KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
CLCS bệnh nhân THA đạt mức trung bình ở
hầu hết các lĩnh vực sức khỏe, ngoại trừ khá
thấp ở lĩnh vực SKTT. Do đó cần đẩy mạnh vai
trò của các câu lạc bộ người lớn tuổi, các tổ chức
xã hội, tổ chức y tế trong việc giúp đỡ, quan tâm
động viên tinh thần bệnh nhân THA là người
lớn tuổi.
Tình trạng hôn nhân và hoạt động thể chất là
hai yếu tố quan trọng tác động lên CLCS ở cả 4
lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH, MTS. Tuân thủ
điều trị tác động tích cực lên CLCS ở lĩnh vực
SKTC, SKTT và MTS. Tuổi lớn hơn có liên quan
đến CLCS thấp hơn ở lĩnh vực SKTC và SKTT.
Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng và mắc kèm theo
bệnh Đái tháo đường ảnh hưởng tiêu cực đến
CLCS lĩnh vực SKTC và SKTT. Phụ nữ bị THA
đánh giá CLCS lĩnh vực SKTT thấp hơn so với
nam giới. Bệnh nhân THA có trình độ học vấn
cao hơn có CLCS lĩnh vực MTS cũng cao hơn.
Nơi cư trú có liên quan đến CLCS ở lĩnh vực
QHXH. Ngoài ra, mắc kèm theo bệnh mạn tính
ở bệnh nhân THA là yếu tố quan trọng khác ảnh
hưởng đến CLCS ở lĩnh vực SKTC. Theo đó,
chương trình can thiệp với mục tiêu cải thiện
CLCS bệnh nhân THA cần thiết được thực hiện.
Trong đó, chú trọng quan tâm đến đối tượng là
bệnh nhân THA lớn tuổi, bệnh nhân THA là nữ
giới, bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, bệnh
nhân cư trú tại khu vực dân cư thư thớt, bệnh
nhân sống độc thân, góa, ly dị/ly thân, người
THA bị suy dinh dưỡng hoặc mắc kèm theo các
bệnh mãn tính khác. Ngoài ra, khuyến khích
động viên bệnh nhân THA thực hiện tốt việc tái
khám định kỳ cũng như uống thuốc đều đặn
theo đúng hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ kết
hợp với vận động thể lực, thể thao đều đặn ít
nhất 30 phút mỗi ngày là việc làm cần thiết.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan ở người tăng huyết áp từ 50 tuổi trở lên tại xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 211
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI TĂNG HUYẾT ÁP TỪ 50 TUỔI TRỞ LÊN TẠI XÃ PHƯỚC LỢI,
HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN, NĂM 2013
Duy Thị Hoa*, Lê Hoàng Ninh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tỉ lệ người mắc bệnh tăng huyết áp (THA) tại Việt Nam ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, chất
lượng cuộc sống (CLCS) của người bệnh vẫn chưa được quan tâm. Chúng tôi khảo sát CLCS và các yếu tố liên
quan ở bệnh nhân THA nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nâng cao sức khỏe của người bệnh.
Mục tiêu: Xác định điểm trung bình chất lượng cuộc sống (TB CLCS) và các yếu tố liên quan ở người THA
từ 50 trở lên.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 275 bệnh nhân THA được chọn
ngẫu nhiên cư trú tại xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An vào tháng 4 năm 2013 bằng phương pháp
phỏng vấn trực tiếp sử dụng bộ câu hỏi CLCS của Tổ chức y tế thế giới. Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
được sử dụng để đo lường mối liên quan giữa điểm CLCS các lĩnh vực và các biến độc lập.
Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 66 tuổi (ĐLC=9,9); 59% là nữ giới. Điểm
TB CLCS về quan hệ xã hội, môi trường sống, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của bệnh nhân THA lần
lượt là: (64,12 ± 14,06), (59,52 ± 10,39), (54,73 ± 14,94) và (49,42 ± 12,73). Các yếu tố liên quan đến CLCS của
bệnh nhân THA gồm tuổi, giới tính, hôn nhân, học vấn, nơi cư trú, vận động thể lực, tuân thủ điều trị, tình
trạng dinh dưỡng và một số bệnh kèm theo như: đái tháo đường, bệnh thận, bệnh tim, bệnh về khớp, tai biến
mạch máu não.
Kết luận: CLCS bệnh nhân THA thấp ở lĩnh vực SKTT. Vận động thể lực đều đặn ở mức độ vừa phải, tuân
thủ điều trị theo hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ là các yếu tố cần được khuyến khích thực hiện giúp cải thiện
CLCS người bệnh THA. Bệnh nhân THA là phụ nữ, người lớn tuổi, người suy dinh dưỡng, người có trình độ
học vấn thấp, người bệnh THA mắc kèm thêm bệnh mãn tính là những đối tượng cần được quan tâm và hướng
tới trong các chương trình, hoạt động với mục tiêu cải thiện CLCS người bệnh.
Từ khoá: Tăng huyết áp, chất lượng cuộc sống, WHOQOL – BREF
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE AND ITS ASSOCIATED FACTORS
AMONG PATIENTS WITH HYPERTENSION AGED 50 YEARS AND OVER
IN PHUOC LOI COMMUNE, BEN LUC DISTRICT, LONG AN PROVINCE, 2013
Duy Thi Hoa, Le Hoang Ninh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 212 – 220
Background: The prevalence of hypertension has been increasing in Vietnam. However, quality of life
(QOL) among the patients has not yet been considered. To improve QOL and health care for hypertensive
patients, it is crucial to measure their quality of life and its associated factors.
Objectives: To determine average score of QOL and its associated factors among hypertensive patients aged
50 years and over.
* Viện Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Duy Thị Hoa ĐT: 0989813786 Email: flowerduy@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 212
Methods: A cross‐sectional study was conducted at Phuoc Loi commune, Ben Luc district, Long An
province. 275 hypertensive patients were randomly selected. Data were collected by a face‐to‐face interview using
WHOQOL – BREF. Multivariable linear regression analyses were used to measure the association between QOL
and independent variables.
Result: Mean age of participants was 66 years (SD 9.9); 49% were women. The mean scores in the domains
of social relation, environmental health, physical health, and psychological health were (64,12 ± 14,06), (59,52 ±
10,39), (54,73 ± 14,94), and (49,42 ± 12,73) respectively. Factors associated with QOL among hypertensive
patients were age, gender, marital status, education level, residence, physical activity level, adherence to
treatment, nutritional status, and presence of co‐morbidity (diabetes, kidney diseases, coronary heart disease,
arthritis, and stroke).
Conclusion: The mean score in the domain of psychological health among the hypertensive patients was low.
Encouraging physical activities and strengthening treatment adherence should be considered to improve QOL for
hypertensive patients. Actions to improve QOL should be targeted at hypertensive patients female, elderly,
undernourished, low educated and/or with co‐morbidity.
Keywords: Hypertension, quality of life, WHOQOL – BREF
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Theo thống kê của Tổ
chức y tế thế giới, năm 2000 THA ảnh hưởng sức
khỏe của gần 1 tỉ người trên toàn thế giới, ước
tính lên tới 1,56 tỉ người vào năm 2025(7, 22). THA
là yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến tử vong và
mắc bệnh (12,7%)(12). Vào năm 2005, THA là
nguyên nhân trực tiếp gây tử vong 7,1 triệu
người trong số 17,5 triệu người tử vong vì các
bệnh tim mạch(12). Không chỉ vậy, THA còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống
(CLCS) người bệnh(15), làm suy yếu đáng kể
CLCS bệnh nhân cả về sức khỏe thể chất lẫn tinh
thần(19). Nhiều nghiên cứu phát hiện CLCS bệnh
nhân THA giảm rõ rệt do ảnh hưởng bởi nhiều
yếu tố khác nhau như tuổi tác(8, 10), giới tính và có
xu hướng giảm ở bệnh nhân THA mắc kèm theo
các bệnh mãn tính khác(1, 5).
Tại khu vực phía Nam Việt Nam chưa có
nghiên cứu về CLCS bệnh nhân THA ở khu vực
nông thôn được thực hiện. Long An là tỉnh có tỉ
lệ THA khá caoso với tỉ lệ THA chung của cả
nước (28,41%)(18), trong đó có xã Phước Lợi là xã
nông thôn thuộc huyện Bến Lức, đây là một
trong những xã đầu tiên của tỉnh triển khai
chương trình tầm soát THA trong cộng đồng.
Theo đó, khảo sát về CLCS bệnh nhân THA tại
địa phương xã Phước Lợi là điều rất quan trọng
và cần thiết nhằm cung cấp thông tin giúp các
nhà hoạch định chính sách và quản lý y tế lên kế
hoạch cũng như các giải pháp phù hợp phục vụ
công tác chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe,
nâng cao CLCS người bệnh THA tại xã. Từ lý do
nêu trên, nghiên cứu được thực hiện với mục
tiêu đo lường CLCS bệnh nhân THA và các yếu
tố liên quan đến CLCS cụ thể trên bốn lĩnh vực
sức khỏe thể chất (SKTC), sức khỏe tinh thần
(SKTT), quan hệ xã hội (QHXH) và môi trường
sống (MTS) bằng cách sử dụng bộ công cụ
WHOQOL‐BREF. Nghiên cứu tập trung vào đối
tượng là người THA từ 50 trở lên vì theo các
nghiên cứu thực hiện trước, đây là lứa tuổi có tỉ
lệ mắc THA cao(2, 3, 13, 14, 18). Kết quả nghiên cứu
cũng là tiền đề cho các nghiên cứu liên quan sâu
rộng hơn sau này.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định điểm trung bình CLCS bốn lĩnh
vực sức SKTC, SKTT, QHXH và MTS ở người
THA từ 50 tuổi trở lên.
Xác định các yếu tố (đặc điểm dân số xã hội,
tình trạng THA, các bệnh kèm theo, thói quen
sinh hoạt) liên quan đến điểm CLCS bốn lĩnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 213
vực SKTC, SKTT, QHXH, MTS của người THA
từ 50 tuổi trở lên.
ĐÓI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang với phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên đơn thực hiện vào tháng 4
năm 2013 trên 275 bệnh nhân THA từ 50 tuổi trở
lên cư trú tại xã Phước Lợi, một xã nông thôn
thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An nằm ở đồng
bằng sông Cửu Long thuộc phía Nam Việt Nam.
Đây là xã thí điểm triển khai chương trình sàng
lọc THA, trong đó bệnh nhân THA từ 50 tuổi trở
lên được ghi nhận, theo dõi và cập nhật.
Cỡ mẫu nghiên cứu được tính dựa vào công
thức ước lượng một trung bình với khoảng tin
cậy 95%, sử dụng độ lệch chuẩn 8,1 theo nghiên
cứu được thực hiện tại Hóc Môn, TP. Hồ Chí
Minh năm 2012(6). Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên
cứu là 252 người.Sau khi dự tính tình trạng thiếu
mẫu có thể xảy ra với ước đoán khoảng 10%, cỡ
mẫu tính được gồm 280 đối tượng.
Thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia
phòng chống THA, vào tháng 02 năm 2013, tổng
cộng có 389 bệnh nhân THA từ 50 tuổi trở lên
được ghi nhận và quản lý tại Trạm Y tế xã Phước
Lợi. Danh sách 389 bệnh nhân được sử dụng làm
khung mẫu nhằm chọn ngẫu nhiên đơn 280 đối
tượng (bằng phần mềm R) đưa vào nghiên cứu.
Đối tượng được chọn hoàn thành bộ câu hỏi cấu
trúc bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp tại
hộ gia đình kết hợp đối chiếu sổ khám bệnh
nhằm thu thập thông tin về các bệnh kèm theo
(nếu có), cân nặng bằng cân đo đã được hiệu
chỉnh và đo chiều cao. Điều tra viên gồm 05
phỏng vấn viên công tác tại Viện Vệ sinh ‐ Y tế
công cộng thành phố Hồ Chí Minh, có kinh
nghiệm trong việc thu thập số liệu tại cộng đồng,
được tập huấn kỹ về đối tượng nghiên cứu,
phương pháp thu thập số liệu, nắm rõ các định
nghĩa về biến số. Kết thúc đợt khảo sát, số mẫu
thực tế thu được là 275 bệnh nhân THA (5 trường
hợp bị loại do không thể trả lời phỏng vấn).
WHOQOL‐BREF là bộ công cụ đo lường
CLCS miễn phí được Tổ chức y tế thế giới xây
dựng và phát triển từ năm 1991(21), bao gồm 26
câu hỏi với 2 câu đánh giá sức khỏe chung,
SKTC (7 câu), SKTT (6 câu), QHXH (3 câu) và
MTS (8 câu)(20, 21). Mỗi câu hỏi tương ứng với 5
câu trả lời tương đương thang điểm từ 1 đến 5.
CLCS của bệnh nhân THA theo 4 lĩnh vực sức
khỏe sẽ được đánh giá theo thang điểm 100 sau
khi quy đổi từ thang điểm thô. Bốn lĩnh vực
SKTC, SKTT, QHXH và MTS là các biến kết quả.
Biến độc lập được thu thập gồm:
Các đặc điểm dân số xã hội: tuổi tác, giới tính,
học vấn (<cấp 2 và ≥cấp 2), tình trạng đi làm (đi
làm và không đi làm), tình trạng hôn nhân, nơi cư
trú (ấp 1, 2, 3A, 3B: dân cư thưa thớt và ấp 4, 5, ấp
Chợ: dân cư đông đúc), tôn giáo (Phật giáo, không
tôn giáo, tôn giáo khác), hôn nhân (có vợ/chồng và
độc thân/góa/ly dị/ly thân), đối tượng sống chung
(người thân và sống một mình). Kinh tế gia đình
được phân loại theo hộ nghèo (có sổ hộ nghèo
hoặc cận nghèo) và hộ không nghèo. Gia đình có
tiền sử mắc bệnh THA khi có ông/bà/cha/mẹ hay
anh/chị em ruột bị THA.
Tình trạng THA: Thời gian phát hiện bệnh
THA là thời gian của cá nhân được chẩn đoán bị
THA cho đến thời điểm tiến hành nghiên cứu
(<1 năm, từ 1 đến dưới 5 năm, từ 5 đến dưới 10
năm và từ 10 năm trở lên). Tuân thủ điều trị là
khi bệnh nhân tái khám định kỳ theo đúng yêu
cầu của bác sĩ đồng thời nếu được chỉ định dùng
thuốc THA, bệnh nhân có uống thuốc đều đặn
mỗi ngày theo đúng chỉ định và hướng dẫn của
bác sĩ.
Các bệnh kèm theo: Tình trạng dinh dưỡng
gồm 3 giá trị (Suy dinh dưỡng: BMI<18,5; bình
thường: BMI từ 18,5 – 24,99 và thừa cân/béo phì:
BMI≥25). Ngoài ra là các bệnh kèm theo gồm đái
tháo đường, bệnh thận, bệnh tim, khớp, từng bị
tai biến mạch máu não được báo cáo.
Thói quen sinh hoạt: Hút thuốc lá mỗi ngày
(không hút, hút <10 điếu, hút ≥10 điếu). Uống
rượu được tính khi tổng số đơn vị rượu uống
vào trong một 1 lần ≥1 đơn vị chuẩn (1 đơn vị
chuẩn tương đương 10gram Ethanol, tương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 214
đương 330ml bia, 30ml rượu mạnh, 120ml rượu
vang), trong đó bệnh nhân lạm dụng rượu là khi
có ≥5 ngày/tháng uống từ 5 ly chuẩn trở lên đối
với nam hoặc từ 4 ly chuẩn trở lên đối với nữ.
Vận động thể lực (cường độ thấp, trung bình và
cường độ nặng); vận động với cường độ thấp là
khi người bệnh THA không tập thể dục hoặc tập
thể dục <30 phút mỗi ngày, cường độ trung bình
khi bệnh nhân THA tập thể dục (đi bộ, tập
dưỡng sinh) hay đi nhanh, đi lại bằng xe đạp
hoặc mang vác vật nhẹ ≥30 phút/ngày, vận động
với cường độ nặng là khi bệnh nhân vận động,
làm việc nặng nhọc ≥30 phút/ngày (chạy bộ, làm
việc nặng nhọc để mưu sinh như nâng đồ nặng,
cuốc đất, xây dựng).
Trong nghiên cứu, thống kê mô tả bao gồm
tần số, tỉ lệ phần trăm, phạm vi số liệu, trung
bình và độ lệch chuẩn (ĐLC). Phân tích đơn biến
gồm kiểm định t.test độc lập xác định mối liên
quan giữa điểm CLCS bốn lĩnh vực SKTC,
SKTT, QHXH, MTS với các biến số giới tính, học
vấn, tình trạng đi làm, nơi cư trú, tình trạng hôn
nhân, đối tượng sống chung, kinh tế gia đình,
tiền sử gia đình THA, tuân thủ điều trị, các bệnh
kèm theo (đái tháo đường, bệnh thận, bệnh tim,
tai biến mạch máu não, bệnh khớp). Phép kiểm
ANOVA xác định mối liên quan giữa điểm
CLCS bốn lĩnh vực sức khỏe với biến số tôn giáo,
tình trạng dinh dưỡng, hút thuốc lá, uống rượu,
hoạt động thể lực, thể thao, thời gian phát hiện
THA (ngoại trừ mối liên quan giữa điểm CLCS
lĩnh vực QHXH với thời gian phát hiện THA xác
định bằng kiểm phi tham số Kruskal‐Wallis).
Ngoài ra tương quan hồi quy, hồi quy tuyến tính
đơn biến được sử dụng nhằm xác định mối
tương quan giữa điểm CLCS bốn lĩnh vực sức
khỏe với biến số tuổi. Sau khi phân tích đơn
biến, các biến số khi xét mối liên quan trong
phân tích đơn biến có giá trị p≤0,2 được tiếp tục
đưa vào phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
theo phương pháp backward (phương pháp loại
bỏ từng bước)nhằm xác định các yếu tố dự báo
liên quan thực sự đến điểm CLCS các lĩnh vực
SKTC, SKTT, QHXH và MTS của bệnh nhân
THA với ngưỡng ý nghĩa p<0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dân số xã hội
Tuổi trung bình của đối tượng tham gia
nghiên cứu là 66 tuổi (ĐLC=9,9); 59% là nữ giới;
60% có trình độ học vấn dưới cấp 2; 36,7% bệnh
nhân THA hiện còn đi làm; 54,5% hiện sinh sống
tại khu vực dân cư thua thớt (ấp 1, ấp 2, 3A và
3B); 45,8% bệnh nhân THA theo đạo Phật, 29,8%
đã góa vợ/chồng, ly dị/ly thân hoặc còn độc
thân; 4% bệnh nhân hiện đang sống một mình;
4,7% bệnh nhân có gia đình thuộc diện hộ nghèo
của xã.
Tình trạng THA
Trong 275 bệnh nhân THA, 41,4% bệnh nhân
có tiền sử gia đình THA, hầu hết người tham gia
nghiên cứu (73,5%) đã được chẩn đoán phát hiện
bệnh từ 1 năm trở lên; 53,5% bệnh nhân tuân thủ
điều trị THA theo đúng hướng dẫn và chỉ định
của bác sĩ.
Các bệnh kèm theo
Thừa cân/béo phì (21,5%), bệnh về tim (15,3%),
bệnh về khớp (14,2%), suy dinh dưỡng (12%), Đái
tháo đường (10,5%) là các bệnh kèm theo phổ biến
ở đối tượng nghiên cứu; số ít bệnh nhân THA còn
lại mắc kèm bệnh về thận (2,2%), hoặc từng bị tai
biến mạch máu não (MMN) (1,5%).
Thói quen sinh hoạt
Tỉ lệ bệnh nhân THA hút thuốc lá mỗi ngày
chiếm 24,4%, trong đó 13,1% bệnh nhân hút
thuốc mỗi ngày từ 10 điếu trở lên. Có 23,6%
bệnh nhân THA uống rượu/bia, trong đó 8,3%
bệnh nhân có biểu hiện lạm dụng rượu/bia. Hơn
phân nửa người bệnh THA (52,7%) vận động thể
lực và tham gia luyện tập thể dục, thể thao đều
đặn ít nhất 30 phút mỗi ngày.
Điểm trung bình CLCS của bệnh nhân THA
Điểm trung bình CLCS bốn lĩnh vực sức
khỏe của bệnh nhân THA dao động từ 49,42
đến 64,12 điểm. Trong đó, điểm TB CLCS lĩnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 215
vực QHXH là cao nhất (64,12 ± 14,06), tiếp theo
là điểm trung bình CLCS lĩnh vực MTS (59,52
± 10,39), điểm trung bình CLCS lĩnh vực SKTC
(54,73 ± 14,94), thấp nhất là điểm trung bình
CLCS lĩnh vực SKTT (49,42 ± 12,73).
Bảng 1: Điểm trung bình CLCS của bệnh nhân
THA (n=275)
Lĩnh vực GTNN GTLN TB ĐLC
Sức khỏe thể chất 19 88 54,73 ± 14,94
Sức khỏe tinh thần 13 81 49,42 ± 12,73
Quan hệ xã hội 19 100 64,12 ± 14,06
Môi trường sống 25 88 59,52 ± 10,39
Các yếu tố dự báo liên quan đến CLCS bệnh nhân THA
Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến CLCS bệnh nhân THA sau khi phân tích đa biến(n=275)
Nội dung
Điểm CLCS
SKTC SKTT QHXH MTS
Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95%
Tuổi -0,32*** -0,48-(-0,17) -0,27*** -0,41-(-0,12)
Giới tính
Nữ 1,00
Nam 4,24** 1,25-7,24
Học vấn
< Cấp 2 1,00
≥ Cấp 2 2,63* 0,27-4,99
Tình trạng đi làm
Không đi làm 1,00
Đi làm -2,92 -6,03-0,19
Nơi cư trú
Ấp 1, 2, 3A, 3B
Ấp 4, 5, ấp Chợ 5,26*** 2,28-8,23
Tình trạng hôn nhân
Độc thân, goá, ly dị/ly thân 1,00 1,00 1,00 1,00
Có vợ/chồng 4,82** 1,60-8,05 3,39* 0,18-6,59 6,59*** 2,82-10,36 4,82*** 2,09-7,55
Tuân thủ điều trị
Không 1,00 1,00 1,00
Có 7,70*** 4,45-10,95 6,70*** 3,70-9,70 3,89** 1,09-6,70
Tình trạng dinh dưỡng
Bình thường 1,00 1,00
Suy dinh dưỡng -4,63* -9,02-(-0,22) -5,19* -9,25-(-1,13)
Thừa cân/ béo phì -0,30 -3,84-3,24 -2,74 -5,97-0,49
Bệnh đái tháo đường
Không 1,00 1,00
Có -8,38*** -13-(-3,24) -5,45* -9,66-(-1,23)
Bệnh thận
Không 1,00
Có -10,27* -19,97-(-0,56)
Bệnh tim
Không 1,00
Có -6,19** -10,19-(-2,20)
Từng bị tai biến MMN
Không 1,00
Có -17,60** -29,41-(-5,78)
Bệnh về khớp
Không 1,00
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 216
Nội dung
Điểm CLCS
SKTC SKTT QHXH MTS
Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95% Hệ số KTC 95%
Có -7,99*** -12,04-(-3,94)
Vận động thể lực
Cường độ trung bình 1,00
Cường độ thấp -5,07** -8,46-(-1,16) -4,75** -7,86-(-1,64) -5,26** -8,54-(-1,98) -3,47* -6,39-(-0,56)
Cường độ nặng -6,05 -12,61-0,51 -3,57 -9,74-2,61 -7,23 -15,35-0,88 -2,98 -8,87-2,88
* p≤0,05; ** p≤0,01; *** p≤0,001 (Hồi quy tuyến tính đa biến)
Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
cho thấy tình trạng hôn nhân và vận động thể lực
có liên quan đến CLCS ở cả 4 lĩnh vực sức khỏe
(p<0,05). Trong đó, bệnh nhân THA đang có
vợ/chồng có điểm CLCS các lĩnh vực sức khỏe
đều cao hơn so với nhómbệnh nhânđộc thân, goá,
ly dị/ly thân; bệnh nhân THA vận động thể lực ở
mức độ trung bình có điểm CLCS các lĩnh vực
sức khỏe đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
bệnh nhân vận động thể lực ở cường độ thấp.
Tuân thủ điều trị có liên quan đến CLCS lĩnh
vực SKTC, SKTT, MTS (p<0,05). Những bệnh
nhân THA tuân thủ điều trị theo đúng hướng
dẫn và chỉ định của bác sĩ có điểm CLCS lĩnh vực
SKTC, SKTT, MTS đều cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với bệnh nhân không tuân thủ điều trị.
Tuổi, tình trạng dinh dưỡng, mắc kèm theo
bệnh Đái tháo đường có liên quan đến CLCS
lĩnh vực SKTC, SKTT (p<0,05). Trong đó, bệnh
nhân THA tuổi càng cao có điểm CLCS ở lĩnh
vực SKTC, SKTT càng giảm. Bệnh nhân THA bị
suy dinh dưỡng hoặc mắc kèm theo bệnh Đái
tháo đường có điểm CLCS lĩnh vực SKTC, SKTT
thấp hơn so với nhóm còn lại.
Giới tính có liên quan đến CLCS lĩnh vực
SKTT của bệnh nhân THA (p<0,05), trong đó
nam giới có điểm CLCS lĩnh vực SKTT cao hơn
nữ giới.
Học vấn có liên quan đến CLCS lĩnh vực
MTS (p<0,05), trong đó bệnh nhân THA có học
vấn từ cấp 2 trở lên có điểm CLCS lĩnh vực MTS
cao hơn người bệnh THA có trình độ học vấn
dưới cấp 2.
Nơi cư trú có liên quan đến CLCS lĩnh vực
QHXH (p<0,05), bệnh nhân THA cư trú tại khu
vực dân cư đông đúc (ấp 4, 5, ấp Chợ) có điểm
CLCS lĩnh vực QHXH cao hơn bệnh nhân THA
cư trú tại ấp 1, 2, 3A, 3B.
Bệnh kèm theo gồm các bênh về thận, tim,
tai biến mạch máu não, các bệnh về khớp có liên
quan đến CLCS lĩnh vực SKTC của bệnh nhân
THA (p<0,05). Người bệnh THA mắc kèm theo
một trong các bệnh về thận, tim, tai biến mạch
máu não, các bệnh về khớp có điểm CLCS lĩnh
vực SKTC đều thấp hơn so với nhóm không mắc
kèm một trong các bệnh trên.
BÀN LUẬN
Điểm TB CLCS lĩnh vực SKTC, SKTT,
QHXH và MTS của người bệnh THA từ 50 tuổi
trở lên cư trú tại xã Phước Lợi dao động từ 49,42
đến 64,12 điểm, cao hơn kết quả nghiên cứu
được thực hiện tại Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh
vào năm 2012(6). Do nghiên cứu tại Hóc Môn
chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu nhỏ nên nghiên
cứu của chúng tôi cho kết quả đáng tin cậy hơn.
Tuy nhiên CLSC của bệnh nhân THA tại Nam
Brazil là cao hơn (từ 59,7 đến 72,3 điểm)(9). Điều
này có thể do độ tuổi bệnh nhân THA trong
nghiên cứu ở Nam Brazil thấp hơn; đồng thời
đây là nghiên cứu chọn mẫu thuận tiện tất cả
bệnh nhân đang dùng ít nhất một loại thuốc
kiểm soát THA, tham gia các đơn vị chăm sóc
sức khỏe ban đầu trong thời gian diễn ra nghiên
cứu và được hỗ trợ về chăm sóc y tế; trong khi
nghiên cứu của chúng tôi chọn mẫu ngẫu nhiên
và thực hiện tại cộng đồng trên cả bệnh nhân
đang điều trị và không điều trị THA. Ngoài ra,
điểm TB CLCS lĩnh vực QHXH của người THA
từ 50 tuổi trở lên tại xã Phước Lợi là cao nhất và
phù hợp với kết quả nghiên cứu tại phía Nam
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 217
Brazil. Điều này phản ánh đặc điểm văn hoá của
người dân Việt Nam vốn thân thiện, luôn đề cao
mối quan hệ hàng xóm láng giềng, bạn bè, người
thân và gia đình; đặc biệt ở những người lớn
tuổi.Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy người THA từ 50 tuổi trở lên có điểm trung
bình CLCS ở lĩnh vực SKTT là thấp nhất.
Kết quả phân tích đa biến phát hiện CLCS
bệnh nhân THA giảm dần theo tuổi ở lĩnh vực
SKTC và SKTT. Kết quả này tương đồng với kết
quả một nghiên cứu được thực hiện tại Việt
Nam trên người dân từ 50 tuổi trở lên(4), đồng
thời phù hợp với kết quả các nghiên cứu được
thực hiện tại Ba Lan(8, 10). Điều này phản ánh đặc
điểm tâm sinh lý con người, tuổi càng cao sức
khỏe thể chất và tinh thần càng giảm.
Nhất quán với kết quả các nghiên cứu thực
hiện tại Việt Nam(4), Brazil(1), và nghiên cứu
thực hiện tại Ba Lan(8, 10), nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy điểm TB CLCS của nam giới cao
hơn nữ giới ở tất cả các lĩnh vực sức khỏe.
Điều này phù hợp, vì tại các nước Á Đông cũng
như Việt Nam và một vài quốc gia trên thế giới
vẫn còn tồn tại sự phân biệt giới tính; đặc biệt ở
nông thôn, đa phần người phụ nữ sống cuộc
sống cam chịu, họ thường phải đảm nhiệm đồng
thời nhiều công việc trong khi ít có tiếng nói
trong gia đình.
Trình độ học vấn cao là yếu tố dự báo tích
cực liên quan đến tình trạng sức khỏe và CLCS
của người cao tuổi(4). Nghiên cứu của chúng tôi
cũng cho thấy học vấn cao hơn tác động tích cực
lên CLCS của người THA, tuy nhiên chỉ ở lĩnh
vực MTS. Điều này khẳng định hiệu quả của
công tác giáo dục, kiến thức và sự nhận thức về
MTS cũng như điều kiện sống của người có trình
độ học vấn cao hơn có thể tốt hơn nên CLCS lĩnh
vực MTS của họ từ đó cũng cao hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân
THA cư trú tại khu vực dân cư đông đúc có
điểm CLCS lĩnh vực QHXH cao hơn bệnh nhân
cư trú tại khu vực dân cư thưa thớt. Phát hiện
này phù hợp với đặc điểm thực tế địa phương xã
Phước Lợi vốn là một xã thuần nông nhưng hiện
nay theo xu hướng phát triển kinh tế ‐ văn hóa
xã hội chung của đất nước, nền kinh tế ‐ văn hóa
của xã đã dần thay đổi theo hướng ngày càng
hiện đại hóa và phát triển. Trong đó, các ấp 4, 5
và ấp Chợ tập trung đông đúc dân cư, gia đình,
hàng xóm láng giềng, bạn bè gần gũi chia sẻ
giúp đỡ lẫn nhau.
Bệnh nhân THA đang có vợ/chồng có điểm
CLCS tất cả các lĩnh vực sức khỏe đều cao hơn
đáng kể so với nhóm góa vợ/chồng, ly dị/ly thân,
độc thân. Điều này hợp lý vì đối với bệnh nhân
THA lớn tuổi, việc được quan tâm chăm sóc,
động viên chia sẻ từ bạn đời là yếu tố vô cùng
quan trọng và có lợi, điều này có thể tác động
tích cực lên CLCS của bệnh nhân về mọi mặt.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu
trước đó tại Việt Nam(4).
Nhóm bệnh nhân THA vận động thể lực với
cường độ trung bình được phát hiện có điểm
trung bình CLCS tất cả các lĩnh vực đều cao hơn
đáng kể so với nhóm bệnh nhân vận động thể
lực, thể thao với cường độ thấp. Đồng nhất với
nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ(16) và phù hợp
với đặc điểm sức khỏe thực tế của người THA,
vận động thể lực và luyện tập thể thao ở mức độ
vừa phải (ít nhất 30 phút mỗi ngày) sẽ góp phần
tích cực trong việc kiểm soát THA, giúp bệnh
nhân cải thiện sức khỏe và nâng cao CLCS về
mọi mặt.
Nghiên cứu của chúng tôi đồng thời phát
hiện bệnh nhân THA tuân thủ điều trị theo
hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ có điểm CLCS
lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS cao hơn so với
bệnh nhân không tuân thủ điều trị. Kết quả này
là phù hợp vì bệnh nhân THA khi tuân thủ tái
khám và uống thuốc đều đặn theo hướng dẫn và
chỉ định của bác sĩ có thể dần đưa giá trị HA về
giới hạn bình thường từ đó kiểm soát được chỉ
số huyết áp. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi không đồng nhất với kết quả nghiên
cứu được thực hiện tại Nam Brazil(9). Điều này
có thể do sự khác nhau về định nghĩa tuân thủ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 218
điều trị, nghiên cứu tại Nam Brazil đánh giá tình
trạng kiểm soát THA và độ THA của bệnh nhân
ngay tại thời điểm nghiên cứu, trong khi CLCS
bệnh nhân THA được đo lường bởi thang đo thu
thập thông tin đánh giá CLCS của bệnh nhân
trong vòng 1 tháng tính từ thời điểm nghiên cứu
trở về trước.
Bệnh nhân THA suy dinh dưỡng trong
nghiên cứu của chúng tôi có điểm CLCS lĩnh vực
SKTC và SKTT đều thấp hơn so với bệnh nhân
THA có tình trạng dinh dưỡng bình thường.
Điều này phù hợp với đặc điểm sức khỏe và tinh
thần của người bệnh suy dinh dưỡng; thông
thường, người suy dinh dưỡng có sức khỏe thể
chất yếu, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức
khỏe tinh thần.Phát hiện của chúng tôi đồng
nhất với kết quả nghiên cứu của tác giả Solah
Rasheed và cộng sự(17)và kết quả nghiên cứu
được thực hiện tại Mỹ(11).
Nhất quán với các nghiên cứu trên thế giới
phát hiện CLCS bệnh nhân THA bị ảnh hưởng
tiêu cực nếu bệnh nhân đồng thời mắc thêm
bệnh mãn tính khác(8, 9, 10), kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng ghi nhận việc mắc thêm một
trong các bệnh đái tháo đường, bệnh thận, bệnh
tim, bệnh khớp hoặc từng bị tai biến MMN đều
ảnh hưởng tiêu cực đến điểm CLCS lĩnh vực
SKTC của người bệnh THA. Một trong những
hạn chế của nghiên cứu ở phần này là chỉ khảo
sát CLCS bệnh nhân THA khi người bệnh mắc
kèm theo các bệnh về thận hoặc về tim nói
chung mà chưa đánh giá được CLCS bệnh nhân
THA theo từng mức độ nặng nhẹ các loại bệnh
đối tượng nghiên cứu mắc phải. Việc chỉ xác
định mối liên hệ giữa điểm CLCS của bệnh nhân
THA với một số bệnh nhất định (đái tháo
đường, bệnh thận, bệnh tim, bệnh về khớp, tai
biến mạch máu não) cũng là một trong những
hạn chế của đề tài, vì theo y văn còn nhiều bệnh
khác ảnh hưởng tiêu cực đến CLCS người bệnh
THA đã được ghi nhận(10).
Nghiên cứu được thiết kế là nghiên cứu cắt
ngang vì vậy không thể phát biểu về mối liên hệ
nhân quả giữa các biến số, đây là một hạn chế
của đề tài.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
CLCS bệnh nhân THA đạt mức trung bình ở
hầu hết các lĩnh vực sức khỏe, ngoại trừ khá
thấp ở lĩnh vực SKTT. Do đó cần đẩy mạnh vai
trò của các câu lạc bộ người lớn tuổi, các tổ chức
xã hội, tổ chức y tế trong việc giúp đỡ, quan tâm
động viên tinh thần bệnh nhân THA là người
lớn tuổi.
Tình trạng hôn nhân và hoạt động thể chất là
hai yếu tố quan trọng tác động lên CLCS ở cả 4
lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH, MTS. Tuân thủ
điều trị tác động tích cực lên CLCS ở lĩnh vực
SKTC, SKTT và MTS. Tuổi lớn hơn có liên quan
đến CLCS thấp hơn ở lĩnh vực SKTC và SKTT.
Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng và mắc kèm theo
bệnh Đái tháo đường ảnh hưởng tiêu cực đến
CLCS lĩnh vực SKTC và SKTT. Phụ nữ bị THA
đánh giá CLCS lĩnh vực SKTT thấp hơn so với
nam giới. Bệnh nhân THA có trình độ học vấn
cao hơn có CLCS lĩnh vực MTS cũng cao hơn.
Nơi cư trú có liên quan đến CLCS ở lĩnh vực
QHXH. Ngoài ra, mắc kèm theo bệnh mạn tính
ở bệnh nhân THA là yếu tố quan trọng khác ảnh
hưởng đến CLCS ở lĩnh vực SKTC. Theo đó,
chương trình can thiệp với mục tiêu cải thiện
CLCS bệnh nhân THA cần thiết được thực hiện.
Trong đó, chú trọng quan tâm đến đối tượng là
bệnh nhân THA lớn tuổi, bệnh nhân THA là nữ
giới, bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, bệnh
nhân cư trú tại khu vực dân cư thư thớt, bệnh
nhân sống độc thân, góa, ly dị/ly thân, người
THA bị suy dinh dưỡng hoặc mắc kèm theo các
bệnh mãn tính khác. Ngoài ra, khuyến khích
động viên bệnh nhân THA thực hiện tốt việc tái
khám định kỳ cũng như uống thuốc đều đặn
theo đúng hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ kết
hợp với vận động thể lực, thể thao đều đặn ít
nhất 30 phút mỗi ngày là việc làm cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carvalho MA, Silva IB, Ramos SB, Coelho LF, Goncalves ID,
Figueiredo NJA (2012). Quality of life of hypertensive patients
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 219
and comparison of two instruments of HRQOL measure.
Hypertension. 56 (5): 67‐89.
2. Chu Hồng Thắng (2008). Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng
huyết áp và rối loạn chuyển hóa ở người tăng huyết áp tại xã
Hóa Thượng huyện Đồng Hỷ ‐ tỉnh Thái Nguyên. Luận văn
thạc sỹ Y học. Trường Đại học Y Dược ‐ Đại học Thái Nguyên.
Tr.36‐41.
3. Fields LE, Burt VL, Cutler JA, Hughes J, Roccella EJ, Sorlie P
(2004). The burden of adult hypertension in the United States
1999 to 2000: a rising tide. Hypertension. 44 (4): 398‐404.
4. Hoang VM, Peter B, Nguyen TKC, Stig W (2010). Patterns of
health status and quality of life among older people in rural
Viet Nam. Global Health Action. Vol 3.23‐65
5. Hodgson TA, Cai L (2001). Medical care expenditures for
hypertension. its complications. and its comorbidities.
Medical care. 39 (6): 599‐615.
6. Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên, Tô Gia Quyền, Đỗ Thị
Thu Trang, Nguyễn Thị Thu Sương, Lê Anh Tuấn, Mai Chí
Công (2012). Độ tin cậy và tính giá trị của WHOQOL‐BREF ở
người lớn tuổi có huyết áp bình thường và huyết áp cao. Y
Học TP. Hồ Chí Minh. 16(1)356‐364.
7. Kearney PM, Whelton M, Reynolds K, Muntner P, Whelton
PK, He J (2005). Global burden of hypertension: analysis of
worldwide data. Lancet. 365 (9455): 217‐23.
8. Klocek M, Kawecka‐Jaszcz K (2003). Quality of life in patients
with arterial hypertension. Part I: The effect of socio‐
demographic factors. Przegl Lek. 60.92‐100.
9. Melchiors AC, Correr CJ, Pontarolo R, Santos FO, Paulae SRA
(2010). Quality of life in hypertensive patients and concurrent
validity of Minichal‐Brazil. Arquivos brasileiros de
cardiologia. 94 (3): 337‐44.
10. Monika Z, Aleksander O, Adam E, Jerzy C (2012).
Comorbidities and the quality of life in hypertensive patients.
Original article. 122(7‐8): 333‐340.
11. Neva LC, Alice P (2003). The Influence of Protein‐Calorie
Malnutrition on Quality of Life in Nursing Homes. J Gerontol
A Biol Sci Med Sci. 58(2): 159‐64.
12. Nguyễn Lân Việt (2011). Tăng huyết áp ‐ Vấn đề đáng báo
động (Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống tăng
huyết áp). Viện Tim Mạch ‐ Bệnh viện bạch Mai. http:
//huyetap.vn/news/vn/tin‐tuc‐su‐kien/tin‐noi‐bat/danh‐sach‐
21‐bai‐phat‐thanh‐cua‐du‐an.html. Truy cập ngày 4/6/2012.
13. Nguyễn Thị Phương Lan (2010).Tỷ lệ tăng huyết áp và các
hành vi nguy cơ tăng huyết áp ở người từ 25‐64 tuổi tại huyện
Củ Chi – TP. Hồ Chí Minh. Luận án chuyên khoa cấp II. Đại
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tr.44‐48.
14. Nguyễn Văn Phúc (2011). Tỷ lệ hiện mắc tăng huyết áp và các
yếu tố nguy cơ ở người lớn 25‐64 tuổi tại quận 12 thành phố
Hồ Chí Minh. Luận án chuyên khoa cấp II. Đại học Y Dược
TP. Hồ Chí Minh. Tr.55‐70.
15. Phạm Mạnh Hùng. Tìm hiểu và kiểm soát tăng huyết áp. Hội
tim mạch học Việt Nam. http:
//vnha.org.vn/tapchi/TimHieuKiemSoatTHA.indd.pdf.
6/5/2012. Truy cập ngày 4/6/2012.
16. Phillips SM, Wójcicki TR, McAuley E (2013). Physical activity
and quality of life in older adults: an 18‐month panel analysis.
Qual Life Res.22(7): 1647‐54.
17. Solah R. Robert TW (March 2013). Malnutrition and quality of
life in older people: A systematic review and meta‐analysis.
Ageing Research Reviews. 12(2): 561‐566.
18. Võ Thị Dễ. Đặng Vạn Phước (2007). Tần suất tăng huyết áp và
các yếu tố nguy cơ ở tỉnh Long An năm 2005. Y Học TP. Hồ
Chí Minh. 11(1)122‐127.
19. Wang R, Zhao Y, He X, Ma X, Yan X, Sun Y, Liu W, Gu Z,
Zhao J, He J (2009). Impact of hypertension on health‐related
quality of life in a population‐based study in Shanghai. China.
Public Health. 123(8)534‐9.
20. WHO (1997). WHOQOL: Measuring quality of life. World
Health Organization. Pp. 67‐89.
21. WHO (2012). WHO Quality of Life‐BREF (WHOQOL‐BREF).
World Health Organization. http:
//www.who.int/substance_abuse/research_tools/whoqolbref/e
n/. Accessed on 8/6/2012
22. WHO ‐ Regional Office for South ‐ East Asia (2011).
Hypertension fact sheet. Department of Sustainable
Development and Healthy Environment.Geneva. Pp 23‐45.
Ngày nhận bài báo: 5/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 12/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_cuoc_song_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_tang_hu.pdf