Chuyên đề Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của Tổng cục hải quan Việt nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Vấn đề thất thu thuế nói chung, trong đó có thất thu thuế nhập khẩu luôn là hai mặt trong cùng một vấn đề. Việc tìm ra nguyên nhân, giải quyết ngay từ đầu, từ khâu hoạch định chính sách đến cơ chế tổ chức thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiểm soát có hiệu quả tình trạng nợ đọng thuế, tiến tới hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nợ đọng thuế. Yêu cầu đặt ra cho chính sách thuế nhập khẩu là vừa bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trong đó mục tiêu bảo hộ phải đảm bảo thích ứng với các nguyên tắc của WTO và cam kết quốc tế. Trong điều kiện hàng rào phi thuế quan đã và đang xóa bỏ triệt để, chỉ dành chỗ cho hàng rào thuế quan; biện pháp thuế quan cũng chỉ dừng lại ở chỗ thuế quan hóa các hàng rào phi thuế quan. Ngoài ra, chính sách bảo hộ cũng phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử, trong phạm vi cam kết thuế quan thông quan mức thuế suất trần đối với từng dòng thuế; các biện pháp trợ cấp để hỗ trợ xuất khẩu cũng từng bước bị bãi bỏ. Do vậy, chinh sách ân hạn thuế được xem là biện pháp cứu cánh, là công cụ kinh tế chủ yếu mà chúng ta đã và đang áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn về vốn. Tuy nhiên, tính hai mặt của chính sách thuế nhập khẩu đã lộ khá rõ đó chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng thất thu thuế; nhưng mặt khác cũng đã góp phần khuyến khích những doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước có điều kiện giải quyết khó khăn về vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Chống thất thu thuế nhập khẩu trong quản lý nhà nước về hải quan của Tổng cục hải quan Việt nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g pháp tính thuế nhập khẩu theo mức tuyệt đối( gọi tắt là thuế tuyệt đối) là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm góp phần trong việc chống gian lận thương mại qua giá tính thuế đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Xuất phát từ tình hình thực tế và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, việc áp dụng thuế tuyệt đối đối với một số mặt hàng nhập khẩu ở nước ta trong thời gian tới là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo hộ các ngành sản xuất non trẻ trong nước, tăng cường công tác nhập khẩu nói chung, cũng như chức năng điều tiết vĩ mô của công cụ thuế nói riêng. Từ trước đến nay, phương pháp tính thuế nhập khẩu ở Viêt nam chủ yếu mới chỉ sử dụng tính thuế theo tỷ lệ phần trăm trên giá thuế của hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Đối với một số mặt hàng nhập khẩu, nếu doanh nghiệp nhập khẩu khai thấp giá tính thuế thì số tiền thuế thu được sẽ giảm đáng kể dù thuế suất được ấn định ở mức cao. Đồng thời, do mức thuế phải nộp thấp nên giá bán của các mặt hàng này trên thị trường trong nước sẽ thấp, không đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh. Thuế suất càng cao thì động cơ trốn thuế do khai thấp giá tính thuế càng lớn. Trong thời gian qua, khi triển khai áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo hiệp định trị giá GATT/WTO đã phát sinh tình trạng gian lận trốn thuế qua giá rất phổ biến. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có một công cụ quản lý mới nhằm chống gian lân thương mại mà không vi phạm các qui định của WTO. Thuế tuyệt đối sẽ là công cụ phù hợp vì đánh thuế không dựa trên giá trị hàng hóa. Thuế tuyệt đối sẽ phát huy vai trò của mình trong các trường hợp hàng nhập khẩu được khai giá tính thuế thấp khiến thuế phần trăm giảm tác dụng. Ví dụ như, một số mặt hàng nhập khẩu từ Trung quốc như gạch bộ vòi tắm, gạch ốp- lát, kính xây dựng, sứ vệ sinh…, được khai báo giá nhập khẩu thấp và bán với giá thấp hơn so với giá bình quân của các mặt hàng cùng chủng loại trên thị trường trong nước. Đây cũng là những mặt hàng có mức độ bảo hộ cao và có khả năng cung ứng của các doanh nghiệp trong nước nhìn chung đã đủ khả năng đáp ứng hoặc vượt mức cầu trong nước. Các doanh nghiệp trong nước đã và đang bị ảnh hưởng không nhỏ bởi tình trạng nhập khẩu và bán trên thị trường với giá thấp của các mặt hàng nói trên. Vì vậy, áp dụng thuế tuyệt đối đối với các mặt hàng này sẽ có tác dụng quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất, tạo ra sự công bằng và ổn định trên thị trường trong nước. Ngoài ra, trong công tác quản lý nhập khẩu, có một số mặt hàng rất khó xác định giá trị ngay cả khi đã áp dụng các phương pháp của hiệp đinh trị giá GATT/WTO, chẳng hạn như hàng điện tử, ô tô nhập khẩu đã qua sử dụng… Đối với nền kinh tế nước ta khi gia nhập WTO, việc nhập khẩu các mặt hàng này là tất yếu và có khả năng mở rộng. Đối với những mặt hàng này, thuế phần trăm giảm tác dụng vì mức thu được tính trên giá trị hàng hóa. Để quản lý và điều tiết hoạt động nhập khẩu đối với những mặt hàng này, thuế tuyệt đối sẽ là một công cụ phù hợp vì tính theo các tiêu chuẩn đo lường định hướng của hàng hóa. Ngoài ra, đối với hàng tiêu dùng nhập khẩu có giá trị nhỏ mà chi phí để xác định giá tính thuế lớn thì việc áp dụng thuế tuyệt đối sẽ có hiệu quả hơn so với thuế phần trăm Trong điều kiện xác định trị giá hải quan theo hiệp định trị giá GATT/WTO, để tránh những bất cập trong thời gian đầu thực hiện như các nước đã đi trước vì thiếu cơ sở dữ liệu thông tin về giá, thông tin về doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu; thiếu các biện pháp kiểm soát quá trình thanh toán giữa người mua và người bán; kể cả các trường hợp gian lận về giá tính thuế xuất khẩu thì biện pháp hữu hiệu nhất là áp dụng thuế tuyệt đối. Để đảm bảo tính đồng bộ và sử dụng khi cần thiết, trong trường hợp có gian lận thương mại qua giá tính thuế đối với mặt hàng nào đó trở thành phổ biến thì việc sử dụng thuế tuyệt đối có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất trong nước, phù hợp với cam kết quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung nội dung qui định về thuế tuyệt đối, theo hướng: bổ sung qui định về căn cứ tính thuế đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan và mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa; đồng thời qui định thẩm quyền và điều kiện áp dụng, đó là Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ tài chính sẽ quyết định mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối và mức thuế tuyệt đối trong trường hợp cần thiết, phù hợp với cam kết quốc tế. Trước mắt, có thể đưa các mặt hàng có thuế suất cao và đang bị thất thu thuế do doanh nghiệp khai giá tính thuế thấp hơn giá thực thanh toán; bia, rượu, ô tô mới nguyên chiếc, xe máy, hàng điện tử… vào diện mặt hàng phải chịu thuế tuyệt đối. 3.2.1.4. Về thời hạn nộp thuế Mặc dụ, nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất thu thuế nhập khẩu một phần do việc qui định cho phép ân hạn thời hạn nộp thuế nhưng về cơ bản, vệc ân hạn này đã góp phần hỗ trợ tích cực cho đại bộ phận các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông qua đó, các doanh nghiệp có điều kiện giảm thiểu chi phí trong việc vay vốn kinh doanh. Vì vậy, để tiếp tục đảm bảo thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, mặt khác vẫn phải đảm bảo chặt chẽ trong công tác quản lý, chống hiện tượng chây ỳ, lợi dụng cần qui định thêm các điều kiện ràng buộc như phải đảm bảo mức độ tín nhiệm hoặc có bảo lãnh, thế chấp, tín chấp…; gắn với trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc nộp thuế, hạn chế nợ đọng kéo dài, cần phải sửa đổi nội dung qui định về thời hạn nộp thuế, theo hướng tiếp tục cho phép các doanh nghiệp được hưởng thời hạn nộp thuế tùy vào mục đích nhập khẩu của hàng hóa. Các điều kiện ràng buộc để được hưởng ân hạn nộp thuế, theo hướng đối tượng nộp thuế đáp ứng được một trong hai điều kiện: đối tượng nộp thuế có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian nhất định ít nhất là một năm tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà được cơ quan hải quan xác nhận không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, không có nợ thuế quá hạn, không còn nợ tiền phạt, chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo qui định của pháp luật hoặc được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Hết thời hạn bảo lãnh hoặc thời hạn nộp thuế mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bào lãnh có trách nhiệm nộp số tiền thuế và số tiền phạt chậm nộp thay cho đối tượng nộp thuế. Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không có đủ hai điều kiện qui định tại khoản này thì phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng. 3.2.1.5. Đối với chính sách ưu đãi thuế Việc miễn thuế, giảm thuế là một trong những bộ phận cấu thành trong chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Mặc dù, theo chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu giảm dần và tiến tới xóa bỏ các ưu đãi thuế. Tuy nhiên, việc miễn thuế, giảm thuế là một trong những chính sách để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Do vậy, việc xóa bỏ những ưu đãi này cần có thời gian, trong những năm trước mắt nên tiếp tục duy trì những ưu đãi này, nhưng cần qui định rõ ràng, minh bạch và không phân biệt đối xử. Việc ưu đãi thuế thực sự đến từng dự án, từng đối tượng ưu đãi nhằm góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư; hỗ trợ các ngành, lĩnh vực cần nhập khẩu để hiện đại hóa trang thiết bị. Để đảm bảo sự thống nhất, cần hệ thống hóa các qui định hiện hành về miễn thuế nhập khẩu theo nguyên tắc chọn những qui định miễn thuế, xét miễn thuế ở mức cao nhất để qui định áp dụng chung; đồng thời bỏ qui định không khả thi, khó có căn cứ để thực hiện trên thực tế như qui định miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng này sẽ mở rộng ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư trong nước và đảm bảo bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Về thủ tục miễn thuế cần đơn giản, công khai, minh bạch để đối tượng nộp thuế căn cứ chính sách miễn thuế tự xác định và tự chịu trách nhiệm về xác định chế độ miễn thuế; cơ quan hải quan kiểm tra tính chính xác của việc kê khai để được hưởng ưu đãi về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. 3.2.2. Giải pháp tổ chức hạn chế thất thu thuế nhập khẩu 3.2.2.1. Giải pháp tổng quát Trước hết, phải cho tiến hành phân tích nợ thuế. Nghĩa là, hàng tháng, hàng quí, cơ quan hải quan phải căn cứ vào số theo dõi nợ thuế trên chương trình quản lý thuế, quản lý nợ đọng thuế; đồng thời đôn đốc thu nợ phải thực hiện công tác tổng hợp, phân tích, đánh giá theo số thuế còn nợ, tuổi nợ( thời gian đã nợ) của từng thời kỳ kê khai thuế theo từng loại thuế, từng đối tượng nợ thuế; rà soát từng trường hợp nợ theo nguyên nhân và tình trạng nợ để phân tích các khoản nợ nhằm áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp. Theo đó, trên cơ sở phân tích đánh giá, bộ phận thu nợ phân công cán bộ thực hiện đôn đốc các đối tượng nộp thuế có các khoản nợ đọng, nợ có khả năng thu hồi mà việc giải quyết căn cứ theo qui định của luật hoặc không cần thiết phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Với các đối tượng nộp thuế chuẩn bị cổ phần hóa cố tình dây dưa để chờ được xóa nợ, hay các đối tượng nộp thuế chây ỳ, lảng tránh việc thanh toán nợ thuế, đòi hỏi phải phân tích báo cáo tài chính thì cơ quan hải quan phải phối hợp với cơ quan thuế để thực hiện… Khâu tiếp theo là phải lập nhật ký và hồ sơ thu nợ, đồng thời đưa ra các biện pháp đã áp dụng đôn đốc thu nợ và theo dõi kết quả thu nợ. Có thể nói, đây là khâu quan trọng vì trên cơ sở tiến hành phân loại đối tượng nộp thuế theo mức độ để lựa chọn thu nợ theo thứ tự ưu tiên đảm bảo cân đối nguồn nhân lực hiện có. Cần qui định về thủ tục, trách nhiệm của cơ quan hải quan và cơ quan có liên quan trong việc thực hiện thu nợ thuế và cưỡng chế thuế. Chẳng hạn như qui định cụ thể cho cơ quan hải quan được quyền xem xét, cho phép đối tượng nộp thuế nộp dần những khoản nợ thuế tồn tại phù hợp với khả năng tài chính của đối tượng nộp thuế, đảm bảo việc thu nợ thuế được khả thi. Hoặc qui định chính sách phạt nộp chậm tiền thuế phù hợp với thông lệ quốc tế theo hướng đối tượng nộp thuế phải trả tiền lãi tính trên số thuế nợ ngân sách nhà nước kể từ ngày hết hạn nộp thuế. Đồng thời cần có biện pháp kiên quyết xử lý những doanh nghiệp không tuân thủ việc gửi báo cáo tài chính. Bởi báo cáo tài chính là một hồ sơ không thể thiếu được khi phân tích tình hình tài chính cũng như nợ thuế của doanh nghiệp. Thông qua đó, xác định doanh nghiệp có thực sự khó khăn hay không? Nguyên nhân khách quan hay chủ quan của đối tượng nộp thuế dẫn đến tình trạng nợ thuế là gì?... Ngoài ra, cần có hướng dẫn rõ ràng về các biện pháp cũng như trình tự, thủ tục để thực hiện các biện pháp cưỡng chế trong lĩnh vực thuế; xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu phân loại nợ; xây dựng các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác quản lý thu nợ và coi đây là một tiêu chí để đánh giá tình hình quản lý thu thuế tại các địa phương ngoài việc thực hiện kế hoạch thu ngân sách được giao hàng năm. Trên cơ sở nợ, doanh nghiệp đăng ký kế hoạch trả nợ, gắn việc trả nợ với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Về công tác truy thu nợ đọng thuế, việc cần phải làm hiện nay là sau khi thống kê được toàn bộ nợ đọng thuế tính đến thời điểm hiện nay và phân loại số nợ đọng thuế theo các tiêu chí khác nhau thi cơ quan hải quan phải xây dựng biện pháp xử lý cụ thể với từng loại nợ thuế. 3.2.2.2. Giải pháp cụ thể - Gắn việc trả nợ tiền thuế với điều kiện để được ân hạn và ưu tiên làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: Trên cơ sở qui định của pháp luật về điều kiện được ân hạn thuế, nguyên tắc kiểm tra hải quan, đó là; không còn nợ thuế quá hạn hoặc có nợ thuế nhưng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép giãn nợ; không còn nợ tiền phạt và kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sơ phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để đảm bảo quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, đối với loại nợ thuế của các doanh nghiệp đang hoạt động bình thường mà việc chậm nộp không phải vì nguyên nhân khách quan thì cần phải tiến hành truy thu ngay đối với số thuế doanh nghiệp còn nợ, không cho phép chậm nộp, gắn việc trả nợ với điều kiện được phép ân hạn thuế và được ưu tiên khi làm thủ tục hải quan. Để đảm bảo thực hiện biện pháp chế tài theo đúng qui định của pháp luật để truy thu như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp ở các ngân hàng, thu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đòi hỏi khi làm thủ tục hải quank doanh nghiệp phải khai báo tất cả các tài khoản và nơi giao dịch để thanh toán tiền hàng. Khi cơ quan hải quan cập nhật thông tin về doanh nghiệp để đánh giá mức độ chấp hành pháp luật về hải quan và pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, yêu cầu doanh nghiệp phải khai báo đầy đủ các chỉ tiêu thông tin, trong đó việc cung cấp thông tin về tài khoản giao dịch của doanh nghiệp được xem là chỉ tiêu bắt buộc; trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện doanh nghiệp khai không đúng được xem là vi phạm chế độ khai hải quan - Gắn việc trả nợ thuế với điều kiện mở tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Mặc dù, nguyên nhân tiến hành thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phải được làm thủ tục hải quan, chịu sự kiểm tra giám sát hải quan, vận chuyển đúng tuyến đường, qua cửa khẩu theo qui định của pháp luật. Tức là, người khai hải quan có thể khai báo và làm thủ tục hải quan tại chi Cục hải quan cửa khẩu hoặc chi Cục hải quan ngoài cửa khẩu trên địa bàn cả nước. Như vậy, đối với doanh nghiệp, việc đăng ký khai hải quan ở cửa khẩu nào thuận lợi nhất cho việc kinh doanh sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển, chi phi hành chính khác góp phần giảm chi phí lưu thông, chi phí sản xuất… Nhưng để gắn việc trả nợ thuế đối với việc khai báo và làm thủ tục hải quan trong trường hợp người khai hải quan còn nợ tiền thuế thì cơ quan hải quan chỉ được phép doanh nghiệp mở tờ khai tại chi cục hải quan nơi đang quản lý số thuế nợ đọng của doanh nghiệp. Có như vậy, doanh nghiệp xuất khẩu nếu xét thấy việc khống chế nơi mở tờ khai hải quan sẽ là khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, ảnh hưởng đến hoạtd động sản xuất kinh doanh thì phải thanh toán hết tiền nợ thuế. Làm được điều này mới có thể gắn việc sử dụng biện pháp kê biên tài sản, cưỡng chế làm thủ tục hải quan đối với lô hàng nhập khẩu tiếp theo và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan hải quan theo dõi nợ đọng thuế thực hiện việc thu hồi nợ đọng thuế. Các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu còn nợ thuế hàng nhập khẩu phải có kế hoạch trả nợ dần, trả một phần nợ cũ trước khi mở tờ khai nhập khẩu và không để phát sinh nợ thuế các lô hàng nhập khẩu mới; đối với các khoản nợ của các doanh nghiệp đang hoạt động bình thường, phải thu đòi, đồng thời vẫn tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, nhưng vẫn tìm mọi cách thu hồi dần số nợ đọng thuế. Vì vậy, cần có cơ chế cho phép doanh nghiệp được phép tiếp tục hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa khi và chỉ khi doanh nghiệp phải nộp thuế ngay cho các lô hàng mới và một phần số nợ thuế cũ trước khi thông quan hàng hóa. - Đối với trường hợp khoanh nợ: Bản chất của việc khoanh nợ thuế là xem xét thực trạng về khả năng trả nợ của đối tượng nộp thuế. Trong điều kiện doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ đang lâm vào tình trạng giải thể, phá sản thì khi giải thể, phá sản phải áp dụng các biện pháp và trình tự thu hồi nợ theo qui định của pháp luật về giải thể, phá sản. Trên thực tế, khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng làm ăn thô lỗ phải tuyên bố phá sản thì khả năng thu hồi nợ thuế rất thấp, vì việc thu hồi nợ thuế cũng được xếp vào ưu tiên nhưng sau khi đã thanh toán các khoản tiền lương và thu nhập của người lao động. Vì vậy, khi phát sinh tình huống này thì cơ quan hải quan cần theo dõi chặt chẽ, phối hợp với cơ quan thi hành án để xử lý dứt điểm sau khi doanh nghiệp làm thủ tục tuyên bố phá sản. Nếu khoản nợ tiền thuế sau khi thi hành án mà vẫn còn nợ thì làm thủ tục xóa nợ theo đúng qui định của pháp luật. - Đối với trường hợp giãn nợ: Trên cơ sở qui định hiện hành, việc giãn nợ thuế được thực hiện trong trường hợp: Doanh nghiệp nợ thuế không có khả năng nộp ngân sách nhà nước do các nguyên nhân khách quan như: thay đổi chính sách thuế và thu ngân sách nhà nước làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp; di chuyển địa điểm kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; thiệt hại do thiên tai. Thời gian doanh nghiệp được chậm nộp các khoản nợ thuế tối đa là 12 tháng, kể từ ngày xác định nợ, hoặc doanh nghiệp nợ thuế do chưa được nhà nước giải quyết nguồn vốn, thì được giãn nợ cho tới khi doanh nghiệp được nhà nước giải quyết nguồn vốn. Việc giãn nợ thuế tức là gia tăng thời gian ân hạn thuế, vì vậy cần xác định rõ đối tượng cần giãn nợ, khi xếp vào đối tượng được giãn nợ thì phải gắn việc trả nợ với điều kiện để được ân hạn, miễn kiểm tra thực tế đối với những lô hàng tiếp theo. Riêng đối với nợ thuế do chưa được nhà nước giải quyết nguồn kinh phí để thanh toán thì cần khắc phục bằng cách khi xét duyệt dự toán mua sắm, nhập khẩu trang thiết bị phải dự toán đầy đủ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước; việc nhập khẩu phải trên cơ sở dự toán được duyệt và tiến độ cấp phát kinh phí. Cơ quan hải quan theo dõi và đôn đốc thường xuyên, nếu doanh nghiệp napf để phát sinh nợ quá hạn thì áp dụng ngay các biện pháp chế tài như nêu trên để thu hồi nợ. - Biện pháp xử lý các khoản nợ được xóa: Theo qui định hiện hành, doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu bị truy thu tiền thuếm tiền phạt đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu do nguyên nhân khách quan như chính sách thay đổi, do văn bản hướng dẫn thực hiện không rõ ràng, không đầy đủ làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối tượng xóa nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thuộc đối tượng giao bán, chuyển sang công ty Cố phần, sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước khác, bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước thuộc đối tượng được giao, bán theo Nghị định số 103/1999/NĐ- CP ngày 10/9/1999 của chính phủ, Doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần và Doanh nghiệp nhà nước cho sáp nhập vào Doanh nghiệp Nhà nước khác. Doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, bị lỗ, nợ đọng thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước không có khả năng hoàn trả, được nhà nước sáp nhập vào doanh nghiệp nhà nước khác, mà doanh nghiệp nhận sáp nhập không có khả năng thanh toán các khoản nợ thuế và các khoản phải nộp Ngân sách nhà nước của doanh nghiệp sáp nhập hoặc đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ về tài chính và tín dụng mà doanh nghiệp nợ thuế vẫn chưa giải quyết được hết nợ thì doanh nghiệp nhận sáp nhập lập hồ sơ để xem xét xóa nợ đọng thuế. Số nợ thuế được xóa tối đa bằng số còn nợ thuế của doanh nghiệp sáp nhập tình đến thời điểm có quyết định sáp nhập, nhưng không vượt quá số lỗ còn lại của doanh nghiệp sáp nhập tính đến thời điểm sáp nhập. Ngoài ra, xóa nợ thuế và khoản phạt đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu đang còn nợ thuế, tiền phạt thuế xuất khẩu, nhập khẩu không thuộc đối tượng và trường hợp được xử lý giãn nợ, xóa nợ theo các trường hợp khác, nếu do nguyên nhân thay đổi chính sách hoặc văn bản hướng dẫn thực hiện không rõ ràng, không đầy đủ, dẫn tới việc hiểu và áp dụng kê khai, tính thuế khác nhau; nếu có đủ căn cứ xác định lại số phải nộp thấp hơn số đã thông báo nộp thuế của cơ quan hải quan thì được xóa số tiền thuế, tiền phạt tính không đúng. Việc xử lý xóa nợ tiền thuế, tiền phạt bị truy thu do các nguyên nhân trên sẽ xem xét cho từng trường hợp cụ thể. Cơ quan hải quan địa phương rà soát và kiểm tra các điều kiện được xóa. Nếu thỏa mãn thì phải tiến hành xóa nợ ngay theo đúng qui định. - Đối với các khoản nợ thuế của các doanh nghiệp bỏ trốn, chuyển sang trụ sở mới nhưng không khai báo: Đối với loại nợ này, cơ quan hải quan cần có sự phối kết hợp với cơ quan nhà nước khác như: Cục thống kê, Sở kế hoạch đầu tư, cơ quan công an, cơ quan thuế để truy tìm và xử lý truy thu. Trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh, trong đó có địa chỉ, chứng minh nhân dân,… của chủ doanh nghiệp, các thành viên trong Hội đồng sáng lập, cơ quan quản lý đầu tư cung cấp cho cơ quan hải quan để chủ động truy tìm giám đốc doanh nghiệp( người đại diện pháp lý của doanh nghiệp) hoặc chủ doanh nghiệp( người đầu tư thành lập doanh nghiệp) để có biện pháp xử lý thích hợp: + Nếu tìm ra địa chỉ mới của doanh nghiệp thì yêu cầu doanh nghiệp nộp số nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Doanh nghiệp phải làm cam kết thời hạn trả nợ, trên cơ sở đó, cơ quan hải quan tổ chức thu hồi nợ đọng; đồng thời phối hợp với cơ quan công an theo dõi đối tượng. Đối với loại nợ đọng này, cơ quan hải quan cần áp dụng các biện pháp mạnh như phong tỏa tài khoản ngân hàng, kê biên tài sản, đưa tên lên phương tiện thông tin đại chúng. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục chây ỳ không chịu nộp thuế thì đề nghị truy tố về tội trốn thuế. + Trường hợp không tìm thấy địa chỉ mới của doanh nghiệp do chủ động bỏ trốn, hoặc giải thể, phá sản nhưng không tuân thủ qui trình giải thể, phá sản thì chuyển cơ quan công an truy tố về hành vi trốn thuế. Nói chung, nợ thuế của các doanh nghiệp cố tình chây ỳ, không chịu thanh toán thì cơ quan hải quan, cơ quan thuế, cơ quan ngân hàng ở địa phương nơi doanh nghiệp mở tài khoản áp dụng các biện pháp mạnh như nêu tên lên phương tiện thông tin đại chúng, phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, thu giữ hàng hóa và thậm chí đề nghị truy tố trước pháp luật đối với doanh nghiệp chây ỳ không chịu nộp thuế để thu hồi nợ - Đối với các khoản nợ khác: + Nợ chờ ghi thu- ghi chi: Từ năm 2004 đã xóa bỏ cơ chế ghi thu- ghi chi, thay vào đó là ngân sách nhà nước cấp phát đủ tiền thuế và các khoản phải nộp đối với hàng hóa nhập khẩu cho đơn vị dự toán. Vì vậy, đối với khoản nợ này, cơ quan hải quan làm việc cụ thể với cơ quan tài chính để gắn việc cấp phát ngân sách với việc trả nợ thuế. + Nợ do chờ xét miễn thuế: Đối với nợ thuế do chờ xét miễn thuế thì phải cải tiến qui trình, thủ tục xét miễn thếu, gắn trách nhiệm miễn thuế với nghĩa vụ của cơ quan hải quan, không thể gắn trách nhiệm của doanh nghiệp nếu đã nộp đủ các chứng từ theo qui định để được xét miễn thuế. Mặc dù đã quá thời hạn nộp thuế( nợ đọng) nhưng việc thống kê đối với các khoản nợ thuế do chờ thủ tục ghi thu, ghi chi, hoặc chờ xét miễn thuế cần phải theo dõi và có biện pháp xử lý thích ứng. - Nợ thuế do thực hiện chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe gắn máy: Khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn bình quân khoảng 32% trong tổng số nợ đọng thuế, vì vậy giải quyết dứt điểm khoản nợ này có ý nghĩa rất lớn, góp phần làm lành mạnh hóa tình trạng nợ đọng thuế hiện nay. Để làm được điều đó, cần phải gắn việc trả nợ thuế với việc làm thủ tục nhập khẩu vật tư, linh kiện, phụ tùng, giải quyết ân hạn thuế và cấp giấy chứng nhận hoàn thành thủ tục hải quan để đăng ký lưu hành; đồng thời nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục chây ỳ, không nộp thuế, thì không bán hóa đơn. Quá thời hạn cam kết trả nợ được xem là trốn thuế thì chuyển hồ sơ cho cơ quan công an xử lý về hành vi trốn thuế. Tuy nhiên, do bất cập trong quá trình thực hiện chính sách theo tỷ lệ nội địa hóa, nên cần áp dụng hài hòa giữa biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế, thời hạn cam kết nộp tiền nợ thuế cần cụ thể để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện, cụ thể là doanh nghiệp phải đăng ký kế hoạch nộp thuế theo thời gian đối với cơ quan hải quan, theo nguyên tắc phải nộp ngay số thuế mới phát sinh( vì thuộc đối tượng không được áp dụng chế độ ân hạn) và trả nợ một phần số nợ đọng. Số tiền trả nợ thuế do doanh nghiệp đăng ký với cơ quan hải quan nhưng thời hạn tối đa không quá 2 năm ( đối với số nợ thuế dưới 20 tỷ đồng) và 3 năm( đối với số nợ thuế trên 20 tỷ đồng). - Đối với các khoản nợ với số tiền thuế không quá lớn mà chi phí trong việc theo dõi, đôn đốc thu hồi nợ thuế có thể lớn hơn số tiền thuế còn nợ đọng: Theo chuẩn mực của công ước KYOTO, đối với các khoản thu mà chi phí hành thu lớn hơn số tiền thuế còn phải thu thì pháp luật quốc gia qui định mức không thu. Vì vậy, sau khi rà soát lại tất cả các trường hợp nợ đọng và yêu cầu nộp ngay số tiền còn nợ đọng, nếu thuộc đối tượng giải thể, phá sản… nếu thuộc đối tượng nộp khó đòi thì xem xét xóa nợ. Đối với điều kiện nước ta, mức tối thiểu có thể là 10 triệu đồng. Mức tối thiểu trên đây dựa vào mức chỉ đạo của thủ tướng Chính phủ về biện pháp chưa cưỡng chế làm thủ tục hải quan đối với số nợ đọng dưới 10 triệu đồng. Theo thống kê, khoản nợ dưới 10 triệu đồng/ doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong số doanh nghiệp nợ đọng thuế, chỉ tính riêng cục hải quan TP Hồ Chí Minh, số nợ thuế thuộc đối tượng này chiếm trên 50% trong tổng số doanh nghiệp có phát sinh nợ đọng thuế. Việc theo dõi nợ thuế phải hết sức cụ thể, chi tiết từng doanh nghiệp, từng loại nợ thuế, từng tờ khai… nên việc theo dõi hết sức công phu và tốn kém thời gian, tiền bạc và nguồn nhân lực. Về lâu dài, để giảm bớt thời gian vào việc theo dõi các khoản nợ thuế ở mức độ nhỏ cần tính đến việc phải nộp thuế ngay trước khi thông quan; nhưng đối với các khoản nợ đọng tiền thuế ở mức từ 10 triệu đồng trở xuống cần áp dụng điều kiện bắt buộc thu hồi ngay trước khi đăng kí làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; khuyến khích doanh nghiệp chủ động nộp tiền nợ thuế, nếu nộp ngay cho phép doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi ân hạn thuế và miễn kiểm tra thực tế như đối với doanh nghiệp khác có quá trình chấp hành tốt pháp luật thuế và hải quan. Đồng thời, khi triển khai thực hiện công ước KYOTO, cũng là thời điểm xác định các khoản tiền thuế phát sinh mới từ 10 triệu đồng trở xuống thì đối tượng nộp thuế phải nộp ngay trước khi thông quan hàng hóa mà không phải xem xét điều kiện để được hưởng ân hạn thuế. 3.2.2.3. Giải pháp khác - Mở rộng loại hình kho ngoại quan, kho bảo thuế và chợ nguyên phụ liệu để góp phần đảm bảo kịp thời nhu cầu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu: Theo pháp luật về hải quan và thông lệ quốc tế thì kho bảo thuế là kho được thành lập để lưu giữ nguyên liệu nhập khẩu dùng để cung ứng cho sản xuất của chính doanh nghiệp có kho bảo thuế. Nguyên liệu nhập khẩu đưa vào kho bảo thuế phải chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan; khi sử dụng, hàng hóa đó phải nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác. Còn kho ngoại quan là khu vực kho, bãi được thành lập trên lãnh thổ Việt nam, ngăn cách với khu vực xung quanh để tạm lưu giữ, bảo quản hoặc thực hiện một số dịch vụ đối với hàng hóa từ nước ngoài, hoặc từ trong nước đưa vào kho theo hợp đồng thuế kho ngoại quan được ký giữa chủ kho ngoại quan và chủ hàng. Khi có nhu cầu về vật tư, hàng hóa, doanh nghiệp nhập khẩu làm thủ tục hải quan, nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác trước khi thông quan. Đối với loại hình chợ nguyên phụ liệu được tổ chức hoạt động dưới hình thức khu phi thuế quan, nhằm tạo điều kiện cho việc chủ động nguồn nguyên liệu mà không chịu áp lực phải nhập khẩu để dự trữ vật tư, nguyên liệu để phục vụ kịp thời nhu cầu cho sản xuất. Như vậy, nếu hội đủ các điều kiện đảm bảo thực hiện tốt chế độ kiểm tra, giám sát hải quan thì việc phát triển kho ngoại quan, kho bảo thuế, chợ nguyên phụ liệu có tác dụng góp phần đảm bảo kịp thời nhu cầu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, đảm bảo quản lý chặt chẽ từ khi thông quan đến quá trình sản xuất, nhưng khong bị lệ thuộc vào việc nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế khác để nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để dự trữ phục vụ sản xuất. Đây được xem là bước đi cần thiết để từng bước xóa bỏ cơ chế ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyen liệu( 275 ngày) như qui định hiện hành. - Sử dụng đồng bộ chính sách ân hạn thuế, bảo lãnh và ký quĩ nộp thuế nhằm đảm bảo thu đủ thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế: Để tiếp tục đảm bảo môi trường thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chấp hành tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời vẫn phải đảm bảo chặt chẽ trong công tác quản lý, chống hiện tượng chây ỳ, lợi dụng để chiếm đoạt tiền thuế cần qui định thêm các điều kiện ràng buộc như phải đảm bảo mức độ tín nhiệm hoặc có bảo lãnh, tín chấp… để gắn trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc nộp thuế, hạn chế nợ đọng thuế kéo dài. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả mục tiêu khuyến khích tối đa xuất khẩu, phát triển sản xuất trong nước, nhưng vẫn đảm bảo thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước, sớm chấm dứt tình trạng nợ đọng, chiếm dụng tiền thuế thì cần phải sửa đổi, bổ sung về thời hạn nộp thuế theo hướng chỉ cho phép đối tượng nộp thuế đảm bảo đủ tín nhiệm, có quá trình chấp hành tốt chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, thực hiện đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước. Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đảm bảo điều kiện theo tiêu chí trên đây thì phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng hoặc phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng về số thuế phải nộp. Việc sửa đổi, bổ sung qui định về thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu như trên là phù hợp với chuẩn mực về bảo lãnh thuế theo công ước KYOTO. Theo công ước KYOTO, cơ quan hải quan được quyền yêu cầu bảo lãnh hay vật thế chấp để đảm bảo rằng người khai hải quan sẽ thực hiện đầy đủ bất cư nghĩa vụ nào về thủ tục hải quan và nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. Mục đích trước tiên của việc bảo lãnh là đảm bảo việc nộp các khoản thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Mặt khác, việc bảo lãnh cũng có thể được yêu cầu để đảm bảo việc hoàn thành bất cứ một nghĩa vụ nào khác mà ngừoi khai hải quan có thể liên quan đến thủ tục hải quan hay bất cứ yêu cầu nào khác được cơ quan hải quan qui định cụ thể. Do đó, luật pháp quốc gia phải bao gồm những qui định để cơ quan hải quan có thể nhận một khoản bảo lãnh theo bất cứ thủ tục hay thông lệ thích hợp. Vì việc cấp một khoản bảo lãnh thường phải phát sinh chi phí và các khoản chi phí này được cộng vào chi phí kinh doanh hàng hóa xuất nhập khẩu. Cho nên những qui định liên quan đến việc bảo lãnh cần phải qui định cụ, rõ ràng đối với đối tượng nộp thuế. Luật pháp quốc gia sẽ qui định chi tiết về việc xác định việc bảo lãnh, hình thức trong đó khoản bảo lãnh được qui định thống nhất. Khi cơ quan hải quan yêu cầu bảo lãnh để đảm bảo việc nộp thuế và bất cứ nghĩa vụ nào khác thì đối tượng nộp thuế phải thỏa thuận với tổ chức có tư cách pháp nhân đứng ra bảo lãnh về số thuế phải nộp. Tồ chức đứng ra bảo lãnh phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế trước cơ quan hải quan. Khoản bảo lãnh thường phải tương đương với khoản giá trị thực sự hay qui ước có thể phát sinh từ nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế đối với cơ quan hải quan. Ở nước ta, việc xác định cơ chế bảo lãnh theo phương thức tín chấp đã được áp dụng từ lâu đối với các khoản bão lãnh tín dụng cho vay. Tuy nhiên, bảo lãnh cho đối tượng nộp thuế về các khoản thuế phải nộp chưa được áp dụng. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, việc áp dụng đồng bộ việc bảo lãnh bằng tín chấp dựa trên cơ sở đánh giá chấp hành tốt pháp luật về thuế. Ngoài ra, yêu cầu đảm bảo tính minh bạch trong việc hạch toán, chế độ hóa đơn chứng từ, chế độ thanh quyết toán các khoản phải thu, phải trả cũng là điều kiện cần thiết. Khi đó cơ quan hải quan hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy xác nhận được xem là hình thức bảo lãnh để được hưởng thời hạn nộp thuế theo qui định của pháp luật. Khi đối tượng nộp thuế được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp, thì thời hạn nộp thuế thực hiện theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá thời hạn nộp thuế. Trong trường hợp thời hạn bảo lãnh ngắn hơn thời hạn nộp thuế hoặc chưa hết thời hạn nộp thuế mà đối tượng nộp thuế chưa nộp thuế thì tổ chức bảo lãnh phải có trách nhiệm nộp số tiền thuế. Trong điều kiện cụ thể của Việt nam, có thể áp dụng như kinh nghiệm của nhiều nước, sau khi cơ quan hải quan chấp nhận bảo lãnh, cả tổ chức bảo lãnh hay người bảo lãnh đều không được hủy ngang bảo lãnh đó, cho tới khi cơ quan hải quan thông báo rằng qui trình, thủ tục hải quan và các nghĩa vụ nộp thuế đã được hoàn tất. Hình thức bảo lãnh được thực hiện dưới dạng thư bảo lãnh. Việc bảo lãnh số thuế phải nộp sẽ phát sinh chi phí kinh doanh cho đối tượng nộp thuế. Cũng theo chuẩn mực công ước KYOTO thì yêu cầu nộp bảo lãnh, khoản bảo lãnh phải nộp ở mức càng thấp càng tốt và đối với việc nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các khoản thuế khác không vượt quá tổng số thuế phải nộp. Vì vậy, việc áp dụng hình thức bảo lãnh tín dụng cần phải xuất phát từ lợi ích của đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế sẽ tính toán giữa lợi ích mang lại giữa việc phải phát sinh chi phí bảo lãnh và nộp xong thuế trước khi nhận hàng để quyết định việc áp dụng cơ chế bảo lãnh thuế hoặc nộp xong thuế trước khi nhận hàng. Từ những lý giải nêu trên, việc áp dụng hình thức bảo lãnh nào cũng cần ở mức độ cần thiết để đảm bảo thu đủ tiền thuế cho ngân sách nhà nước. Việc thực hiện các chuẩn mực theo công ước KYOTO nêu trên đảm bảo vừa thu đủ tiền thuế, nhưng cũng không tạo cho đối tượng nộp thuế quá khó khăn trong việc nộp thuế. Đây là điều kiện tạo nên môi trường sản xuất, kinh doanh được bình đẳng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa nhà nước và đối tượng nộp thuế cần được nghiên cứu để triển khai áp dụng tại Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Việt nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO. - Tăng cường công tác tuyên truyền: Để thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thì đối tượng nộp thuế cần phải có khả năng hiểu biết pháp luật về thuế. Trong trường hợp đối tượng nộp thuế chưa nắm bắt đầy đủ, hoặc không thể tự mình xác định số thuế phải nộp thì cơ quan hải quan phải có trách nhiệm hướng dẫn cho đối tượng nộp thuế. Vì vậy, cần qui định rõ quyền của đối tượng nộp thuế được yêu cầu cơ quan hải quan trong việc hướng dẫn thực hiện pháp luật thuế; cung cấp thông tin tài liệu thực hiện nghĩa vụ thuế; giải thích việc tính thuế, ấn định thuế đặc biệt là được giữ bí mật thông tin; được bồi thường thiệt hại do cơ quan hải quan, công chức hải quan không làm đúng gây ra. Việc bổ sung một số quyền cho người nộp thuế là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý thuế như bảo mật thông tin về đối tượng nộp thuế để khẳng định độ tin cậy của người nộp thuế với cơ quan hải quan trong việc bảo mật bí mật kinh doanh của người nộp thuế. Nếu không đảm bảo bí mật thông tin cho người nộp thuế thì sẽ ít có khả năng người nộp thuế cung cấp thông tin thiếu trung thực, dẫn đến cơ quan hải quan không có cơ sở thông tin để quản lý thuế. Ngoài ra, để làm tốt công tác tổ chức thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến và hướng dẫn về chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để đối tượng nộp thuế thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tự kê khai thuế, tự nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thông qua công tác tuyên truyền làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội hiểu rõ bản chất của thuế nói chung, trong đó có thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Từ đó, tạo sự đồng tình cao đối với các chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Nhà nước, sẵn sàng và tự nguyện cung cấp thông tin và phối hợp với cơ quan hải quan để thu thuế, lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Vận động mọi người thực hiện tốt các chính sách thuế của Nhà nước. Mục tiêu của công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế là thông qua việc cung cấp đầy đủ và có chất lượng cao dịch vụ hỗ trọ về thuế để nâng cao tính tuân thủ, tự giác chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo qui định của các luật thuế trên cơ sở hiểu nội dung qui định cụ thể của các chính sách thuế, các thủ tục hành chính về thuế. Nội dung công tác tuyên truyền, hướng dẫn nghiệp vụ về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm: + Tuyên truyền, phổ biến đầy đủ, kịp thời cho mọi đối tượng có liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu về chính sách thuế, về thủ tục kê khai, nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. + Giải đáp kịp thời những vướng mắc về chính sách thuế, mã số thuế, thuế suất, giá tính thuế, thủ tục nộp, thanh quyết toán các nghĩa vụ thuế phải nộp. + Xây dựng cơ sở dữ liệu và các chỉ tiêu đánh giá, phân loại đối tượng nộp thuế Để có cơ sở trong việc xác định trị giá tính thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều VII- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), trong đó để làm rõ nội dung khai báo và thực tế phải thanh toán của đối tượng nộp thuế với nhà xuất khẩu cần phải có cơ sở thông tin chính xác, kịp thời để làm cơ sở đưa ra quyết định áp dụng phương pháp xác định trị giá tính thuế cho phù hợp. Bên cạnh đó, để tránh sự tranh chấp giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan trong việc phân loại, áp mã hàng hóa cần phải nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ phân tích, phân loại hàng hóa phục vụ kịp thời thông quan hàng hóa, đồng thời hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện việc tự kê khai thuế, nộp thuế được chính xác. Từ đó, sẽ góp phần làm giảm thiểu những thay đổi về số thuế phải nộp và số thuế đã nộp cũng là tiền đề để nhằm hạn chế nợ đọng thuế. Ngoài ra, như đã phân tích, một trong những nguyên nhân phát sinh tình trạng nợ đọng thuế là việc điều trỉnh số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp sau khi hàng hóa đã được thông quan, vì vậy phần lớn đối tượng nộp thuế đều cho rằng trách nhiệm chính do cơ quan hải quan. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức hải quan trong việc phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, cần làm tốt công tác xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về giá tính thuế; tăng cường các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ, phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa nhập khẩu cần phải nâng cao hơn nữa năng lực của cơ quan hải quan trong việc phân tích, phân loại, áp mã số thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhằm đảm bảo việc áp mã số thuế tuân thủ theo đúng chuẩn mực quốc tế về phân loại và mã hóa hàng hóa xuất nhập khẩu. - Đổi mới qui trình thủ tục hải quan cho phù hợp cơ chế tự kê khai thuế, tự nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việc đổi mới qui trình thủ tục thu nộp thuế, theo hướng đối tượng nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu có trách nhiệm kê khai đầy đủ, chính xác, mình bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai; nộp tờ khai hải quan cho cơ quan hải quan, tính thuế và nộp thuế vào ngân sách nhà nước cầm phải đổi mới qui trình thủ tục hải quan, nhằm đảm bảo tăng cường hỗ trợ kỹ thuật trong việc đối tượng nộp thuế tự kê khai, bao gồm áp mã số thuế, giá tính thuế…; đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan hải quan trong việc kiểm tra tính chính xác của việc kê khai thuế, nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sửa đổi qui trình thủ tục hải quan hiện hành cho phù hợp với qui trình thủ tục kê khai, nộp thuế cũng như phải đảm bảo phù hợp với qui định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan. - Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức thu, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế Để đảm bảo thu đúng, thu đủ các khoản nợ đọng thuế, cần có cơ chế phối hợp giữa Bộ tài chính và các Bộ có liên quan như: Bộ công an, Bộ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các tổ chức tín dụng để thu ngay vào ngân sách nhà nước các khoản nợ đọng có khả năng thu hồi trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có liên quan đến lĩnh vực thuế; phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng Quy chế trao đổi, cung cấp thông tin và phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan nhằm đảm bảo thu đủ các khoản nợ đọng thuế. Trong đó, phối hợp với bộ Kế hoạch và đầu tư và Bộ thương mại nhằm trao đổi thông tin về chính sách mặt hàng, thành lập mới và giải thể doanh nghiệp; phối hợp với cơ quan ngân hàng để nắm số dư trong tài khoản, kiểm soát quá trình thanh toán; phối hợp với Bộ tư pháp, bộ Công an và các cơ quan liên quan xây dựng qui chế cưỡng chế thu nợ thuế; đồng thời cần có biện pháp xử lý các khoản nợ đọng không có khả năng thu hồi. Có được sự phối hợp đồng bộ, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo qui định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ phát huy hiệu quả tích cực, sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng nợ đọng thuế. - Nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc theo dõi, quản lý và thu hồi nợ đọng thuế Như đã phân tích ở trên, nợ đọng thuế phát sinh từ nhiều nguyên nhân, trong đó việc tổ chức quản lý, theo dõi, xử lý nợ đọng đồng bộ, kịp thời và hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong việc kiểm soát tình trạng nợ đọng, chủ động có kế hoạch trong việc đề ra các giải pháp thu hồi nợ. Ngoài ra, vấn đề nợ đọng thuế còn liên quan đến quá trình xét miễn thuế, hoàn thuế đối với hàng hóa sử dụng vào mục đích sản xuất hàng xuất khẩu cũng như đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu, sản phẩm xuất khẩu… để xác định chính xác số thuế được miễn và số thuế còn phải truy thu. Trong điều kiện áp dụng cơ chế tự khai thuế, tự nộp thuế thì yêu cầu kiểm tra, kiểm soát cần phải được tăng cường hơn. Vì vậy, để làm tốt công tác này cần phải có bộ phận chuyên trách, có đội ngũ công chức hải quan có kinh nghiệp về nghiệp vụ kế toán, ngân hàng, kiểm toán… giúp cơ quan hải quan trong việc tổ chức theo dõi, quản lý, quyết toán thuế và thu hồi nợ đọng thuế. - Đảm bảo quyền khiếu kiện, khiếu nại của đối tượng nộp thuế; đồng thời cần triển khai sớm thực hiện cơ chế giám sát thi hành pháp luật thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Khi chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã đảm bảo tính công bằng, minh bạch, ổn định và dễ thực hiện, kể cả đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan đều nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng là yếu tố cơ bản hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. Tuy nhiên, để đảm bảo tính thực tiễn của chính sách thì đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan đều phải nghiêm trỉnh chấp hành, bên nào sai thì phải xử lý theo qui định của pháp luật, tạo sự bình đẳng trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế. Theo đó, để tạo điều kiện bình đẳng giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan hải quan cần đổi mới qui trình, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại theo đúng qui định của công ước KYOTO. Cụ thể là đối tượng nộp thuế có quyền lựa chọn khiếu nại với cơ quan hành chính hay khiếu nại ra tòa án để đảm bảo minh bạch và công bằng. Thực hiện bình đẳng và dân chủ trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế cũng là yêu cầu cần thiết để mỗi công chức hải quan, cơ quan hải quan có nghĩa vụ tuân thủ, trách sự đùn đẩy trách nhiệm mà phần thiệt thuộc về đối tượng nộp thuế. Đồng thời, để đảm bảo tính tuân thủ pháp luật về thuế, cần phải bổ sung ngoài quyền kiểm tra, thanh tra về thuế còn có sự giám sát của toàn xã hội đối với công tác thuế nhằm phát hiện xử lý kịp thời các hành vi trái pháp luật của cơ quan hải quan, công chức hải quan và đối tượng nộp thuế, gây hậu quả xấu làm thiệt hại đến lợi ích Nhà nước. - Nâng cao năng lực cưỡng chế, thu hồi nợ đọng thuế cho cán bộ, công chức hải quan Để thu hồi nợ đọng thuế, đòi hỏi công chức hải quan trực tiếp theo dõi nợ thuế phải nắm rõ đối tượng nợ thuế, số nợ thuế, tuổi nợ đối với từng loại thuế, từng lô hàng; thường xuyên cập nhật thông tin liên quan đến nợ thuế và thu hồi nợ thuế. Trong điều kiện năng lực tổ chức, quản lý và thu hồi nợ đọng thuế của công chức hải quan trực tiếp làm công tác cưỡng chế và thu hồi nợ đọng thuế còn hạn chế thì cần thiết phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về cưỡng chế, thu hồi nợ đọng thuế, với chương trình đào tạo, bồi dưỡng hợp lý tập trung vào kỹ thuật kiểm tra, kiểm soát nợ thuế, thu thập, cung cấp và xử lý nợ đọng thuế và hệ thống cơ sở dữ liệu để quản lý đối tượng nộp thuế của cơ quan hải quan. - Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước trong đấu tranh chống gian lận thương mại qua giá + Tham khảo kinh nghiệm của các nước trong đấu tranh chống gian lận thông quan các cuộc họp thường niên của Tổ chức Hải quan thế giới. + Ký kết các Hiệp định hợp tác với Hải quan các nước trong việc hỗ trợ cung cấp thông tin về hàng hoá, trị giá, tên doanh nghiệp nhập khẩu... Tóm lại, xuất phát từ những nguyên tắc, quan điểm và yêu cầu cụ thể trong việc hoàn thiện chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng thích ứng của chính sách thuế nói chung, phù hợp với điều kiện kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong chương này, đề tài đã đề xuất các giải pháp dựa trên nền tảng lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để tiến hành cải cách cơ bản chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, xây dựng cơ chế bảo lãnh, ký quĩ thông quan phù hợp với công ước KYOTO về hài hòa thủ tục hải quan, đến việc tăng cường các biện pháp chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đối với hàng hóa nhập khẩu làm cho chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu trong tương lai sẽ có thể đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đồng thời chỉ ra sự cần thiết phải có các điều kiện để tổ chức thực thi chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như các điều kiện về tổ chức thông tin đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như các điều kiện về tổ chức hệ thông thông tin về đối tượng nộp thuế, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, cơ quan cưỡng chế thuế, cũng như về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ… là đòi hỏi khách quan nhằm đưa chính sách thuế đặc biệt là chính sách ân hạn thuế được thực thi có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn nền kinh tế. KẾT LUẬN Vấn đề thất thu thuế nói chung, trong đó có thất thu thuế nhập khẩu luôn là hai mặt trong cùng một vấn đề. Việc tìm ra nguyên nhân, giải quyết ngay từ đầu, từ khâu hoạch định chính sách đến cơ chế tổ chức thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiểm soát có hiệu quả tình trạng nợ đọng thuế, tiến tới hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nợ đọng thuế. Yêu cầu đặt ra cho chính sách thuế nhập khẩu là vừa bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, trong đó mục tiêu bảo hộ phải đảm bảo thích ứng với các nguyên tắc của WTO và cam kết quốc tế. Trong điều kiện hàng rào phi thuế quan đã và đang xóa bỏ triệt để, chỉ dành chỗ cho hàng rào thuế quan; biện pháp thuế quan cũng chỉ dừng lại ở chỗ thuế quan hóa các hàng rào phi thuế quan. Ngoài ra, chính sách bảo hộ cũng phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử, trong phạm vi cam kết thuế quan thông quan mức thuế suất trần đối với từng dòng thuế; các biện pháp trợ cấp để hỗ trợ xuất khẩu cũng từng bước bị bãi bỏ. Do vậy, chinh sách ân hạn thuế được xem là biện pháp cứu cánh, là công cụ kinh tế chủ yếu mà chúng ta đã và đang áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn về vốn. Tuy nhiên, tính hai mặt của chính sách thuế nhập khẩu đã lộ khá rõ đó chính là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng thất thu thuế; nhưng mặt khác cũng đã góp phần khuyến khích những doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước có điều kiện giải quyết khó khăn về vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO không những trong lĩnh vực thuế mà còn cả các biện pháp để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực thi trong môi trường pháp lý bình đẳng. Vì vậy, cần hoàn thiện chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Đồng thời tăng cường biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao hơn nữa tính chủ động, tự chủ của đối tượng nộp thuế. Hy vọng rằng, những giải pháp đồng bộ trên sẽ góp phần quan trọng trong việc hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế, góp phần thực hiện có hiệu quả chính sách thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn đọc để bài viết của em được hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính - Tổng cục Thuế (1998), Chính sách thuế trong điều kiện mở rộng quan hệ với các khu vực kinh tế quốc tế 2. Bộ Tài chính (2006), Báo cáo tình hình thực hiện Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3. Bộ Tài chính (2006), Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, NXB Tài chính, Hà Nội 4. Công ước về đơn giản hóa hài hòa hóa thủ tục hải quan sửa đổi (Công ước KYOTO) 5. Cục tin học và thống kê - Tổng cục Hải quan, Tổng cục thuế (2007), Báo cáo tình hình thu thuế giai đoạn 1998-2007. 7. Cục tin học và thống kê - Tổng cục Hải quan (2007), Báo cáo thực trạng thất thu nhập khẩu ở Việt Nam 8. Đoàn Ngọc Xuân (2005), “Ân hạn thuế, nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu- thực trạng và giải pháp” 9. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình Nghiệp vụ Thuế (2005), NXB Tài chính 10. Học viện Tài chính (2005), Giáo trình lý thuyết thuế, NXB Tài chính 11. Quách Đức Pháp (1999), Thuế - Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội 12. Quỹ tiền tệ Quốc tế Việt Nam (2002), Áp dụng tự khai, tự tính, tự nộp thuế và cải cách quản lý thuế 13. Tổng cục Hải quan (1995), Các phương pháp xác định trị giá theo GATT và kiểm toán hải quan, NXB Tài chính, Hà Nội. 14. Tổng cục Hải quan (2003), Luật Hải quan một số nước, NXB Chính trị Quốc gia 15. Tổng cục Hải quan (2005), Hồ sơ xử lý nợ đọng thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu 16. Tổng cục Hải quan (2005), Phân tích nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 17. Tổng cục Hải quan (2006), Danh mục các văn bản Luật Hải quan và luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 18. Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thuế (2004), Báo cáo kết quả hội thảo – Thách thức trong cải cách quản lý thuế và hải quan 19. Tổng cục thuế (2000) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về “Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001 – 2010” 20. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2003), Các văn kiện cơ bản của Tổ chức Thương mại thế giới

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31582.doc
Tài liệu liên quan