KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, “kinh tế số” là vấn đề khá mới
mẻ, cần được quan tâm nhận diện thấu đáo, có
chính sách hợp lí để từng bước đón nhận, hình
thành, xây dựng và phát triển trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đối với quá
trình phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời
gian tới, “kinh tế số” mang lại không gian mới
đầy hứa hẹn, triển vọng song đồng thời đặt ra
nhiều vấn đề chưa có tiền lệ trong quản trị quốc
gia. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận vấn đề này thấu
đáo, có chính sách và biện pháp hữu hiệu, tất
yếu, “kinh tế số” sẽ là đòn bẩy quan trọng góp
phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng bao trùm,
phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đảm
bảo an sinh và giải quyết tốt thách thức về mặt
xã hội của nước ta./.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách phát triển nền “kinh tế số” ở Việt Nam – một số vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
Nghiên cứu - Trao đổi
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NỀN “KINH TẾ SỐ”
Ở VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Bùi Nghĩa*, Hồ Thức Tài**
TÓM TẮT
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và mạng lưới
Internet toàn cầu làm xuất hiện những nội hàm, yếu tố mới trong nền kinh tế - “kinh tế số”. Bài viết
giới thiệu những biểu hiện cơ bản của nền “kinh tế số” và đề xuất một số khuyến nghị chính sách
nhằm xây dựng, phát triển nền kinh tế số Việt Nam thời gian tới.
Từ khóa: Chính sách, cách mạng 4.0, kinh tế số, Việt Nam.
POLICY DEVELOPMENT POLICY
“SOCIO-ECONOMIC” IN VIETNAM
ABSTRACT
The rapid development of the 4th Industrial Revolution (Revolution 4.0) and the global Internet
network has brought new content, elements in the economy -“digital economy”. This article introduces
the basic features of the digital economy, supplies some policy recommendations to build and develop
Vietnam’s digital economy in the coming time.
Keyword: Policy, Revolution 4.0, Digital Economy, Vietnam.
*
TS, Giảng viên chính, Học viện Chính trị khu vực II.
** Th.s, Giảng viên, Học viện Chính trị khu vực II.
1 Theo nghiên cứu này, người dân Thái Lan dành 4 giờ 56 phút/ ngày sử dụng mobile internet, người
Indonesia, Philipines, Malaysia khoảng 4 giờ trong khi các nước khác như Pháp, Đức, Nhật chỉ
khoảng 1 giờ 30 phút.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau hơn 30 nĕm tìm tòi, khảo nghiệm, đến
nay, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập
quốc tế của nước ta đang diễn ra trong không
gian mới, đan cài cả thời cơ và thách thức (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 102). Điển hình
nhất chính là sự phát triển mạnh mẽ, chi phối
sâu sắc của cách mạng 4.0 và sự phát triển mạnh
mẽ, mau lẹ của mạng Internet toàn cầu, Theo
Báo cáo nền kinh tế số khu vực Đông Nam á
nĕm 2018 (tên tiếng Anh là “e-Conomy SEA
2018”) cho thấy khu vực này sở hữu đến hơn
350 triệu người dùng Internet nĕm 2018, tĕng
đến hơn 90 triệu người dùng so với nĕm 2015
(Google, Temasek, 2018, tr. 3). Đặc biệt, theo
nghiên cứu của Hootsuite, người sử dụng moblie
internet luôn nằm trong nhóm 10 nước đứng đầu
thế giới1. Thêm vào đó, trung bình người dùng
Internet tại Đông Nam Á dành đến 140 phút mỗi
106
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Bối cảnh này đã và đang làm gia tĕng tính
thuận tiện, kết nối, linh hoạt và nĕng suất trong
qua trình lao động, sản xuất; đồng thời, làm biến
chuyển bộ mặt của nền kinh tế quốc gia và quốc
tế. Có thể thấy, tất cả các nhân tố trên đây đã
và đang làm thay đổi về “chất” của nền kinh tế
ở mỗi quốc gia. Trong đó, bên cạnh yếu tố tri
thức - chất xám trong lao động với phương thức
sản xuất, tiêu dùng và trao đổi truyền thống thì
sự xuất hiện và tác động của các yếu tố “công
tháng để mua sắm trên mạng, cao gấp đôi so với
thị trường thương mại điện tử Mỹ cùng với sự
tĕng trưởng nhanh chóng số lượng người dùng
internet, mạng xã hội khiến giá trị có được từ
nền kinh tế số với các lĩnh vực chính như Online
Travel, E-Commerce, Online Media và Ride
Hailing đạt giá trị 72 tỉ USD trong nĕm 2018
và dự kiến đạt mốc 20 tỉ USD vào nĕm 2025,
cao hơn 40 tỉ USD so với các dự báo trước đó
(Google, Temasek, 2018, tr. 3).
Biểu đồ 1. Tỉ trọng giá trị giao dịch nền “kinh tế số”/GDP của ASEAN
giai đoạn 2015 - 2018 và dự kiến đến 2025 (Đơn vị tính: %)
Biểu đồ 2. Tỉ trọng giá trị giao dịch nền “kinh tế số”/GDP của một số nước ASEAN
trong nĕm 2018 (Đơn vị tính: %)
nghệ”, “tin học hoá”, “số hóa”, “trí tuệ nhân
tạo”, “internet” đã làm bộc lộ nhiều thuộc
tính mới trong nội tại của nền kinh tế quốc gia,
làm xuất hiện những “dạng thức mới” của nền
kinh tế - nền kinh tế “không biên giới” dựa trên
nền khoa học công nghệ. Đối với nước ta, sự
xuất hiện và phát triển của các yếu tố trong nền
kinh tế số trở thành đặc trưng, là bổ sung hợp lí,
cần thiết cho mô hình kinh tế mà Việt Nam đang
chủ trương xây dựng, hoàn thiện; đồng thời, tạo
107
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
ra không gian mới đầy tiềm nĕng, triển vọng
hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và
bền vững vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, vĕn minh”.
Như vậy, kinh tế số là chủ đề mới, đầy thách
thức không chỉ ở giác độ lý luận mà còn thực
tiễn quản trị kinh tế quốc gia trong kỷ nguyên
4.0. Bài viết không chỉ góp phần gia tĕng nhận
thức về một nội dung mới trong kinh tế học mà
còn cung cấp luận cứ cần thiết phục vụ việc đưa
ra các khuyến nghị mang tầm chính sách để Việt
Nam dần thích ứng, tận dụng có hiệu quả từ nền
kinh tế số trong thời gian tới.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ
“KINH TẾ SỐ”
Nền kinh tế số là chủ đề nhận được nhiều
quan tâm của các nhà quản trị bởi những đóng
góp to lớn của nó vào tĕng trưởng kinh tế trong
bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc cách mạng
4.0 và Việt Nam đang thúc đẩy khởi nghiệp (Lê
Thị Thanh Huyền, 2017, tr. 5) và đổi mới sáng
tạo quốc gia. Theo các chuyên gia kinh tế, nền
kinh tế số là bước phát triển tất yếu, phù hợp với
xu thế khi nền kinh tế truyền thống đang dần bão
hoà. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm của các nhà
nghiên cứu, quản trị vẫn còn khác nhau về cách
tiếp cận vấn đề này.
Quan điểm 1: Nền kinh tế số (hay còn gọi là
nền kinh tế Internet hoặc kinh tế mới) là một nền
kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số. Sự
phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực công nghệ kỹ
thuật số phát triển đã mở đường cho sự đổi mới
và phát triển trên toàn cầu.
Quan điểm 2: Kinh tế số (hay nền kinh tế số)
là mạng lưới các hoạt động kinh tế toàn cầu được
hỗ trợ bởi công nghệ thông tin và truyền thông
(ICT). Nói một cách đơn giản thì kinh tế số là
một nền kinh tế dựa trên công nghệ số (digital
technology).
Quan điểm 3: Kinh tế số đôi khi cũng được
gọi là Kinh tế mới, kinh tế Web hay Kinh tế
Internet. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế học cho
rằng nó phức tạp hơn kinh tế Internet (mang lại
giá trị gia tĕng từ Internet). Các thành phần kinh
tế số bao gồm các thành phần ẩn và thành phần
hiện hiện hữu. Các thành phần kinh tế số ẩn bao
gồm cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin kèm theo
như phần cứng, phần mềm, hệ thống mạng
Các thành phần kinh tế số hiện bao gồm kinh
doanh trực tuyến (e-business) và thương mại
điện tử (e-commerce).
Quan điểm 4: Kinh tế số không đơn thuần là
chuyển dịch từ kinh doanh trực tiếp mặt đối mặt
(face to face) sang trực tuyến (online). Kinh tế
số là chuyển hóa mọi mặt đời sống kinh tế từ
tương tác đến các giao dịch và nó thúc đẩy sự
sáng tạo trong nền kinh tế. Ví dụ việc giao dịch
qua Internet và thẻ tín dụng đã làm cho tiền giấy
trở nên thừa thãi và nó thúc đẩy đồng tiền mới
và phương thức lưu trữ tiền mới ra đời như là
“Bitcoin” và “Ví điện tử”.
- Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của
Liên Hợp quốc (OECD), kinh tế số có nghĩa
là: “the full range of our economic, social and
cultural activities supported by the Internet
and related information and communications
technologies” (OECD, 2013, tr. 6). Tức là,
không chỉ trình độ trong các hoạt động kinh tế
mà cả trong lĩnh vực đời sống, vĕn hóa xã hội
cũng có sự hỗ trợ của hệ thống thông tin toàn
cầu (Internet) cũng như hệ thống công nghệ
thông tin và truyền thông.
Như vậy, dù tiếp cận nhiều góc độ nghĩa khác
nhau, tuy nhiên, nội hàm kinh tế số biểu hiện ở
các phương diện chủ yếu sau:
Một là, kinh tế số là nấc thang phát triển mới
về chất của nền kinh tế nhân loại trong bối cảnh
khoa học - công nghệ có vai trò then chốt;
Hai là, kinh tế số phát triển dựa trên nền tảng
của công nghệ số; truyền thông và công nghệ
thông tin ngày càng có vị trí quan trọng với kinh
tế số;
Ba là, kinh tế số gia tĕng tính tương tác, sử
dụng và ứng dụng một cách thuận tiên vào mạng
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
máy tính toàn cầu (Internet), hệ thống máy tính
nhằm thực hiện các hoạt đông như bao gồm kinh
doanh trực tuyến (e-business) và thương mại
điện tử (e-commerce);
Bốn là, kinh tế số dần xóa nhòa ranh giới về
phạm vi kinh tế giữa các vùng miền, quốc gia,
quốc tế; tĕng cường tính kết nối và tương tác
mạnh giữa các chủ thể trong xã hội, nhất là các
chủ thể kinh tế.
3. HIỆN TRẠNG NỀN “KINH TẾ SỐ” Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Ở Việt Nam, kinh tế số đã “len lỏi” vào khắp
các lĩnh vực đời sống xã hội như giao thông,
giáo dục, y tế, dịch vụ ĕn uống, tài chính, giải
trí, Trong nĕm 2018, kinh tế số đã đạt quy
mô 9 tỉ USD, tĕng trưởng bình quân 38% chỉ
trong 3 nĕm từ 2015 - 2018. Đặc biệt, nĕm 2018,
thị trường e-Commerce tĕng gấp đôi nĕm 2017,
Online Advertsing and Game tĕng đều 50% mỗi
nĕm,... và đang được ghi nhận là một “con rồng”
mới nổi của ASEAN về kinh tế số (Google,
Temasek, 2018, tr. 6).
Như đã đề cập, kinh tế số biểu hiện rõ nét
ở hai lĩnh vực kinh doanh vốn lấy công nghệ -
Internet làm phương thiện thực hiện, tương tác
là: e-Commerce/ e-Comm/ EC - Thương mại
điện tử (TMĐT)1 và e-business- kinh doanh trực
tuyến (KDTT). Trong bài viết này, biểu hiện về
nền kinh tế số ở nước ta được khái quát chủ yếu
02 lĩnh vực nêu trên, qua một số nội dung chủ
yếu như sau:
Một là, thương mại điện tử nước ta có tốc
độ tĕng trưởng mạnh mẽ, cao và liên tục. Nĕm
2018, lĩnh vực này tĕng trưởng 30% so với nĕm
2017. Quy mô từ 4 tỉ USD nĕm 2015 nay đạt
7,8 tỉ USD vào nĕm 2018. Thị trường thương
mại điện tử nước ta chủ yếu hình thành và phát
triển mạnh ở các lĩnh vực như bán lẻ trực tuyến,
du lịch trực tuyến, tiếp thị trực tuyến, giải trí
trực tuyến, mua bán trực tuyến dịch vụ và sản
phẩm số hoá khác (Hiệp hội Thương mại điện
tử, 2019, tr. 9).
Hai là, trong thương mại điện tử và kinh
doanh trực tuyến, kênh mua bán hàng trực trực
tuyến phổ biến nhất là mạng xã hội và website2.
Theo khảo sát của Hiệp hội Thương mại điện tử
nĕm 2018, mạng xã hội tiếp tục là kênh tiếp thị
phổ biến nhất của doanh nghiệp. Trong đó, có
45% doanh nghiệp bán hàng hiệu quả qua kênh
này, 32% qua Website và 22% qua ứng dụng trên
ứng dụng di động (Hiệp hội Thương mại điện tử,
2019, tr. 11). Việc giao kết hợp đồng trực tuyến
có thể thực hiện qua messenger, comments, form
online (trang Facebook) hay links (đường dẫn)
đến ứng dụng đặt hàng trực tuyến bên thứ 3, qua
trao đổi bằng điện thoại, Whatsapp, Viber, Zalo,
Mocha, email, tương tác Website,...
1 Tháng 7/1997, Chính phủ Hoa Kỳ công bố vĕn bản “khung thương mại điện tử” thì thuật ngữ này
mới bắt đầu được sử dụng rãi trên toàn cầu.
2 Theo Báo cáo của Hiệp Hội thương mại điện tử Việt Nam, nĕm 2018, chỉ có 44% doanh nghiệp kinh
doanh trực tuyến đã xây dựng Webiste bán hàng, con số này nĕm 2017 là 43% và không thay đổi
nhiều trong vài nĕm trở lại đây. Trong đó, mức độ chĕm sóc Webiste của doanh nghiệp được chú
trọng hơn: 47% cập nhật tin bài bán hàng trực tuyến hằng ngày, 23% cập nhật hằng tuần.
Bảng 1. Thống kê hình thức kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp Việt Nam nĕm 2018
Hình thức kinh doanh Nĕm 2016 Nĕm 2017 Nĕm 2018
1. Kinh doanh qua mạng xã hội 34% 32% 36%
2. Kinh doanh qua sàn thương mại điện tử 13% 11% 12%
3. Kinh doanh trên nền tảng di động 19% 17% 17%
109
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
Biểu đồ 3. Các hình thức quảng cáo trong kinh doanh trực tuyến trên Webiste/ di động
của doanh nghiệp nĕm 2018
Ba là, sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ
logistic trong thương mại điện tử và kinh doanh
trực tuyến là đáng ghi nhận. Theo khảo sát của
Hiệp hội Thương mại điện tử, nĕm 2018, Tổng
công ty Bưu điện Việt Nam (Vietnam Post) là
doanh nghiêp chiếm 61% cung cấp dịch vụ
chuyển phát cho các đơn vị bán hàng trực tuyến
thuê, 25% là Công ty Bưu chính Viettel (Viettel
Post), EMS (5%), Giao hàng nhanh (1%), Giao
hàng tiết kiệm (1%), các đơn vị chuyển phát
khác chỉ chiếm khoảng 13% (Hiệp hội Thương
mại điện tử, 2019, tr. 15).
Bốn là, sự phát triển của một số lĩnh vực kinh
doanh trực tuyến Việt Nam trong tương quan
với nhiều nước trong ASEAN là đáng khích lệ.
Đối với lĩnh vực truyền thông trực tuyến
(Online Media). Lĩnh vực này gồm Online
Advertising, Gaming, Subscription Music and
Video Demand. Ở cấp độ ASEAN, tốc độ tĕng
trưởng của lĩnh vực này đạt mức 11 tỉ USD,
riêng Việt Nam là 2,2 tỉ USD và ước đạt 6 tỉ
USD vào nĕm 2025 (Google, Temasek, 2018,
tr. 10).
110
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Biểu đồ 4. Tĕng trưởng Online Media của Việt Nam và ASEAN
giai đoạn 2015 – 2025 (đơn vị tính: tỉ USD)
Đối với lĩnh vực kinh doanh vận tải và thực
phẩm trực tuyến (Online Trasport và Food
Dilivery). Đây là lĩnh vực khá mới mẻ và đầy
tiềm nĕng với các doanh nghiệp mới nổi như
Grab, GoViet, Now, Foody, Cooky,... Tĕng
trưởng nĕm 2018 ở lĩnh vực này còn khá khiêm
tốn (0,5 tỉ USD), tuy nhiên ước tính đến nĕm
2025, con số này sẽ đạt 2,0 tỉ USD (Google,
Temasek, 2018, tr. 16).
Đối với lĩnh vực du lịch trực tuyến (Online
Travel). Đây là lĩnh vực đang phát triển mạnh
mẽ ở Việt Nam, bao gồm từ việc đặt vé máy
bay, khách sạn, kỳ nghỉ,... Theo báo cáo, hiện
tại, tĕng trưởng lĩnh vực kinh doanh trực tuyến
này đạt 3,5 tỉ USD và ước tính đạt 9,0 tỉ USD
vào nĕm 2025 (Google, Temasek, 2018, tr. 13).
Biểu đồ 5. Tĕng trưởng Online Travel của Việt Nam và ASEAN
giai đoạn 2015 - 2025 (đơn vị tính: tỉ USD)
111
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
Biểu đồ 6. Tĕng trưởng Online Trasport và Food Dilivery
của Việt Nam và ASEAN giai đoạn 2015 - 2025 (đơn vị tính: tỉ USD)
4. MỘT SỐ KHÓ KHĔN, TỒN TẠI VỀ XÂY
DỰNG NỀN “KINH TẾ SỐ” Ở VIỆT NAM
Bên cạnh những yếu tố và điều kiện thuận
lợi, Việt Nam cũng đang đối mặt với không ít
rào cản, ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh của
thương mại điện tử, kinh doanh trực tuyến như:
Một là, sự cạnh tranh khốc liệt của các đối
thủ, lòng tin của người tiêu dùng khi mua sắm
trực tuyến còn thấp, dịch vụ chuyển phát và
hoàn tất đơn hàng chưa theo kịp nhu cầu...
Hai là, dù có sự tĕng trưởng khá nhanh trong
thời gian gần đây, thanh toán điện tử ở Việt Nam
vẫn đang ở dạng tiềm nĕng, kém xa so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới (mới đạt
25% trong tổng số thanh toán mua hàng online)
(Google, Temasek, 2018, tr. 29).
Ba là, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trình độ
công nghệ của ngành này còn nhiều bất cập mà
hệ quả trực tiếp là lĩnh vực kinh tế số dựa trên
nền tảng Internet vẫn chứa đựng nhiều nguy cơ
về bảo mật, an toàn thông tin.
Bốn là, vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực công
nghệ thông tin đang là một trong những thách
thức lớn đối với lĩnh vực kinh tế số của nước ta.
Nĕm là, nhận thức của doanh nghiệp, nhất là
cá nhân, hộ gia đình tham gia kinh doanh trực
tuyến trong nền kinh tế số còn nhiều hạn chế,
nhất là pháp lý trong kinh doanh.
5. KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH TRONG
QUẢN TRỊ NỀN “KINH TẾ SỐ” Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Sự phát triển của nền kinh tế số là bước phát
triển tất yếu, phù hợp với xu thế khi nền kinh tế
truyền thống đang dần bão hoà. Phát triển nền
kinh tế số sẽ mở ra nhiều cơ hội cho cả người
tiêu dùng, các doanh nghiệp (trong đó có cộng
đồng start - up Việt Nam), đồng thời, thách thức
cho nền quản trị quốc gia. Do vậy, thời gian tới,
để xây dựng từng bước và hoàn thiện nền kinh
tế số Việt Nam cần, thiết nghĩ các nhà quản trị
vĩ mô cần quan tâm một số vấn đề sau đây dưới
góc độ chính sách:
Một là, tạo lập được một môi trường, chính
sách tốt cho phát triển công nghệ số; từ đó là
động lực và nền tảng cần thiết cho phát triển
kinh tế số Việt Nam, trọng tâm là thực hiện tốt
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về tĕng cường nĕng lực tiếp
cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Trong đó, chú trọng xây dựng nền quản trị thông
minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ
số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh,
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đô thị thông minh,... Đối với nội dung này, công
tác quản trị quốc gia cần hướng đến 04 mục đích
chính sau:
(i). Xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật thông
tin có cấu hình mạnh, hiện đại, rộng khắp. Để
làm điều này phải việc “đi tắt, đón đầu”, cần có
chính sách phát triển doanh nghiệp phần mềm
tầm quốc gia và khu vực.
(ii). Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân sự công
nghệ thông tin mang đẳng cấp khu vực, quốc tế
và sử dụng hợp lí đội ngũ này trong nền kinh tế
số ở Việt Nam. Điều này đòi hỏi các nhà quản ý
giáo dục mạnh dạn đổi mới chương trình, mục
tiêu giáo dục công nghệ thông tin, từng bước
hình thành đội ngũ chuyên gia, tập hợp đông đảo
đội ngũ kỹ sư công nghệ thông tin kết hợp đầu
tư hợp lí ngân sách cho lĩnh vực này để thúc đẩy
phát triển về lâu dài cho nền kinh tế số.
(iii). Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng chính
phủ điện tử (E-Gov), chính phủ số có thể hoạt
động 24/24, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, hiện đại hóa nền hành chính quốc gia
và hình thành kho “dữ liệu kinh doanh, khởi
nghiệp” gắn kết với khu vực, quốc tế; từng bước
xây dựng một chính phủ gần với người dân và
doanh nghiệp mà cơ chế tương tác thông qua
mạng xã hội, trang thông tin, cổng thông tin và
các ứng dụng từ công nghệ thông tin điện tử.
(iv). Tĕng cường tính thuận lợi và tương thích
cửa nền quản trị quốc gia với yêu cầu phát triển
nền kinh tế số, thúc đẩy quá trình khởi nghiệp:
+ Đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính nhà
nước, tạo hành lang pháp lý, không gian khởi
nghiệp lảnh mạnh, nĕng động cho đổi mới, khởi
nghiệp, kiến tạo quốc gia.
+ Thúc đẩy, hỗ trợ dự án, ý tưởng khởi nghiệp
quốc gia; hình thành vườn ươm khởi nghiệp, gắn
doanh nghiệp và nhà khởi nghiệp, từng bước
hình thành thị trường thương mại ý tưởng và sản
phẩm khởi nghiệp.
Hai là, có lộ trình triển khai thực hiện chính
sách an toàn mạng trong bối cảnh kinh tế số nói
riêng, trong đó cần hướng tới các biện pháp về
bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu kinh doanh, ứng
phó xử lý sự cố, an ninh mạng, sự cố đường
truyền, Sự tự do lưu chuyển dữ liệu là yếu tố
nền tảng của nền kinh tế số. Vì vậy, Việt Nam
cần thúc đẩy các quốc gia ASEAN đối thoại với
nhau và với các đối tác để hài hòa chính sách,
tạo ra một môi trường số chung thống nhất, an
toàn và đảm bảo.
Ba là, các chính phủ cần cùng nhau tạo ra
một môi trường pháp lý cho thanh toán thông
thoáng hơn, quan tâm đến môi trường thanh toán
có yếu tố “số hóa”. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ
sung, ban hành mới các khuôn khổ pháp lý và
cơ chế chính sách cho phát triển thanh toán điện
tử, doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến, thương
mại trực tuyến,... Trong đó, khung pháp lý rõ
ràng, minh bạch và sự giám sát hợp lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với hệ thống thanh toán
điện tử là một yếu tố quan trọng trong việc tĕng
cường lòng tin của người sử dụng và giới doanh
nghiệp vào hệ thống thanh toán điện tử. Ngoài
ra, cần tĕng cường điều phối, hợp tác chính sách
phát triển dịch vụ thanh toán điện tử trong nước
và quốc tế, liên quốc gia, liên ngành. Chính phủ
cần đầu tư trực tiếp và có chính sách tiếp tục
khuyến khích và thu hút đầu tư của xã hội, đầu
tư tư nhân nhằm phát triển hạ tầng kỹ thuật cho
thanh toán điện tử. Tĕng cường các chính sách
khuyến khích phát triển các thị trường tiềm nĕng
ứng dụng thanh toán điện tử như thị trường giao
thông vận tải, logistic
Bốn là, ứng dụng một cách sâu rộng, hiệu quả
của công nghệ thông tin vào mọi hoạt động của
nền kinh tế, góp phần hình thành một nền kinh
tế số không biên giới, mang lại giá trị lợi nhuận
cao. Công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh
doanh cải tiến mô hình phát triển, tạo ra nhiều
ngành công nghiệp mới và xóa mờ đường biên
giới địa lý. Hiện nay, hầu hết nền kinh tế phát
triển trên thế giới có một chiến lược phát triển
113
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
công nghệ số, tập trung vào việc nghiên cứu để
có thể áp dụng công nghệ mới vào việc tĕng
trưởng kinh tế.
6. KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, “kinh tế số” là vấn đề khá mới
mẻ, cần được quan tâm nhận diện thấu đáo, có
chính sách hợp lí để từng bước đón nhận, hình
thành, xây dựng và phát triển trong bối cảnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đối với quá
trình phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời
gian tới, “kinh tế số” mang lại không gian mới
đầy hứa hẹn, triển vọng song đồng thời đặt ra
nhiều vấn đề chưa có tiền lệ trong quản trị quốc
gia. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận vấn đề này thấu
đáo, có chính sách và biện pháp hữu hiệu, tất
yếu, “kinh tế số” sẽ là đòn bẩy quan trọng góp
phần thực hiện mục tiêu tĕng trưởng bao trùm,
phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với đảm
bảo an sinh và giải quyết tốt thách thức về mặt
xã hội của nước ta./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. The Boston Consulting Group, Report - The Internet Economy in the G-20.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG,
Hà Nội.
3. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tĕng cường nĕng lực tiếp cận
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
4. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019, Hà Nội.
5. Google, Temasek (2018), e-Conomy SEA 2018 - Southeast Asia’s internet economy hits an inflec-
tion point.
6. Lê Thị Thanh Huyền (2017), Phát triển nền kinh tế số trong bối cảnh Việt Nam gia nhập yêu cầu
và AEC, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, số tháng 2/2017.
7. Karim Temsamani (2018), Nền kinh tế kỹ thuật số 200 tỉ USD của ASEAN, nhipcaudautu.vn,
https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/nen-kinh-te-ky-thuat-so-200-ti-usd-cua-asean-3324446/,
đĕng tải: 19/6/2018.
8. OECD (2013), “Measuring the Internet Economy: A Contribution to the Research Agenda”,OECD
Digital Economy Papers, No. 226, OECD Publishing.
9. Trpc Pte Ltd, Số hóa - Thực trạng và tiềm nĕng của nền kinh tế dựa trên Internet tại Châu Á.
10. Trung tâm Internet Việt Nam (2018), Báo cáo tài nguyên Internet Việt Nam nĕm 2018, Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_phat_trien_nen_kinh_te_so_o_viet_nam_mot_so_van_d.pdf