Một số kiến nghị
Một là, bổ sung người nước ngoài vào
nhóm “người sử dụng đất” tại Điều 5 Luật
Đất đai năm 2013, ghi nhận người nước
ngoài cũng có năng lực pháp luật về đất
đai tại Việt Nam để tạo sự nhất quán trong
quy định về sở hữu nhà ở của người nước
ngoài trong Luật Nhà ở và Luật Đất đai, làm
căn cứ để sửa đổi, bổ sung thông tư về cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất,
thực sự đảm bảo quyền sở hữu nhà ở cho
người nước ngoài.
Hai là, sửa đổi Luật Đất đai năm 2013
theo hướng bổ sung thẩm quyền UBND cấp
huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho người nước ngoài. Theo quy
định của khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai năm
2013, UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
lần đầu cho người Việt Nam định cư nước
ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với đất ở
tại Việt Nam. Vì vậy, việc giao cho UBND
cấp huyện thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất cho người nước
ngoài là hợp lý.
Ba là, nhằm bảo đảm tạo ra sự bình
đẳng trong quy định về quyền sở hữu nhà
ở của người nước ngoài cũng như hạn chế
tình trạng lách luật liên quan đến cách tính
thời hạn sở hữu nhà ở của người nước ngoài,
chúng tôi cho rằng cần quy định thời hạn sở
hữu 50 năm và gia hạn không quá 50 năm
cho từng lần xác lập quyền sở hữu nhà của
người nước ngoài, không phân biệt đó là
người mua nhà đầu tiên hay người thứ mấy
mua lại căn nhà đó.
Ngoài ra, cần bổ sung quy định thời
hạn sở hữu nhà trong trưởng hợp người
nước ngoài cùng đứng tên mua và sở hữu
nhà chung với tổ chức, cá nhân trong nước
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài
là ổn định, lâu dài, giống như trường hợp
thời hạn sở hữu nhà của người nước ngoài
kết hôn với công dân Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế định về sở hữu nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHẾ ĐỊNH VỀ SỞ HỮU NHÀ Ở CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM
Tóm tắt:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những chính sách
quan trọng góp phần tăng khả năng thu hút đầu tư là chế định về
quyền sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Mặc dù Luật
Nhà ở năm 2014 đã có những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho
người nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, nhưng trong
thời gian qua, chế định này đã bộc lộ nhiều điểm chưa phù hợp, cần
phải được tiếp tục hoàn thiện.
Nguyễn Thị Thanh Xuân*
Trần Vang Phủ**
* GV. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ
** GV. Khoa Luật - Đại học Cần Thơ
Abstract
In the trend of integration into the international economics, one
of the important policies that attract the housing investment is the
legal regulations on housing ownership of the foreign organizations
and individuals. Although a number of provision under the Law
on Housing of 2014 define favorable conditions for foreigners to
own houses in Vietnam, but in recent years, these provisions have
revealed several inappropriate points, which need to be reviwed
for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền tài sản, sở hữu nhà,
người nước ngoài
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 09/01/2018
Biên tập : 04/03/2018
Duyệt bài : 06/03/2018
Article Infomation:
Keywords: property rights, housing
ownership, foreigners
Article History:
Received : 09 Jan. 2018
Edited : 04 Mar. 2018
Approved : 06 Mar. 2018
Những năm gần đây, lượng người nước ngoài đến Việt Nam liên tục tăng. Thống kê sơ bộ cho thấy
con số này tăng mạnh trong năm 2016 với
10.012.700 lượt người, trong đó tập trung
chủ yếu từ các quốc gia Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga, Malaysia,
1 Nguồn Tổng cục Thống kê, https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=716, truy cập ngày 15/12/2017.
2 Báo Pháp luật, Hơn 30% lao động nước ngoài ở Việt Nam có quốc tịch Trung Quốc,
dong-nuoc-ngoai-o-viet-nam-co-quoc-tich-tq-709737.html, truy cập 17/12/2017.
Úc, Pháp. Tương tự, số dự án đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam cũng tăng nhanh trong
5 năm gần đây, từ 1.287 năm 2012 lên 2.613
dự án vào năm 20161. Lao động nước ngoài
tại Việt Nam trong hơn 10 năm qua cũng
tăng từ 12.600 người vào năm 2004 lên
83.500 người vào năm 20152. Điều này cho
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 1(377) T1/2019
thấy, nhu cầu đến Việt Nam để thực hiện
hoạt động đầu tư, lao động, học tập và du
lịch của người nước ngoài ngày một tăng.
Hiện nay, “chủ động hội nhập quốc tế, huy
động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài để phát triển nhanh, bền vững”3 chính
là một trong bốn quan điểm phát triển kinh
tế - xã hội đã được đề ra. Bên cạnh việc hoàn
thiện pháp luật về đầu tư và lao động có yếu
tố nước ngoài, pháp luật về nhà ở cho người
nước ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng
trong thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển
thị trường bất động sản và thu hút chuyên
gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học
công nghệ tại Việt Nam.
1. Quyền sở hữu nhà ở của người nước
ngoài tại Việt Nam
Quyền sở hữu là một trong những
quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất của mỗi
công dân. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với
tài sản thuộc sở hữu của mình. Nhà ở là tài
sản, nên sở hữu nhà ở của người nước ngoài
tại Việt Nam phải được xây dựng trên nền
tảng của chế định sở hữu tài sản nói chung.
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã
định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách liệt kê
những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể
các quyền này. Theo đó, “quyền sở hữu bao
gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo
quy định của luật”4. Khoản 2 Điều 8 Luật
Nhà ở năm 2014 cũng quy định các hình
thức tạo lập nhà ở hợp pháp ở Việt Nam như
đầu tư xây dựng nhà, nhận quyền sở hữu nhà
thông qua các giao dịch về nhà ở; tuy nhiên
có sự phân hóa rất rõ về cách thức tạo lập và
xác lập quyền sở hữu nhà ở của cá nhân trong
nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2016, tr. 270.
4 Điều 158 BLDS năm 2015.
5 Khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014
6 Khoản 2 Điều 5 Luật Nhà ở năm 2014.
và người nước ngoài. Cá nhân nước ngoài
chỉ có quyền mua, thuê mua, nhận tặng cho,
nhận thừa kế nhà ở thương mại trong dự án
đầu tư xây dựng nhà ở không thuộc khu vực
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chủ thể này
chỉ có thể nhận chuyển quyền sở hữu nhà
ở từ người khác đối với nhà ở thương mại
trong dự án phát triển nhà ở. Về giao dịch
cũng chỉ giới hạn trong bốn loại giao dịch
mua, thuê mua và thừa kế, tặng cho nhà. Cá
nhân nước ngoài hoàn toàn không có quyền
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để
tự xây dựng nhà ở như người Việt Nam định
cư ở nước ngoài; cũng không được nhận nhà
thông qua tất cả các giao dịch dân sự về nhà
ở như cá nhân trong nước, đơn cử như không
được nhận góp vốn, nhận đổi nhà.
Mặc dù khác nhau về căn cứ xác lập
quyền sở hữu, khác về cách thức tạo lập nhà
ở, nhưng quyền sở hữu nhà ở của người nước
ngoài cũng được pháp luật bảo hộ như công
dân Việt Nam5. Theo đó nhà ở hợp pháp của
cá nhân không bị quốc hữu hóa. Trường hợp
thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng hoặc trong tình trạng
chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng,
chống thiên tai, Nhà nước quyết định trưng
mua, trưng dụng, mua trước nhà ở hoặc
giải tỏa nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân thì Nhà nước có
trách nhiệm bồi thường, hỗ trợ và thực hiện
chính sách tái định cư cho chủ sở hữu nhà ở
theo quy định của pháp luật6.
Như vậy, quyền sở hữu nhà ở của cá
nhân nước ngoài được nhà nước bảo hộ một
cách toàn vẹn, không chủ thể nào có quyền
xâm phạm đến. Điều này có nghĩa là pháp
luật công khai cho người thứ hai biết rằng
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 1(377) T1/2019
một tài sản nào đó đã có chủ và ai là chủ sở
hữu đối với tài sản.
Về bản chất, nội dung quyền sở hữu
nhà ở hình thành trên nền của quyền sở hữu
tài sản, khác chăng là đối tượng của quyền
sở hữu ở đây là bất động sản và là nhà ở.
Quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài
chính là quyền của chủ sở hữu trong việc
thực hiện các quyền sử dụng, quyền chiếm
hữu và quyền định đoạt nhà ở thuộc sở hữu
của mình theo quy định của pháp luật. Như
vậy, cũng giống như chủ sở hữu các tài sản
khác, chủ sở hữu tài sản là nhà ở vẫn có đầy
đủ ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt. Tuy nhiên, trong trường hợp của
người nước ngoài thì quyền đối với nhà ở
của họ bị giới hạn hơn so với công dân Việt
Nam hay người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Cụ thể quyền sở hữu nhà ở của cá
nhân nước ngoài bị hạn chế về thời hạn là
50 năm và bị khống chế số lượng bằng tỷ lệ
căn hộ sở hữu trong một tòa nhà chung cư.
2. Điều kiện được sở hữu nhà ở và hình
thức sở hữu nhà ở tại Việt Nam của cá
nhân nước ngoài
Trước khi có Luật Nhà ở năm 2014,
Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 ngày
03/6/2008 của Quốc hội đã thí điểm cho tổ
chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu
nhà ở tại Việt Nam. Đây là văn bản đầu tiên
điều chỉnh chi tiết vấn đề người nước ngoài
được sở hữu nhà ở nhưng chỉ với loại nhà
là căn hộ chung cư trong dự án phát triển
nhà ở thương mại. Nghị quyết cũng chỉ giới
hạn đối tượng được thí điểm mua nhà ở gồm
5 nhóm: có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
hoặc được doanh nghiệp đang hoạt động
tại Việt Nam thuê giữ chức danh quản lý
7 Khoản 1,2,3,4 Điều 2 Nghị quyết số 19/2008/NQ-QH12 ngày 03/62008 của Quốc hội về việc thí điểm cho tổ chức, cá
nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam (hết hiệu lực).
8 Điểm a Khoản 1 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014.
9 Điểm c Khoản 1 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014.
trong doanh nghiệp; có công đóng góp cho
Việt Nam (được Chủ tịch nước tặng huân,
huy chương, có đóng góp đặc biệt cho Việt
Nam); đang làm việc trong lĩnh vực kinh tế
- xã hội, có trình độ đại học trở lên; người
có kỹ năng đặc biệt mà Việt Nam có nhu
cầu; kết hôn với công dân Việt Nam7. Điều
kiện để được mua và sở hữu nhà là phải có
thẻ thường trú hoặc thẻ tạm trú hoặc giấy tờ
chứng nhận được phép cư trú tại Việt Nam ít
nhất 12 tháng. Có thể thấy, pháp luật về nhà
ở giai đoạn này đã mở ra cho người nước
ngoài cơ hội sở hữu nhà ở tại Việt Nam
nhưng vẫn rất khắt khe về đối tượng và điều
kiện được sở hữu nhà.
Luật Nhà ở năm 2014 đã quy định
đối tượng và điều kiện được sở hữu nhà ở
của cá nhân nước ngoài gồm: cá nhân nước
ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án
tại Việt Nam8 và cá nhân nước ngoài được
phép nhập cảnh vào Việt Nam9. Theo quy
định của Luật Kinh doanh bất động sản năm
2014, điều kiện chủ thể thực hiện dự án nhà
ở là phải thành lập doanh nghiệp. Khi đó có
sự chuyển hóa chủ thể từ cá nhân sang tổ
chức. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ
phân tích vấn đề sở hữu nhà ở của cá nhân
nước ngoài không đầu tư, thực hiện dự án
nhà ở.
Như vậy, đối với cá nhân nước ngoài,
pháp luật hiện hành chỉ cần một điều kiện
duy nhất là được phép nhập cảnh vào Việt
Nam, bỏ điều kiện về thời hạn cư trú từ 01
năm trở lên. Bên cạnh đó, xét về đối tượng
của quyền sở hữu nhà ở của người nước
ngoài hiện nay cũng được mở rộng hơn so
với quy định tại Nghị quyết số 19/2008/NQ-
QH12. Người nước ngoài vẫn chỉ được mua
nhà ở thương mại trong dự án nhưng được
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 1(377) T1/2019
mở rộng thêm cả nhà ở riêng lẻ10.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 159
Luật Nhà ở năm 2014, cá nhân nước ngoài
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua
các hình thức mua, thuê mua, nhận tặng cho,
nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm
căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự
án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo
đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của
Chính phủ Việt Nam.
3. Số lượng nhà ở cá nhân nước ngoài
được phép sở hữu tại Việt Nam
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,
thu nhập bình quân đầu người một tháng tính
chung cả nước năm 2014 là 2.637.000 đồng,
tính sơ bộ năm 2016 là 3.049.000 đồng.
Chi tiêu bình quân đầu người một tháng
tính chung cả nước năm 2014 là 1.888.000
đồng, năm 2016 là 2.157.000 đồng. Như
vậy, trung bình một tháng, một người có thể
tích lũy được 749.000 đồng vào năm 2014
và 892.000 đồng vào năm 201611. Trong
khi đó, theo một nghiên cứu của Ngân hàng
Thế giới, nếu tỷ suất lợi nhuận xây dựng
của các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở
là 10-11% thì giá nhà ở thương mại sẽ là
khoảng 12 triệu đồng/m212. Cuối năm 2014,
Việt Nam có khoảng 15,8 triệu người làm
việc tại khu vực đô thị. Trong số các công
nhân công nghiệp, khoảng 78% phải đi thuê
nhà13 và nhu cầu nhà ở đối với họ là rất lớn.
Khoảng cách giữa mức tích lũy trung bình
với giá nhà ở thương mại là rất xa, đồng
nghĩa với cơ hội sở hữu nhà ở của bộ phận
người lao động này rất thấp. Việc Luật Nhà
ở năm 2014 với quy định cho phép người
nước ngoài mua và sở hữu nhà ở thuận lợi
hơn trước đã làm dấy lên nhiều ý kiến quan
10 Điểm b Khoản 2 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014.
11 Nguồn tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
12 Ngân hàng Thế giới, Nhà ở giá hợp lý ở Việt Nam, tháng 10/2015, tr. 25.
13 Ngân hàng Thế giới, Nhà ở giá hợp lý ở Việt Nam, tháng 10/2015, tr. 29.
14 Điểm a Khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014.
ngại chính sách mới của Nhà nước có thể
ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng; hoặc
có nguy cơ người nước ngoài lũng đoạn thị
trường nhà đất Việt Nam, kéo giá nhà vượt
xa hơn nữa khỏi tầm tay của người dân lao
động, cho nên đưa ra hạn mức sở hữu nhà
ở đối với người nước ngoài tại Việt Nam là
rất cần thiết. Luật Nhà ở năm 2014 ra đời đã
có những quy định cụ thể về số lượng nhà ở
mà cá nhân nước ngoài được phép sở hữu tại
Việt Nam.
Cá nhân và tổ chức nước ngoài chỉ
được phép sở hữu một số lượng nhà ở nhất
định. Số lượng và cách thức xác định số
lượng nhà ở trong dự án đầu tư xây dựng
nhà ở tại Việt Nam mà tổ chức, cá nhân nước
ngoài được sở hữu được quy định chi tiết tại
Luật Nhà ở năm 2014, Nghị định số 99/2015/
NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Nhà ở năm 2014 và Thông
tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của
Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số
nội dung của Luật Nhà ở.
Cá nhân nước ngoài chỉ được mua,
thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở
hữu không quá 30% số lượng căn hộ trong
một tòa nhà chung cư; nếu là nhà ở riêng lẻ
bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề thì trên
một khu vực có số dân tương đương một đơn
vị hành chính cấp phường chỉ được mua,
thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế và sở
hữu không quá 250 căn nhà14. Trường hợp
trên một địa bàn có số dân tương đương một
đơn vị hành chính cấp phường mà có nhiều
tòa nhà chung cư để bán, cho thuê mua thì tổ
chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu
không quá 30% số căn hộ của mỗi tòa nhà
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 1(377) T1/2019
chung cư và không quá 30% tổng số căn hộ
của tất cả các tòa nhà chung cư này15.
Đối với một tòa nhà chung cư (kể cả
nhà chung cư có mục đích sử dụng hỗn hợp)
thì tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở
hữu không quá 30% tổng số căn hộ có mục
đích để ở của tòa nhà đó. Trường hợp tòa nhà
chung cư có nhiều đơn nguyên hoặc nhiều
khối nhà cùng chung khối đế thì tổ chức, cá
nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không quá
30% tổng số căn hộ có mục đích để ở của
mỗi đơn nguyên, mỗi khối nhà16.
4. Thời hạn sở hữu nhà ở của cá nhân
nước ngoài tại Việt Nam
Thời hạn sở hữu nhà
Bên cạnh số lượng nhà ở mà cá nhân
nước ngoài được phép sở hữu, thời hạn sở
hữu nhà ở cũng là một trong những quy định
giới hạn quyền sở hữu của người nước ngoài
tại Việt Nam về mặt thời gian. Trong khi tổ
chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ổn
định lâu dài, không hạn chế số năm; thì cá
nhân nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở theo
thỏa thuận trong các giao dịch hợp đồng mua
bán, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế
nhà ở nhưng tối đa không quá 50 năm, kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận. Khi hết
hạn, nếu chủ sở hữu có nhu cầu thì có thể
được Nhà nước xem xét, gia hạn thêm theo
quy định của Chính phủ; thời hạn sở hữu
nhà ở phải được ghi rõ trong Giấy chứng
nhận17. Trường hợp cá nhân nước ngoài kết
hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với
15 Khoản 3 Điều 76 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Nhà ở năm 2014.
16 Khoản 1 Điều 29 Thông tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung
của Luật Nhà ở và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP.
17 Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Nhà ở năm 2014.
18 Điểm c Khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014.
19 Điểm đ Khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014.
20 Khoản 4 Điều 7 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Nhà ở năm 2014.
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì
được sở hữu nhà ở ổn định, lâu dài và có các
quyền của chủ sở hữu nhà ở như công dân
Việt Nam18. Trước khi hết hạn sở hữu nhà ở
theo quy định của Luật Nhà ở, chủ sở hữu
có thể tặng cho hoặc bán nhà ở này cho các
đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam; nếu quá thời hạn được sở hữu nhà
ở mà chủ sở hữu không thực hiện bán, tặng
cho thì nhà ở đó thuộc sở hữu nhà nước19.
Trường hợp bán hoặc tặng cho nhà
ở cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong
nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thì bên mua, bên nhận tặng cho được sở hữu
nhà ở ổn định lâu dài.
Trường hợp bán hoặc tặng cho nhà ở
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện
được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì bên mua,
bên nhận tặng cho chỉ được sở hữu nhà ở
trong thời hạn còn lại; khi hết thời hạn sở
hữu còn lại mà chủ sở hữu có nhu cầu gia
hạn thêm thì được Nhà nước xem xét, gia
hạn thêm theo quy định của Chính phủ; Bên
bán, bên tặng cho nhà ở phải nộp thuế và các
nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước Việt Nam
theo quy định của pháp luật Việt Nam20.
Gia hạn thời hạn sở hữu nhà ở
Trước khi hết hạn sở hữu nhà ở 03
tháng, nếu chủ sở hữu có nhu cầu gia hạn
thêm thì phải có đơn ghi rõ thời hạn đề nghị
gia hạn thêm kèm theo bản sao có chứng
thực Giấy chứng nhận đối với nhà ở và gửi
cho Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh nơi
có nhà ở đó xem xét, giải quyết.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 1(377) T1/2019
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
nhận được đơn đề nghị của chủ sở hữu,
UBND cấp tỉnh xem xét và có văn bản đồng
ý gia hạn một lần thời hạn sở hữu nhà ở theo
đề nghị của chủ sở hữu nhưng tối đa không
quá 50 năm, kể từ khi hết hạn sở hữu nhà ở
lần đầu ghi trên Giấy chứng nhận;
Căn cứ văn bản đồng ý gia hạn của
UBND cấp tỉnh, cơ quan có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận có trách nhiệm ghi gia hạn
trên Giấy chứng nhận; cơ quan cấp Giấy
chứng nhận phải sao một bản Giấy chứng
nhận và chuyển cho Sở Xây dựng để theo dõi.
Trường hợp khi hết hạn sở hữu lần
đầu mà cá nhân nước ngoài bị cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam quyết định buộc
xuất cảnh hoặc buộc chấm dứt hoạt động tại
Việt Nam thì không được gia hạn thêm thời
hạn sở hữu theo quy định của pháp luật Việt
Nam; nhà ở của đối tượng này được xử lý
theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Nghị
định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015
của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở
năm 2014.
5. Một số bất cập trong quy định của pháp
luật về quyền sở hữu nhà ở của người
nước ngoài tại Việt Nam
Sau một thời gian tổ chức thực hiện
quy định của pháp luật về quyền sở hữu nhà
của người nước ngoài tại Việt Nam đã cho
thấy một số bất cập sau đây:
Một là, sự không thống nhất giữa Luật
Nhà ở năm 2014 và Luật Đất đai năm 2013
trong quy định về quyền sử dụng đất của
cá nhân nước ngoài tại Việt Nam gây ảnh
hưởng đến việc cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà cho người nước ngoài.
Theo quy định của Luật Đất đai năm
2003, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt
21 Khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
22 Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP.
Nam theo pháp luật về đầu tư được Nhà
nước Việt Nam cho thuê đất là người sử dụng
đất. Nghị định số 51/2009/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Nghị quyết số 19/2008/QH12
cũng quy định cá nhân nước ngoài sở hữu
căn hộ chung cư tại Việt Nam có quyền sử
dụng phần diện tích đất sử dụng chung của
nhà chung cư đó theo hình thức sử dụng đất
thuê đã trả tiền thuê đất một lần cho cả thời
gian thuê. Như vậy, theo quy định này thì cá
nhân nước ngoài vẫn được sở hữu nhà ở và
có quyền sử dụng đất thuê với hình thức trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.
Tuy nhiên, Điều 5 Luật Đất đai năm
2013 đã bỏ quy định cá nhân nước ngoài
là người sử dụng đất tại Việt Nam, tức là
không có năng lực pháp luật sử dụng đất.
Trong khi đó, Luật Nhà ở năm 2014 lại cho
phép cá nhân nước ngoài được mua và sở
hữu nhà ở. Nghị định số 99/2015/NĐ-CP
ngày 20/5/2015 hướng dẫn thi hành Luật
Nhà ỏ không quy định về quyền sử dụng đất
của cá nhân nước ngoài trong trường hợp
mua và sở hữu nhà ở. Tuy nhiên, theo quy
định của Luật Kinh doanh bất động sản năm
2014, việc mua bán nhà phải gắn với quyền
sử dụng đất21. Tương tự, theo quy định của
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật Đất đai, tỷ lệ phần quyền sử dụng
đất của người mua căn hộ chung cư được
tính bằng tỷ lệ diện tích căn hộ chia cho tổng
diện tích sàn của các căn hộ trong nhà chung
cư. Từ những căn cứ trên, người nước ngoài
khi mua nhà sẽ có quyền sử dụng đất dù là
nhà ở riêng lẻ hay căn hộ chung cư.
Theo quy định của khoản 4 Điều 6
Nghị định số 99/2015/NĐ-CP, trình tự, thủ
tục cấp Giấy chứng nhận cho chủ sở hữu
nhà ở được thực hiện theo quy định của
pháp luật về đất đai22. Tuy nhiên, Thông tư
quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 1(377) T1/2019
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất hoàn toàn không hướng dẫn
về thẩm quyền, thủ tục cấp giấy cho người
nước ngoài. Sự không thống nhất này đã dẫn
đến không thể thực hiện được việc cấp giấy
sở hữu nhà cho người nước ngoài, dù họ đã
nhận bàn giao nhà và sử dụng.
Hai là, về khu vực người nước ngoài
không được phép sở hữu nhà ở.
Nghị định số 99/2015/NĐ-CP vẫn
chưa quy định cụ thể khu vực nào cần bảo
đảm an ninh, quốc phòng mà cá nhân nước
ngoài không được phép sở hữu nhà ở, mà
lại tiếp tục giao trách nhiệm cho Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an xác định cụ thể các khu
vực cần bảo đảm an ninh, quốc phòng tại
từng địa phương để thông báo cho UBND
cấp tỉnh chỉ đạo Sở Xây dựng xác định danh
mục cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, Luật
Nhà ở đã có hiệu lực 3 năm nhưng các danh
mục này vẫn chưa được ban hành. Tình
huống này dẫn đến rủi ro khi thực hiện các
dự án nhà ở cho người nước ngoài. Tháng
5/2017, Bộ Xây dựng đã yêu cầu các địa
phương căn cứ nội dung Văn bản số 10328/
BQP-TM ngày 19/10/2016 của Bộ Quốc
phòng và Văn bản số 786/BCA-TCAN ngày
19/4/2017 của Bộ Công an, phối hợp với
Công an và Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương để xác định
cụ thể các khu vực cần bảo đảm an ninh,
quốc phòng tại địa phương. Tuy nhiên, đến
thời điểm hiện tại vẫn chưa có địa phương
nào công bố danh mục các khu vực này23.
Ba là, về cách tính số lượng nhà ở
được phép bán cho người nước ngoài.
Nghị định số 99/2015/NĐ-CP giao
trách nhiệm cho Bộ Xây dựng hướng dẫn cụ
23 Thu Hằng, Xác định khu vực không cho phép người nước ngoài sở hữu nhà ở,
khu-vuc-khong-cho-phep-nguoi-nuoc-ngoai-so-huu-nha-o/446337.vnp, truy cập ngày 22/5/2017.
24 Đinh Tiến Hoàng, Người nước ngoài mua nhà tại Việt Nam – kỳ 2 đến bất cập trong hướng dẫn,
vn/277/print-article.html, truy cập ngày 18/5/2017.
25 Điểm c khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở năm 2014.
thể cách tính nhà ở được phép bán cho người
nước ngoài. Với cách tính số lượng nhà ở
như hiện nay sẽ gây rất nhiều khó khăn cho
cả phía cơ quan quản lý nhà nước lẫn các
chủ đầu tư. Ví dụ, làm thế nào để xác định
địa bàn dân cư, làm thế nào xác định việc
biến động dân cư trên địa bàn, làm thế nào
để thống kê số lượng người nước ngoài mua
nhà ở giai đoạn chưa được cấp giấy chứng
nhận Ngoài ra, ở những thành phố lớn như
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có những
khu vực, khu đô thị mới rất đông người nước
ngoài sinh sống, chẳng hạn như tại thành
phố Hồ Chí Minh có khu Thảo Điền (quận
2), Phú Mỹ Hưng (quận 7), tại Hà Nội có
khu The Manor (Nam Từ Liêm) thì khả
năng rất cao các khu vực này sẽ vượt mức
tối đa số lượng nhà ở mà người nước ngoài
được quyền sở hữu. Khi đó sẽ phát sinh các
hệ lụy về hạn mức, xin cho, nhũng nhiễu24.
Bốn là, về thời hạn sở hữu nhà của
người nước ngoài.
Quy định hiện hành cho phép người
nước ngoài tại Việt Nam được sở hữu nhà
với thời gian tối đa 50 năm25 và khi sắp
hết thời hạn thì được gia hạn thêm một lần
nhưng không quá 50 năm. Vấn đề đặt ra là
trong khoảng thời gian 50 năm tiếp theo
(sau khi đã gia hạn), chủ sở hữu bán lại nhà
cho cá nhân nước ngoài khác thì thời hạn
sở hữu của cá nhân nước ngoài tiếp theo sẽ
được tính như thế nào. Thời hạn sử dụng là
50 năm tiếp theo tính từ thời điểm chuyển
nhượng, hay sẽ được tính là thời hạn sở hữu
còn lại của bên bán. Khi người mua sau sử
dụng hết thời gian do người sở hữu trước
“chuyển giao” thì có được gian hạn tiếp một
lần nữa hay không là vấn đề pháp luật đang
để trống.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 1(377) T1/2019
Năm là, về việc thanh toán tiền mua
nhà ở của người nước ngoài
Khi mua nhà, người nước ngoài có
thói quen vay ngân hàng, ít khi tự thanh toán
toàn bộ tiền mua nhà. Mặc dù Ngân hàng
Nhà nước đã có công văn hướng dẫn về vay
mua nhà ở tại Việt Nam của cá nhân nước
ngoài, nhưng hiện nay, hầu hết các ngân
hàng thương mại trong nước đều không có
hướng dẫn nghiệp vụ nội bộ về hoạt động
cho vay này, mà chỉ có một số ít chi nhánh
ngân hàng nước ngoài có. Thường là, các
ngân hàng sẽ có những yêu cầu về thủ tục,
giấy tờ mà chủ đầu tư, người mua, đặc biệt
là người nước ngoài khó đáp ứng được.
Sáu là, liên quan đến trình tự, thủ tục
thực hiện việc mua nhà và yêu cầu cấp giấy
chứng nhận sở hữu nhà ở.
Thủ tục pháp lý khi mua nhà đối với
người nước ngoài chưa có cơ chế đặc thù,
người nước ngoài do bất đồng ngôn ngữ và
văn hóa mua bán sẽ gặp không ít trở ngại khi
tham gia thực hiện các thủ tục pháp lý theo
pháp luật Việt Nam.
6. Một số kiến nghị
Một là, bổ sung người nước ngoài vào
nhóm “người sử dụng đất” tại Điều 5 Luật
Đất đai năm 2013, ghi nhận người nước
ngoài cũng có năng lực pháp luật về đất
đai tại Việt Nam để tạo sự nhất quán trong
quy định về sở hữu nhà ở của người nước
ngoài trong Luật Nhà ở và Luật Đất đai, làm
căn cứ để sửa đổi, bổ sung thông tư về cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất,
thực sự đảm bảo quyền sở hữu nhà ở cho
người nước ngoài.
Hai là, sửa đổi Luật Đất đai năm 2013
theo hướng bổ sung thẩm quyền UBND cấp
huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất cho người nước ngoài. Theo quy
định của khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai năm
2013, UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
lần đầu cho người Việt Nam định cư nước
ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với đất ở
tại Việt Nam. Vì vậy, việc giao cho UBND
cấp huyện thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất cho người nước
ngoài là hợp lý.
Ba là, nhằm bảo đảm tạo ra sự bình
đẳng trong quy định về quyền sở hữu nhà
ở của người nước ngoài cũng như hạn chế
tình trạng lách luật liên quan đến cách tính
thời hạn sở hữu nhà ở của người nước ngoài,
chúng tôi cho rằng cần quy định thời hạn sở
hữu 50 năm và gia hạn không quá 50 năm
cho từng lần xác lập quyền sở hữu nhà của
người nước ngoài, không phân biệt đó là
người mua nhà đầu tiên hay người thứ mấy
mua lại căn nhà đó.
Ngoài ra, cần bổ sung quy định thời
hạn sở hữu nhà trong trưởng hợp người
nước ngoài cùng đứng tên mua và sở hữu
nhà chung với tổ chức, cá nhân trong nước
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài
là ổn định, lâu dài, giống như trường hợp
thời hạn sở hữu nhà của người nước ngoài
kết hôn với công dân Việt Nam.
Bốn là, xây dựng quy chế phối hợp
giữa các bộ, ngành, cơ quan có thẩm quyền
trong vấn đề sở hữu nhà ở tại Việt Nam của
người nước ngoài. Các cơ quan có thẩm
quyền như Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng... cần thống nhất
và phối hợp với nhau trong việc xác định các
giấy tờ chứng minh đối tượng, điều kiện cấp
giấy chứng nhận sở hữu nhà ở, điều kiện vay
tiền ngân hàng và khu vực nào người nước
ngoài có thể mua, thuê mua, nhận tặng cho,
nhận thừa kế, để việc thực hiện pháp luật
về sở hữu nhà ở có yếu tố nước ngoài được
triển khai minh bạch, thuận lợi■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 1(377) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- che_dinh_ve_so_huu_nha_o_cua_nguoi_nuoc_ngoai_tai_viet_nam.pdf