2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng đại biểu Quốc hội, nhất là thành
viên Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội
Chương trình bồi dưỡng cần bám sát
chương trình xây dựng pháp luật của Quốc
hội, đúng thời điểm, đúng đối tượng. Bên cạnh
đó, chương trình, nội dung các hội nghị bồi
dưỡng ĐBQH cần được tiếp tục thiết kế theo
hướng kết hợp lý luận và thực tiễn, kiến thức
với kỹ năng, tạo nhiều điều kiện để đại biểu
thảo luận, thực hành. Bên cạnh các nội dung
gắn với chương trình hoạt động của Quốc hội,
đề nghị tổ chức các khóa bồi dưỡng kỹ năng
vận động bầu cử cho những người quy hoạch
vào ĐBQH chuyên trách hoạt động tại HĐDT
và các Ủy ban của Quốc hội.
2.5. Chế độ, chính sách đối với đại biểu
Quốc hội
Có nhiều trường hợp đại biểu hoạt
động tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc
hội đến 3 nhiệm kỳ, nhưng do không có quy
định về việc khen thưởng nên không có cơ
sở để xét nâng lương sớm trước thời hạn.
Do đó, cần quan tâm sửa đổi quy định, tạo
cơ chế xét tặng khen thưởng đối với những
trường hợp ĐBQH hoạt động chuyên trách
có thời gian cống hiến từ 2 - 3 nhiệm kỳ trở
lên. UBTVQH cần thành lập Hội đồng Thi
đua - Khen thưởng do một đồng chí lãnh đạo
Quốc hội làm Chủ tịch Hội đồng để xem xét,
khen thưởng hàng năm cho ĐBQH chuyên
trách ở Trung ương
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế độ chính sách cho các thành viên hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CHO CÁC THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG DÂN TỘC
VÀ CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI
Tóm tắt:
Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước, là
cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Hiệu quả hoạt
động của Quốc hội được đánh giá thông qua hiệu quả hoạt động
của các cơ quan của Quốc hội là Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân từng đại
biểu Quốc hội. Để tiếp tục đổi mới nâng cao hơn nữa hiệu quả,
chất lượng hoạt động của Quốc hội thì việc nghiên cứu, đổi mới
chế độ chính sách cho các thành viên trong Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội là cần thiết.
Tạ Thị Yên*
* Vụ trưởng Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội.
Abstract
The National Assembly plays a crucial role in the state structure,
is the highest representative entity of the People, the highest state
power body of the Socialist Republic of Vietnam. The National
Assembly exercises its constitutional power and legislative
power, approve important matters of the country and exercises the
supreme supervision over the performance of the state apparatus.
The performance of the National Assembly is assessed through
the performance of the entities under the National Assembly,
including the Nationality Council, Committees of the National
Assembly, National Assembly Delegations, and each of National
Assembly Deputies. In order to continue the renovation for
further improvement of the efficiency and quality of the National
Assembly's performance, it is necessary to review and improve
the policies and allowances for the members of the Nationality
Council and Committees of the National Assembly.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chế độ chính sách; thành viên
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/09/2019
Biên tập : 01/10/2019
Duyệt bài : 03/10/2019
Article Infomation:
Keywords: policies and allowances;
members of Nationality Council and
Committees of the National Assembly
Article History:
Received : 26 Sep. 2019
Edited : 01 Oct. 2019
Approved : 03 Oct. 2019
1. Thực trạng chế độ chính sách cho các
thành viên Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội
Điều 24 Luật Tổ chức Quốc hội quy
định: “Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt
động chuyên trách dành toàn bộ thời gian
CHÑNH SAÁCH
41Số 19(395) T10/2019
làm việc để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu tại cơ quan của Quốc hội hoặc
tại Đoàn ĐBQH ở địa phương”. Về trách
nhiệm tham gia các hoạt động của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Điều 26 Luật Tổ
chức Quốc hội quy định: “ĐBQH là thành
viên của Hội đồng dân tộc (HĐDT), Ủy ban
của Quốc hội có trách nhiệm tham dự các
phiên họp, tham gia các hoạt động khác của
Hội đồng, Ủy ban; thảo luận và biểu quyết
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐDT, Ủy ban mà mình là thành viên”.
Như vậy, ĐBQH là thành viên của HĐDT,
Ủy ban của Quốc hội cũng có người hoạt
động chuyên trách và cũng có người hoạt
động không chuyên trách. ĐBQH hoạt động
chuyên trách tại các cơ quan của Quốc hội
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH,
đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan của Quốc hội mà mình là thành
viên theo sự phân công của Ủy ban thường
vụ Quốc hội (UBTVQH), HĐDT, Ủy ban
của Quốc hội.
Theo quy định của pháp luật, hoạt
động của HĐDT và các Ủy ban của Quốc
hội tập trung chủ yếu vào xây dựng pháp
luật, nghị quyết và giám sát việc thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội, UBTVQH; giám sát hoạt động của
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cáo, các Bộ, cơ quan
ngang bộ và giám sát các văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan này thuộc lĩnh vực
HĐDT, Ủy ban phụ trách.
Hoạt động xây dựng pháp luật của
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội bao gồm
công tác thẩm tra và chỉnh lý các dự án luật,
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết và các đề án
khác. Sau khi được phân công chủ trì thẩm
tra, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội phân
công cho ĐBQH chuyên trách là thành viên
Thường trực Hội đồng, Ủy ban (thường là
một Phó Chủ tịch Hội đồng hoặc một phó
Chủ nhiệm Ủy ban) chủ trì phụ trách công
tác chuẩn bị thẩm tra. Trong điều kiện số
lượng đại biểu chuyên trách tại các cơ quan
Quốc hội còn thiếu so với quy định của Luật,
khối lượng công việc nhiều nên trên thực tế,
mỗi dự án được phân công cho một hoặc
hai đại biểu chuyên trách phụ trách phục vụ
công tác thẩm tra, chỉnh lý dự án luật, pháp
lệnh, nghị quyết. Các đại biểu này đóng vai
trò chủ đạo, nòng cốt trong hoạt động thẩm
tra của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội,
nêu lên các ý kiến về những vấn đề còn chưa
thống nhất, định hướng quá trình thảo luận
của các thành viên tham gia cuộc họp thẩm
tra nên chất lượng các cuộc họp thẩm tra
được nâng lên, có tính phản biện và tính xây
dựng cao.
Về hoạt động giám sát, theo quy định
của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội,
HĐDT, Ủy ban của Quốc hội, trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát
hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám
sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh
vực HĐDT, Ủy ban phụ trách; giúp Quốc hội,
UBTVQH thực hiện quyền giám sát theo sự
phân công của các cơ quan này. Trung bình
mỗi năm, HĐDT và các Ủy ban của Quốc
hội tổ chức từ 3 đến 6 đoàn đi giám sát ở địa
phương, cơ quan, tổ chức.
Ngoài các hoạt động liên quan đến
công tác lập pháp, giám sát, các đại biểu
chuyên trách là thành viên của HĐDT, các
Ủy ban của Quốc hội còn tham gia vào việc
tham mưu, phục vụ Quốc hội, UBTVQH
quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước như chính sách tiền tệ quốc gia; quyết
định dự toán ngân sách nhà nước và phân
bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết
toán ngân sách nhà nước; thành lập và bãi bỏ
các bộ, cơ quan ngang bộ; chia tách và điều
chỉnh địa giới hành chính. ĐBQH chuyên
trách tham gia các hoạt động đối ngoại và
hợp tác quốc tế của Quốc hội, tổ chức các
hội nghị, hội thảo...
CHÑNH SAÁCH
42 Số 19(395) T10/2019
Xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức
trách, nhiệm vụ cũng như tính chất chuyên
trách hay kiêm nhiệm, chế độ chính sách cho
các thành viên của HĐDT và các Ủy ban của
Quốc hội được quy định và thực hiện khác
nhau, cụ thể như sau:
1.1. Lương, phụ cấp chức vụ, hoạt động
phí của ĐBQH
Nghị quyết số 730/2004/NQ-
UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của UBTVQH
và Nghị định số 204/NĐ-CP của Chính phủ
quy định bảng lương chức vụ đối với các
chức danh bao gồm cả bầu cử và bổ nhiệm,
từ Trung ương đến cấp huyện và công chức
cấp xã có trình độ đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ được thực hiện xếp theo lương
chuyên môn, theo ngạch, bậc công chức,
viên chức và hưởng phụ cấp lãnh đạo. Theo
các quy định này, lương và phụ cấp đối với
cán bộ, công chức là ĐBQH thành viên của
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội được
quy định cụ thể như sau:
- Chủ tịch HĐDT, Chủ nhiệm các Ủy
ban có 2 bậc (bậc 1: hệ số 9,70; bậc 2: hệ số
10,30) có hệ số lương tương đương Bộ trưởng;
+ ĐBQH chuyên trách giữ các chức
danh Phó Chủ tịch HĐDT, Phó Chủ nhiệm
các Ủy ban có hệ số phụ cấp chức vụ 1,30
tương đương Thứ trưởng;
+ Ủy viên thường trực HĐDT, các Ủy
ban của Quốc hội có hệ số phụ cấp chức vụ
1,25 tương đương Tổng cục trưởng;
+ ĐBQH chuyên trách ở Trung ương
có 2 mức: mức 1, hệ số 1,05; mức 2, hệ số
1,20;
Ngày 17/4/2017, UBTVQH ban hành
Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14 quy
định bổ sung một số chế độ và điều kiện
1 Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 08/2002/NQ-
QH11 ngày 16/12/2002 của Quốc hội; Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14 ngày 17/4/2017 quy định về chế độ hoạt
động phí.
2 Nghị quyết số 555 /NQ-UBTVQH13 ngày 28/12/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về phụ cấp công tác
đại biểu Quốc hội chuyên trách.
bảo đảm hoạt động của ĐBQH đã quy định
nguyên tắc chung của việc quy định chế độ
và điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu
Quốc hội là phải phù hợp với quy định có
liên quan của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, có tính đến các yếu tố đặc thù trong
hoạt động của Quốc hội. Theo đó, ĐBQH
hoạt động không chuyên trách bao gồm cả
các đại biểu là thành viên HĐDT và các
Ủy ban của Quốc hội, trong thời gian thực
hiện nhiệm vụ đại biểu được người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi ĐBQH làm
việc bảo đảm trả lương, phụ cấp và các chế
độ khác theo quy định của pháp luật. Ngoài
ra, ĐBQH nếu không hưởng lương (kể cả
người hưởng lương hưu) hoặc hưởng trợ
cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước hoặc
từ quỹ bảo hiểm xã hội được hưởng thù lao
tham gia hoạt động Quốc hội bằng hệ số 0,2
mức lương cơ sở/ngày, tính cho 120 ngày
làm việc/năm.
Bên cạnh đó, ĐBQH được hưởng một
khoản phụ cấp hoạt động phí bằng hệ số 1,0/
tháng của mức lương tối thiểu1 và ĐBQH
chuyên trách được hưởng thêm phụ cấp công
tác ĐBQH chuyên trách bằng hệ số 2,0/tháng
của mức lương tối thiểu2.
Nhìn chung, công tác bảo đảm phục
vụ cho hoạt động của ĐBQH chuyên trách
nói chung, đại biểu là thành viên của HĐDT
và các Ủy ban của Quốc hội nói riêng được
nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn những
hạn chế nhất định trong quá trình thực hiện
các chế độ, chính sách đối với đại biểu.
ĐBQH chuyên trách thường làm nhiệm vụ
khoảng từ 2, 3 nhiệm kỳ Quốc hội, khi gần
hết nhiệm kỳ Quốc hội do không đủ tuổi tái
cử nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền bố trí
công tác khác cho đại biểu, nhưng có những
CHÑNH SAÁCH
43Số 19(395) T10/2019
trường hợp chức vụ mới đảm nhiệm có phụ
cấp chức vụ, phụ cấp lương thấp hơn các chế
độ lương đang hưởng. Theo quy định chung
hiện nay, chỉ đảm bảo giữ nguyên các chế
độ đang hưởng trong 6 tháng, hết 6 tháng sẽ
hưởng lương và các chế độ theo chức vụ mới
đảm nhiệm. Như vậy, bản thân đại biểu sẽ
cảm thấy bị thiệt thòi sau khi kết thúc nhiệm
kỳ Quốc hội (có trường hợp sĩ quan Công an
biệt phái công tác tại Quốc hội giữ chức vụ
Phó Chủ nhiệm Ủy ban, phụ cấp chức vụ hệ
số 1,30, khi kết thúc nhiệm kỳ trở lại công
tác tại Bộ Công an, chỉ được bố trí chức vụ
tương đương Phó Vụ trưởng của Bộ Công
an. Qua các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, có
nhiều trường hợp cán bộ là ĐBQH chuyên
trách không đủ tuổi tái cử, sau khi bố trí công
tác khác phụ cấp chức vụ bị giảm trong khi
đại biểu đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ,
được Nhà nước tặng thưởng Huân chương
bậc cao khi kết thúc nhiệm kỳ). Do đó, khi
cải cách tiền lương cần nghiên cứu, đánh giá
thận trọng, đề xuất phương hướng sửa đổi
phù hợp với xu hướng và tình hình thực tế
hiện nay, đảm bảo quyền lợi ích chính đáng
của cán bộ, công chức, phát huy tinh thần
trách nhiệm, tận tâm, tận tụy hoàn thành tốt
công tác chuyên môn.
1.2. Văn phòng giúp việc và chế độ thuê
khoán thư ký giúp việc
Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp
việc của Quốc hội, có chức năng nghiên cứu,
tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ các
hoạt động của Quốc hội, UBTVQH, Chủ
tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội;
các hoạt động của HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội, các Ban của UBTVQH. Các vụ,
đơn vị trong Văn phòng Quốc hội được phân
theo nhóm công việc, bao gồm các vụ, đơn
vị có chức năng tham mưu, giúp việc công
tác chuyên môn và các vụ, đơn vị phục vụ về
quản trị, hành chính. Chủ tịch HĐDT, Chủ
nhiệm các Uỷ ban của Quốc hội được bố
trí thư ký riêng giúp việc theo quy định của
UBTVQH. Đại biểu là Phó Chủ tịch HĐDT,
Phó Chủ nhiệm các Uỷ ban của Quốc hội
được bố trí một chuyên viên giúp việc bán
chuyên trách. Đại biểu là ủy viên chuyên
trách được Vụ chuyên môn giúp việc chung.
Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14
quy định ĐBQH trong đó có ĐBQH là thành
viên HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội có
quyền thuê người thực hiện một hoặc một số
việc của công tác thư ký. Người được thuê
thực hiện công tác thư ký cho ĐBQH phải
là người đang làm việc trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị nơi ĐBQH làm việc. Nội dung
công tác thư ký giúp việc gồm: xây dựng
kế hoạch công tác; tiếp nhận, chuẩn bị tài
liệu, công văn, liên lạc với cử tri nơi ứng cử;
truyền đạt, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
ý kiến đề nghị của ĐBQH và một số công
việc hành chính khác tại cơ quan, tổ chức,
đơn vị nơi ĐBQH làm việc. ĐBQH được
cấp kinh phí khoán hằng tháng để có thể tự
thuê người thực hiện công việc thư ký. Mức
khoán đối với ĐBQH hoạt động chuyên
trách bằng 100% của 2,34 mức lương cơ
sở; đối với ĐBQH hoạt động không chuyên
trách bằng 40% của 2,34 mức lương cơ sở.
ĐBQH trực tiếp thanh toán cho người được
thuê thực hiện công tác thư ký theo mức thỏa
thuận đối với từng công việc. Trường hợp
ĐBQH tự giải quyết công việc hành chính
để thực hiện nhiệm vụ đại biểu thì ĐBQH
được nhận khoản kinh phí này. ĐBQH có
chế độ thư ký giúp việc theo quy định của
Đảng và Nhà nước nhưng chưa bố trí được
thư ký thì được áp dụng chế độ quy định tại
khoản này cho đến khi bố trí được thư ký
chính thức.
Đây là một quy định mới theo hướng
mở để các ĐBQH nói chung, đại biểu là
thành viên HĐDT và các Ủy ban của Quốc
hội chủ động thuê thư ký giúp việc. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện cũng phát sinh
nhiều vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện
như: việc bố trí phòng làm việc và các điều
kiện bảo đảm khác cho thư ký như thế nào?
Trong thời gian tới nếu số lượng ĐBQH
CHÑNH SAÁCH
44 Số 19(395) T10/2019
chuyên trách là thành viên của HĐDT và các
Ủy ban tăng lên thì có bảo đảm đủ số lượng
thư ký phải là người đang làm việc trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi ĐBQH làm việc
hay không? Các thư ký được thuê như hiện
nay có làm các công tác chuyên môn khác
của Vụ hay chỉ thực hiện nhiệm vụ thư ký?
1.3. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng
Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14
quy định ĐBQH được bồi dưỡng kỹ năng
hoạt động, cập nhật kiến thức theo quy định
của UBTVQH. Đối với ĐBQH hoạt động
chuyên trách là thành viên HĐDT và các Ủy
ban của Quốc hội có thể tham gia các khóa
học nâng cao trình độ phù hợp với điều kiện
và lĩnh vực chuyên môn được đảm nhiệm.
Kinh phí tham gia các khóa học do Văn
phòng Quốc hội bảo đảm. Trong hai nhiệm
kỳ vừa qua, Ban Công tác đại biểu thuộc
UBTVQH đã tổ chức khoảng 100 hội nghị
dành cho ĐBQH. Năm 2018, đã tổ chức
06 hội nghị dành cho ĐBQH. Các hội nghị
được các đại biểu đánh giá rất cao về tính
thiết thực, đáp ứng nhu cầu của ĐBQH.
Tuy nhiên, trước sự đổi mới tổ chức
và hoạt động của Quốc hội, chương trình
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng vẫn chưa
thật sự phù hợp so với thực tế hoạt động của
ĐBQH, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
đại biểu; đội ngũ báo cáo viên còn hạn chế
về mặt số lượng. Việc thiết kế các chương
trình riêng cho một số đối tượng đặc thù như
thành viên HĐDT và các Ủy ban còn chưa
được quan tâm một cách thỏa đáng. Trong
nhiệm kỳ Quốc hội, trừ các hội nghị dành
cho đại biểu mới trúng cử có số lượng đại
biểu tham dự đông đảo, các hội nghị sau
đó ngày càng giảm về số lượng. Trong thời
gian tới, việc đào tạo, bỗi dưỡng ĐBQH cần
được tiến hành đúng thời điểm, đúng đối
tượng để có thể mang lại giá trị nhiều hơn
cho ĐBQH, để đại biểu sử dụng nhiều hơn
trong hoạt động của mình. Ví dụ, đại biểu
là thành viên HĐDT cần đào tạo, bồi dưỡng
nhiều hơn kiến thức về các kỹ năng tiếp xúc
cử tri là đồng bào các dân tộc thiểu số, kiến
thức về hỗ trợ vùng khó khăn hay kiến thức
liên quan đến đánh giá tác động của dự án
đến các đối tượng yếu thế.
1.4. Các điều kiện bảo đảm
Về quản lý cán bộ, ĐBQH hoạt động
chuyên trách là thành viên HĐDT và các Ủy
ban của Quốc hội do UBTVQH quản lý. Cơ
quan giúp UBTVQH quản lý ĐBQH hoạt
động chuyên trách ở trung ương là Ban Công
tác đại biểu. Nội dung quản lý bao gồm bố
trí, phân công, điều động, luân chuyển cán
bộ và phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán
bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; bổ nhiệm,
giới thiệu cán bộ ứng cử; miễn nhiệm cán
bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện
chế độ, chính sách cán bộ; và kiểm tra, giám
sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố
cáo về công tác cán bộ và cán bộ. Những
nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, việc giải quyết
chế độ hưu trí và bố trí công việc đối với
ĐBQH hoạt động chuyên trách là thành viên
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội khi hết
nhiệm kỳ Quốc hội đã được quan tâm nhưng
vẫn còn những khó khăn, vướng mắc nhất
định do chưa có quy định cụ thể, nhất là đối
với ĐBQH hoạt động chuyên trách khi hết
nhiệm kỳ chưa đến tuổi nghỉ hưu mà không
tái cử. Trên thực tế, khi hết nhiệm kỳ Quốc
hội, ĐBQH hoạt động chuyên trách đã đến
tuổi nghỉ hưu đã được giải quyết chế độ hưu
trí theo quy định của Nhà nước đối với cán
bộ, công chức nhà nước. Đối với các ĐBQH
hoạt động chuyên trách là thành viên HĐDT
và các Ủy ban của Quốc hội khi hết nhiệm
kỳ mà không tái cử, nhưng chưa đến tuổi
nghỉ hưu thì được cơ quan có thẩm quyền bố
trí công tác. Tuy nhiên, chưa có văn bản quy
định cụ thể cơ quan, tổ chức nào có trách
nhiệm bố trí công tác cho đại biểu và chưa
quy định về vị trí công tác cụ thể cho đại
biểu khi thôi làm nhiệm vụ.
Ngoài ra, ĐBQH có các điều kiện bảo
CHÑNH SAÁCH
45Số 19(395) T10/2019
đảm khác như: hỗ trợ nghiên cứu để tham
gia ý kiến vào các dự án luật; chế độ chi mời
chuyên gia nghiên cứu để phục vụ công tác
đại biểu; được trang cấp một máy vi tính
xách tay, điện thoại di động, điện thoại công
vụ tại nhà riêng và được cung cấp báo chí, tài
liệu và các chế độ bảo hiểm y tế, khám chữa
bệnh và các chế độ khác theo quy định của
pháp luật. Một trong những bất cập hiện nay
liên quan đến chế độ thi đua, khen thưởng
ĐBQH chuyên trách không được quy định
trong Luật Thi đua khen thưởng mà chỉ có
hình thức khen cống hiến.
2. Một số kiến nghị
Để tiếp tục hoàn thiện các chế độ
chính sách cho thành viên HĐDT và các Ủy
ban của Quốc hội, chúng tôi đề xuất một số
giải pháp như sau:
2.1. Lương, phụ cấp đối với đại biểu chuyên
trách là thành viên Hội đồng dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội
Để phù hợp với xu hướng tăng dần số
lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách, giảm
dần tỷ lệ ĐBQH khối cơ quan hành pháp;
đồng thời, do hoạt động của Quốc hội có
nhiều đặc thù riêng và để đảm bảo tương quan
chung về vị trí, vai trò ĐBQH Việt Nam với
các nước trên thế giới (mỗi đại biểu là một
chính khách quan trọng của hệ thống chính
trị, các nước trên thế giới có chế độ lương đối
với đại biểu rất cao, tương xứng với vai trò,
trách nhiệm của người đại biểu), chúng ta
cần nghiên cứu xây dựng một hệ thống thang
bảng lương chức vụ riêng với mức lương
tương xứng vị trí công tác và trách nhiệm
của đại biểu; cần xây dựng Bảng lương riêng
giành cho ĐBQH hoạt động chuyên trách,
trong đó ĐBQH giữ các vị trí khác nhau tại
HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội có thang
bảng lương riêng, mỗi thang bảng lương có
các bậc lương khác nhau.
2.2. Tổ chức lại việc thuê khoán thư ký
giúp việc
Việc hỗ trợ để các ĐBQH là thành
viên trong HĐDT và các Ủy ban thực hiện
tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của mình
là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức hỗ trợ và
cách thức tổ chức việc thuê khoán thư ký
cần phải được cân nhắc. Quy định “người
được thuê thực hiện công tác thư ký cho
ĐBQH phải là người đang làm việc trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị nơi ĐBQH làm việc.
Trường hợp ĐBQH tự giải quyết công việc
hành chính để thực hiện nhiệm vụ đại biểu
thì ĐBQH được nhận khoản kinh phí này”
sẽ dẫn đến các vụ, đơn vị trong Văn phòng
Quốc hội không thể bảo đảm đủ số lượng để
phục vụ các đối tượng là thành viên HĐDT
và các Ủy ban hoạt động chuyên trách tại
các cơ quan của Quốc hội. Vì vậy, nên để
các ĐBQH có thể chủ động tổ chức công tác
thư ký phục vụ cho mình; nếu các đại biểu
thuê thư ký, Văn phòng Quốc hội có thể bố
trí một số phòng làm phòng thư ký chung,
có các máy tính và phương tiện, máy móc hỗ
trợ. Ngoài ra, ĐBQH có thể tổ chức các tình
nguyện viên, thực tập sinh hay văn phòng
giúp việc của riêng mình.
2.3. Ban hành quy định cụ thể đối với đại
biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách là
thành viên Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
khi hết nhiệm kỳ chưa đến tuổi nghỉ hưu
mà không tái cử
Điều 42 Luật Tổ chức Quốc hội quy
định: “khi ĐBQH hoạt động chuyên trách
thôi làm nhiệm vụ đại biểu thì cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí
công tác cho ĐBQH”. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có văn bản quy định cụ thể cơ quan, tổ
chức nào có trách nhiệm bố trí công tác cho
đại biểu và chưa quy định về vị trí công tác
cụ thể cho đại biểu khi thôi làm nhiệm vụ.
Do đó, UBTVQH cần có quy định cụ thể về
các cơ quan, tổ chức đơn vị có trách nhiệm,
cũng như quy định rõ các chức vụ tương
đương để ĐBQH hoạt động chuyên trách
là thành viên HĐDT và các Ủy ban khi hết
nhiệm kỳ chưa đến tuổi nghỉ hưu mà không
tái cử có thể bố trí công tác.
CHÑNH SAÁCH
46 Số 19(395) T10/2019
2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng đại biểu Quốc hội, nhất là thành
viên Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội
Chương trình bồi dưỡng cần bám sát
chương trình xây dựng pháp luật của Quốc
hội, đúng thời điểm, đúng đối tượng. Bên cạnh
đó, chương trình, nội dung các hội nghị bồi
dưỡng ĐBQH cần được tiếp tục thiết kế theo
hướng kết hợp lý luận và thực tiễn, kiến thức
với kỹ năng, tạo nhiều điều kiện để đại biểu
thảo luận, thực hành. Bên cạnh các nội dung
gắn với chương trình hoạt động của Quốc hội,
đề nghị tổ chức các khóa bồi dưỡng kỹ năng
vận động bầu cử cho những người quy hoạch
vào ĐBQH chuyên trách hoạt động tại HĐDT
và các Ủy ban của Quốc hội.
2.5. Chế độ, chính sách đối với đại biểu
Quốc hội
Có nhiều trường hợp đại biểu hoạt
động tại HĐDT và các Ủy ban của Quốc
hội đến 3 nhiệm kỳ, nhưng do không có quy
định về việc khen thưởng nên không có cơ
sở để xét nâng lương sớm trước thời hạn.
Do đó, cần quan tâm sửa đổi quy định, tạo
cơ chế xét tặng khen thưởng đối với những
trường hợp ĐBQH hoạt động chuyên trách
có thời gian cống hiến từ 2 - 3 nhiệm kỳ trở
lên. UBTVQH cần thành lập Hội đồng Thi
đua - Khen thưởng do một đồng chí lãnh đạo
Quốc hội làm Chủ tịch Hội đồng để xem xét,
khen thưởng hàng năm cho ĐBQH chuyên
trách ở Trung ương
THUẾ TÀI SẢN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ...
(Tiếp theo trang 34)
thuế tài sản ở một số quốc gia thì nước ta có
một số loại thuế mang tính chất là thuế tài
sản điển hình như thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp. Tuy
nhiên, nguồn thu thuế hằng năm từ hai loại
thuế này chỉ chiếm khoảng 0,036% GDP.
Do vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải ban
hành Luật Thuế tài sản chung thống nhất,
điều chỉnh các đối tượng chịu thuế và bổ
sung đối tượng là nhà ở nhằm bao quát được
nguồn thu cho NSNN, góp phần xây dựng
hệ thống thuế đồng bộ.
Bên cạnh đó, việc xây dựng Luật Thuế
tài sản không chỉ đáp ứng yêu cầu, thực tiễn
trong nước mà còn đảm bảo được sự phù
hợp với thông lệ quốc tế. Bởi lẽ, trên thế giới
hiện nay, hầu hết các quốc gia đều thực hiện
thu thuế đối với tài sản mà đối tượng đánh
thuế chủ yếu là nhà và đất.
Thứ ba, việc xây dựng các chính sách
thuế tài sản nhằm đảm bảo nguồn thu cho
NSNN.
20 Huỳnh Huy Quế, Thuế tài sản ở Việt Nam nên xây dựng theo hướng nào, Tạp chí Thuế Nhà nước, số 40/2006, tr 7.
Thuế tài sản khi được xây dựng cần
phải hết sức thận trọng trong việc nghiên cứu
bổ sung thu thuế với nhà ở và các tài sản khác
sao cho phù hợp. Bởi vì hiện nay, người dân
sở hữu nhà ở của nước ta chưa phải chịu thuế
tài sản, gây nên sự thất thoát nguồn thu cho
NSNN. Hơn nữa, đây là một loại thuế mang
tính ổn định, dễ thu và dễ kiểm tra, giám sát
hơn so với các sắc thuế khác nên có khả năng
mang lại nguồn thu lớn và ổn định cho ngân
sách. Mặt khác, khi Việt Nam gia nhập vào
các hiệp định thương mại tự do, thực hiện
những cam kết cắt giảm thuế quan đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu nên nguồn thu cho
ngân sách cũng sẽ bị ảnh hưởng, nguồn thu
từ thuế nhập khẩu của nước ta sẽ giảm nhiều.
Vậy nên, các sắc thuế nội địa, trong đó có các
sắc thuế liên quan đến tài sản cần được cải
cách để bù đắp khoản thu bị giảm sút, đáp
ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, bảo đảm
mối quan hệ hữu cơ trong hệ thống chính
sách thuế mới20
CHÑNH SAÁCH
47Số 19(395) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- che_do_chinh_sach_cho_cac_thanh_vien_hoi_dong_dan_toc_va_cac.pdf