý là điều hoàn toàn cần thiết.
Bước tiếp theo là điều trị các triệu chứng liên quan
đến thiếu hụt estrogen như các triệu chứng vận mạch,
viêm âm đạo do thiểu dưỡng và giao hợp đau. Các
bệnh nhân bị suy buồng trứng sớm cũng có nguy cơ
cao bị loãng xương và bệnh tim mạch. Quá trình điều
trị bao gồm đưa ra các lời khuyên về dinh dưỡng khỏe
mạnh, ngừng hút thuốc lá, tập thể dục hàng ngày. Bổ
sung thêm calci và vitamin là điều cần thiết và liều
khuyến cáo là 1200mg calcium phối hợp với ít nhất
800IU vitamin D. Liệu pháp thay thế estrogen nên phụ
thuộc vào từng cá nhân. Các bệnh nhân trẻ thường
cần liều estrogen cao hơn các phụ nữ hậu mãn kinh.
Sử dụng miếng dán chứa 100µg 17β-estradiol phối
hợp với 10mg medroxyprogesterone acetate trong
12-14 ngày mỗi tháng là liệu trình phù hợp với hầu
hết bệnh nhân và cũng sẽ tạo ra chu kỳ kinh nguyệt
bình thường.
Ở các trường hợp vị thành niên bị suy buồng
trứng sớm, 5-10% có thể có thai tự nhiên sau khi đã
được chẩn đoán, vì vậy cần phải tư vấn cho họ biết
để sử dụng biện pháp ngừa thai phù hợp. Thụ tinh
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
31
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 26-33, 2015
trong ống nghiệm xin trứng là biện pháp điều trị duy
nhất hiện nay trong việc điều trị vô sinh cho các bệnh
nhân này. Trữ mô buồng trứng trước khi có sự có sựu
thoái triển hoàn toàn các nang noãn hay trước khi
hóa trị liệu có thể là một biện pháp thay thế để điều
trị vô sinh ở các bệnh nhân bị suy buồng trứng sớm
(Deligeoroglou E và cs, 2010).
Nguyên nhân vô kinh do vùng dưới đồi
Các rối loạn vùng dưới đồi có thể gây vô kinh, điều
này thường liên quan đến giảm tiết GnRH và là loại
vô kinh thường gặp nhất ở tuổi vị thành niên. Các
nguyên nhân khác của vô kinh do vùng dưới đồi được
tóm tắt trong bảng 3.
Vô kinh chức năng do vùng dưới đồi
Đây là một rối loạn cơ năng, trong đó việc tiết
GnRH và LH theo dạng xung bị ảnh hưởng. Nồng
độ estrogen, LH và FSH thấp đáng kể nhưng sự đáp
ứng của FSH và LH đối với kích thích của GnRH vẫn
còn được bảo tồn. Vô kinh chức năng do vùng dưới
đồi có thể liên quan đến stress, dinh dưỡng và luyện
tập. Các rối loạn tiết LH bao gồm hoàn toàn không có
xung tiết, tần suất trung bình của xung LH thấp, kiểu
xung hình dạng bình thường hay thậm chí tần suất
xung cao hơn do sự tương tác giữa tiết GnRH và LH bị
phá vỡ. Một số lượng lớn steroid thần kinh và peptide
thần kinh như leptin, ghrelin, allopregnanolone và
neuropeptide-Y liên quan đến bệnh sinh của vô kinh
chức năng do vùng dưới đồi nhưng vẫn chưa rõ ràng
về cơ chế phân tử.
Người ta nhận thấy ở các bệnh nhân vô kinh kèm
chứng chán ăn, nồng độ leptin giảm một cách đáng
kể. Tuy nhiên, nồng độ này có khuynh hướng tăng lên
sau khi điều trị và chỉ số khối cơ thể của bệnh nhân
trở về bình thường. Ngoài ra, mặc dù có sự tăng cân
sau điều trị nhưng nồng độ leptin ở các bệnh nhân
vẫn còn vô kinh thấp hơn so với các trường hợp có
chu kỳ kinh đều. Ở các trường hợp vô kinh chức năng
liên quan đến stress, nồng độ CRH tăng cao và ức chế
tiết GnRH theo nhịp xung. Ở các vận động viên-đặc
Chức năng
Liên quan đến stress
Liên quan đến dinh dưỡng
Liên quan đến tập luyện
Các rối loạn khác
Thiếu hụt hormone hướng sinh dục đơn thuần
Hội chứng Kallmann
Suy tuyến sinh dục giảm gonadotropin vô căn
Nhiễm trùng (lao, giang mai)
Khối u não
Các bệnh mãn tính
Bảng 3. Các nguyên nhân gây vô kinh do vùng dưới đồi
biệt là các vận động viên ở các môn thể thao sử dụng
cơ bắp, việc mất cân bằng kéo dài giữa nguồn năng
lượng đưa vào và năng lượng được tiêu thụ, cũng như
stress do việc tập luyện có thể dẫn đến rối loạn chức
năng vùng dưới đồi. Các bệnh nhân này có tỉ trọng
xương thấp hơn so với nhóm chứng, có thể bị loãng
xương sau này và tăng nguy cơ gãy xương trong giai
đoạn hậu mãn kinh.
Mục tiêu của điều trị vô kinh chức năng do vùng
dưới đồi là phục hồi mật độ xương cũng như phục hồi
kinh nguyệt bình thường. Điều trị vô kinh chức năng
do vùng dưới đồi liên quan đến việc phục hồi dinh
dưỡng cũng như giảm cường độ stress và tập luyện.
Liệu pháp hormone thay thế không khôi phục được
tỉ trọng xương như trong nhóm chứng mà chỉ có thể
ngăn ngừa mất xương trong tương lai. Bởi vì mật độ
xương thấp là kết quả của cơ chế sinh lý bệnh phức
tạp, liên quan đến các yếu tố nội tiết và dinh dưỡng,
vì vậy việc bổ sung estrogen đơn thuần không đủ để
khôi phục mật độ xương. Việc điều trị nên tập trung
vào việc điều chỉnh các nguyên nhân gây rối loạn
chức năng vùng dưới đồi. Thuốc ngừa thai phối hợp
sẽ giúp phục hồi kinh nguyệt nhưng sẽ không điều
chỉnh mật độ xương. Leptin được cho là giúp phục
hồi tiết GnRH theo dạng xung và phóng noãn nhưng
tác động của chúng lên sức khỏe của xương vẫn chưa
rõ ràng.
Hội chứng Kallmann
Hội chứng Kallmann là một rối loạn di truyền
hiếm gặp (1/50.000), liên quan đến sự phát triển bất
thường của hành khứu giác và không có bẩm sinh các
tế bào thần kinh của GnRH. Hội chứng này liên quan
đến chứng mất mùi, mù màu và thiếu hụt GnRH. Ở
giai đoạn vị thành niên, bệnh nhân không có sự
phát triển dậy thì và vô kinh nguyên phát. Liệu pháp
hormone thay thế là cần thiết để thúc đẩy sự trưởng
thành giới tính, tạo vòng kinh nhân tạo và giảm nguy
cơ loãng xương. Liệu pháp được bắt đầu ngay sau khi
có chẩn đoán và bệnh nhân đạt đến tuổi dậy thì bình
thường. Bổ sung calcium và vitamin D cũng có thể
cần thiết. Có thể phục hồi khả năng sinh sản bằng
cách cho GnRH theo dạng xung hay sử dụng liều cao
FSH và LH. Cần theo dõi cẩn thận khi kích thích buồng
trứng bằng gonadotropin để ngừa hiện tượng đa thai
và quá kích buồng trứng (Hayden C và cs, 2007).
Vô kinh do tuyến yên
Nguyên nhân vô kinh do tuyến yên thường gặp
nhất là tăng prolactin máu. Các nguyên nhân ít gặp
hơn được trình bày trong bảng 4. PRL máu tăng ức
chế tiết GnRH và cuối cùng gây vô kinh. Tăng prolactin
PHẠM CHÍ KÔNGTỔNG QUAN
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
32
máu chiếm 1% và 15% trong số các nguyên nhân của
vô kinh nguyên phát và thứ phát. Mức độ rối loạn kinh
nguyệt tương quan với nồng độ prolactin máu. Ở các
trường hợp có tăng nồng độ prolactin mức độ trung
bình nhưng không có triệu chứng, có thể xem xét đến
sự hiện diện của prolactin đại phân tử. Prolactin đại
phân tử là phân tử prolactin gắn với kháng thể IgG,
là dạng polymers của nhiều phân tử prolactin và có
thể nhận biết bởi các xét nghiệm miễn dịch. Chúng
không tương tác với các thụ thể của PRL, không có
hoạt tính sinh học. Do đó, nồng độ PRL có hoạt tính
sinh học tương đối thấp và điều này giải thích cho
việc không có sự xuất hiện của các triệu chứng.
Nồng độ PRL có thể tăng do stress, vì vậy cần phải
định lượng hơn một lần ở các trường hợp tăng PRL
máu nhẹ bởi vì sự gia tăng này có thể thoáng qua.
Nồng độ PRL tăng rất cao gợi ý cho các trường hợp u
tiết prolactin, trong khi đó sự gia tăng mức độ trung
bình thường là do rối loạn điều hòa trong cơ chế
ức chế tiết. Suy giáp cũng có thể gây tăng PRL máu
thông qua tác động kích thích của TRH ở tuyến yên
cũng như thông qua việc giảm thải trừ PRL khỏi hệ
tuần hoàn. Dopamine là chất ức chế tiết prolactin ở
tuyến yên. Các thuốc kháng tâm thần cũng gây tăng
PRL máu bằng cách ức chế thụ thể dopamine. Áp
lực lên cuống tuyến yên (ở các bệnh nhân bị u tuyến
yên, hẹp cống sylvius bẩm sinh) có thể gây tắc nghẽn
dòng vận chuyển dopamine thông qua tĩnh mạch
cửa, dẫn đến tăng tiết PRL.
Nên chụp cộng hưởng từ hố yên ở các bệnh
nhân có tăng nồng độ PRL máu kéo dài hay quá mức
(>100ng/ml) mà không có liên quan với tình trạng suy
giáp hay sử dụng các thuốc kháng tâm thần. Điều này
có thể giúp phát hiện các tổn thương của tuyến yên.
Điều trị các bệnh nhân vô kinh do tăng PRL máu
nhằm mục tiêu giảm nồng độ PRL và phục hồi kinh
nguyệt. Các chất đồng vận thụ thể dopamine như
Khối u
U tiết prolactin
Các khối u tuyến yên tiết các loại hormone khác
Khối u không chức năng (u sọ hầu)
Các khối u di căn
Các tổn thương choáng chỗ
Hội chứng hố yên rỗng
Phình động mạch
Hoại tử tuyến yên
Hoại tử tuyến yên sau sinh (hội chứng Sheehan)
Suy toàn bộ chức năng tuyến yên
Các bệnh nhiễm trùng toàn thân
Sarcoidosis
Bệnh nhiễm sắc tố sắt mô
Bảng 4. Các nguyên nhân vô kinh do tuyến yên bromocriptine và cabergoline là biện pháp được lựa
chọn ở các bệnh nhân tăng PRL máu không phải do
suy giáp hay do sử dụng các thuốc kháng tâm thần.
Bromocriptine thường được bắt đầu với liều 1,25mg
mỗi đêm trong 05 đêm và được tăng dần đến liều
7,5mg/ngày chia 2-3 lần trong 03 tuần. Các tác dụng
phụ thường gặp là buồn nôn, nôn, nhức đầu, hạ
huyết áp tư thế, vì vậy thường bắt đầu cho uống vào
ban đêm. Khi sử dụng bromocriptine, 80-90% trường
hợp có giảm nồng độ PRL và 80% các trường hợp
microadenoma có khối u nhỏ lại. Carbegoline (0,25-
1mg, 02 lần/tuần cho đến liều 1mg/ngày) có tác động
dài hơn và được dung nạp tốt hơn, ít tác dụng phụ
hơn. Ở các bệnh nhân vô kinh và tăng PRL máu do sử
dụng các thuốc kháng tâm thần, liệu pháp hormone
thay thế là biện pháp được lựa chọn bởi vì chống chỉ
định sử dụng các chất đồng vận dopamine trong
những trường hợp này.
5. Nguyên nhân phối hợp
Hội chứng buồng trứng đa nang
Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là
một rối loạn nội tiết thường gặp nhất ở các phụ nữ
độ tuổi sinh sản và cũng là nguyên nhân thường gặp
nhất của vô kinh nguyên phát và thứ phát (Hayden
C và cs, 2007), đặc trưng bởi không phóng noãn,
cường androgen và buồng trứng có dạng đa nang.
Hội chứng này liên quan đến béo phì và đề kháng
insulin và những bệnh nhân này có nguy cơ cao bị
đái tháo đường typ II. Có 03 hội nghị quốc tế đã được
tổ chức để đưa ra sự đồng thuận trong chẩn đoán
HCBTĐN ở phụ nữ trưởng thành gồm hội nghị của
Viện Sức khỏe Quốc Gia tổ chức vào năm 1990, hội
nghị đồng thuận giữa Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ và
Hiệp hội Sinh sản người và phôi học Châu Âu năm
2003 và Hội nghị của Hiệp hội thừa androgen và hội
chứng buồng trứng đa nang năm 2006. Tiêu chuẩn
đầu tiên được đưa ra vào năm 1990 tại một hội nghị
được tổ chức bởi Viện sức khỏe quốc gia. Theo tiêu
chuẩn này, không phóng noãn kéo dài và cường
androgen không do các nguyên nhân khác (như
bệnh Cushing, tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh,
và các khối u tiết androgen) là cần thiết để thiết lạp
chẩn đoán. Theo Hội nghị đồng thuận giữa Hội Y học
sinh sản Hoa Kỳ và Hiệp hội Sinh sản người và phôi
học Châu Âu năm 2003, chẩn đoán HCBTĐN khi có 02
trong 03 tiêu chuẩn sau (1) Rối loạn phóng noãn (kinh
thưa hay vô kinh), (2) Cường androgen trên lâm sàng
hay xét nghiệm và (3) hình ảnh buồng trứng đa nang
trên siêu âm. Hiệp hội buồng trứng đa nang và thừa
Tập 13, số 03
Tháng 08-2015
Tạp chí PHỤ SẢN
33
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(3), 26-33, 2015
androgen năm 2006 xác định hội chứng buồng trứng
đa nang khi có tình trạng cường androgen và rối loạn
chức năng buồng trứng hay buồng trứng có dạng đa
nang. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, người ta vẫn còn
tranh cãi về tiêu chuẩn chẩn đoán HCBTĐN ở tuổi vị
thành niên bởi vì các đặc điểm bệnh lý dùng để chẩn
đoán ở phụ nữ trưởng thành như mụn trứng cá, rối
loạn kinh nguyệt, hình dạng buồng trứng đa nang là
những thay đổi sinh lý bình thường trong giai đoạn
dậy thì. Ngoài ra, không có nồng độ androgen chuẩn
cho các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển
dậy thì, vì vậy khó để xác định cường androgen về
mặt sinh hóa ở tuổi vị thành niên. Bên cạnh đó, theo
tiêu chuẩn năm 2003, siêu âm đường âm đạo được
khuyến cáo sử dụng để đánh giá hình thái của buồng
trứng và điều này không thể thực hiện được ở các
trường hợp vị thành niên chưa quan hệ tình dục. Vì
vậy, chẩn đoán HCBTĐN ở tuổi vị thành niên thường
khó hơn so với phụ nữ trưởng thành và chưa có tiêu
chuẩn rõ ràng (Agapova SE và cs, 2014).
Điều trị HCBTĐN nhằm mục tiêu cải thiện tình
trạng cường androgen và đề kháng insulin. Điều quan
trọng đối với các bé gái tuổi vị thành niên-đặc biệt
là các bé bị béo phì, phải nhận thức được việc giảm
cân, tập luyện thường xuyên, chấp nhận lối sống lành
mạnh là điều cần thiết để giảm nguy cơ bị đái tháo
đường typ II trong tương lai. Ngoài ra, việc thay đổi
lối sống có liên quan đến giảm nồng độ androgen. Sử
dụng thuốc ngừa thai phối hợp và các progestin có
tính kháng androgen giúp bình thường hóa nồng độ
androgen và điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Các thuốc
nhạy cảm insulin được chỉ định ở các bé gái vị thành
niên có tăng insulin máu. Hiện nay, chưa có đủ dữ liệu
từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng về việc
sử dụng các thuốc nhạy cảm insulin ở các bệnh nhân
bị HCBTĐN mà không có tăng insulin máu.
6. Kết luận
Vô kinh tuổi vị thành niên là một dạng rối loạn
kinh nguyệt phức tạp, cần có sự đánh giá đặc biệt bởi
các bác sĩ phụ khoa. Hỏi tiền sử gia đình một cách
chi tiết và khám thực thể cẩn thận là điều cần thiết.
Vấn đề quan trọng là phân biệt vô kinh nguyên phát,
thứ phát và đánh giá giai đoạn phát triển của các đặc
tính sinh dục thứ phát cũng như sự hiện diện của các
bệnh toàn thân. Khám phụ khoa có thể phát hiện
các bất thường giải phẫu của đường sinh dục. Nên
loại trừ khả năng có thai ở lứa tuổi này. Định lượng
FSH, LH, PRL và TSH là những xét nghiệm chính. Nên
định lượng androgen ở những bệnh nhân vô kinh và
có các triệu chứng của sự nam hóa. Sau khi có chẩn
đoán, cần có biện pháp điều trị nội khoa, ngoại khoa
phù hợp, theo dõi đều đặn và hỗ trợ tâm lý cho các
cô gái trẻ.
Tài liệu tham khảo
Agapova SE, Cameo T, Sopher AB et al (2014), Diagnosis
and Challenges of Polycystic Ovary Syndrome in
Adolescence, Semin Reprod Med, 32(3), p.194–201
Deligeoroglou E, Athanasopoulos N, Tsimaris P et al (2010),
Evaluation and management of adolescent amenorrhea, Ann
N.Y. Acad. Sci, 1205, p.23-32.
Gray SH (2013), Menstrual disorders, Pediatrics in
Review, 34(1), p.6-18.
Heyden CJ (2007), Primary amenorrhea: investigation
and treatment, Obstetrics, Gynecology and reproductive
Medicine, 17(7), p.199-204.
Klein DA, Poth MA (2013), Amenorrhea: A Approach to
diagnosis and management, Am Fam Physician, 87(11),
p.781-788.
Master-Hunter T, Heiman DL (2006), Amenorrhea:
evaluation and treatment, Am Fam Physician, 87, p.1374-82.
Miller RJ, Hillard PJ (2009), Primary and secondary
amenorrhea, In: Pediatric, Adolescent and Young adult
Gynecology, Blackwell Publishing Ltd, p.150-158.
Nathan M, Zuckerman AL (2013), Amenorrhea, In: Practical
Pediatric and Adolescent Gynecology, First Edition, p.269-274.
The Practice Committee of the American Society for
Reproductive Medicine (2008), Current evaluation of
amenorrhea, Fertil Steril, 90(S2), p.19-25.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
chan_doan_va_dieu_tri_vo_kinh_tuoi_vi_thanh_nien.pdf